The estimation of the present day tectonic movement and tectonic gradient (strain
rate) has an important practical signification in the assessment of active fault and seismic hazards
for the selection of Ninh Thuan nuclear power plant. Based on the three campaigns of GPS
measurement between 2012 - 2013, we used BERNESE 5.0 software to determine present day slip
rates of 13 stations in ITRF08 frame. The GPS stations move eastwards at the slip rates of 22 - 25
mm/yr, southwards at the velocities of 5 - 10 mm/yr. The standard errors in latitudinal and
longitudinal directions are 1.2 mm/yr and 0.9 mm/yr, respectively. Combined with GPS data from
the project of the study on actual geodynamics in Tay Nguyen TN3/06, we determined the strain rate
ranging from 50 to 100 nanostrains with the standard error of 50 nanostrains. The direction of
maximum compressive strain rate is from northwest - southeast to east - west.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
16 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 705 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Gradient kiến tạo hiện đại khu vực Ninh Thuận và lân cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 209
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 3; 2015: 209-224 
DOI: 10.15625/1859-3097/15/3/7216 
GRADIENT KIẾN TẠO HIỆN ĐẠI KHU VỰC 
NINH THUẬN VÀ LÂN CẬN 
Phan Trọng Trịnh*, Ngô Văn Liêm, Vy Quốc Hải, Trần Văn Phong, Nguyễn Văn Hướng, 
Nguyễn Viết Thuận, Nguyễn Quang Xuyên, Bùi Văn Thơm, Nguyễn Đăng Túc, Hoàng 
Quang Vinh, Nguyễn Huy Thịnh, Bùi Thị Thảo, Trần Quốc Hùng 
Viện Địa chất-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
*E-mail: phantrongt@yahoo.com 
Ngày nhận bài: 15-1-2015 
TÓM TẮT: Đánh giá vận tốc chuyển động kiến tạo hiện đại và gradient kiến tạo hiện đại có ý 
nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc đánh giá đứt gãy hoạt động nguy hiểm động đất phục vụ xây 
dụng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Trên cơ sở đo 3 chu kỳ GPS vào các năm 2012 - 2013, sử 
dụng phần mềm BERNESE 5.0, chúng tôi đã xác lập được vận tốc chuyển động kiến tạo hiện đại tại 
13 điểm đo GPS trong khu vực lân cận bao gồm kéo dài từ Nha Trang tới đảo Phú Quý. Vận tốc 
chuyển dịch kiến tạo hiện đại về phía đông thay đổi từ 22 - 25 mm/năm và chuyển dịch về phía nam 
với vận tốc giao động từ 5 - 10 mm/năm trên hệ tọa độ toàn cầu ITRF08. Sai số vận tốc chuyển dịch 
kiến tạo về phía đông giao động trong khoảng 1,2 - 1,5 mm/năm và về phía nam giao động trong 
khoảng 0,9 - 1,2 mm/năm. Liên kết với giá trị đo GPS từ đề tài nghiên cứu địa động lực hiện đại khu 
vực Tây Nguyên mã số TN3/T06, chúng tôi đã xác định được giá trị vận tốc biến dạng giao động từ 
50 nano tới 100 nano biến dạng với sai số giao động trong khoảng 50 nano biến dạng. Trục biến 
dạng nén cực đại giao động theo phương thay đổi từ bắc nam sang đông bắc - tây nam. Trục biến 
dạng căng cực đại có phương thay đổi từ tây bắc - đông nam sang phương đông - tây. 
Từ khóa: GPS, kiến tạo hiện đại, vận tốc, gradient kiến tạo, vận tốc biến dạng, trục biến dạng 
nén cực đại, trục biến dạng giãn cực đại. 
MỞ ĐẦU 
Đánh giá chuyển động kiến tạo hiện đại 
trong một khu vực hay một lãnh thổ có ý nghĩa 
vô cùng quan trọng. Trước hết cho phép làm 
sáng tỏ cơ chế biến dạng thạch quyển, phát hiện 
các đới đứt gãy đang hoạt động từ đó đặt cở sở 
cho việc đánh giá tai biến địa chất như nguy 
hiểm động đất, sóng thần, trượt lở. Đối với việc 
xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, 2 
tham số quan trọng có tính chất loại trừ trong 
việc lựa chọn địa điểm là đứt gãy đang hoạt 
động tồn tại lân cận nhà máy và gia tốc rung 
động cực đại không được vượt quá giá trị tới 
hạn 360 cm/s2 với chu kỳ lặp lại 10.000 năm. 
Ngoài ra, theo tiêu chuẩn của Nga thì gradient 
kiến tạo hiện đại mà thực chất là vận tốc biến 
dạng hiện đại cũng là một trong những tiêu chí 
ngoại trừ nếu khu vực nhà máy có gradient kiến 
tạo vượt quá giá trị 10-6/năm. Giá trị này còn là 
tham số đầu vào để đánh giá nguy hiểm động 
đất của các nhà tư vấn Nga. 
Bài báo này trình bày những kết quả mới 
nhất về xác định vận tốc chuyển dịch kiến tạo 
hiện đại trên khu vực Ninh Thuận và lân cận 
trên cở sở các số đo GPS trên 13 trạm trong 3 
chu kỳ 2012 - 2013. Vận tốc chuyển dịch tuyệt 
đối được tính toán trên mạng lưới toàn cầu 
ITRF08. Trên cơ sở các số liệu về vận tốc 
chuyển dịch trên khu vực Ninh Thuận và lân 
cận, kết hợp với giá trị vận tốc chuyển động 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 210
hiện đại đo từ mạng lưới Châu Á - Thái Bình 
dương [1, 2] và từ nhiều đề tài dự án như từ đề 
tài KC09.11/06-10 và đề tài đánh giá địa động 
lực hiện đại khu vực Tây nguyên, mã số 
TN3/T06 do Phan Trọng Trịnh là chủ nhiệm [3, 
4], chúng tôi đã xác định vận tốc biến dạng 
kiến tạo hiện đại cũng như tốc độ xoay, biến 
dạng cực đại, giá trị và phương biến dạng tiếp 
cực đại cho toàn khu vực Ninh Thuận và lân 
cận. Những kết quả được trình bày ở đây sẽ 
góp phần làm sáng tỏ đặc điểm địa động lực 
hiện đại khu vực Ninh Thuận từ đó đặt cơ sở 
cho việc lựa chọn nhà máy điện hạt nhân 
Ninh Thuận. 
BỐI CẢNH KIẾN TẠO PLIOCEN - ĐỆ TỨ 
KHU VỰC NINH THUẬN VÀ LÂN CẬN 
Dọc theo rìa lục địa Việt Nam, những sự 
thay đổi lớn về kiến tạo và trầm tích đã xảy ra 
từ khoảng ranh giới Paleogen - Neogen. Trong 
suốt Neogen sớm, sự phá vỡ lục địa ở phần 
phía nam của Biển Đông lan truyền về phía tây 
nam và đã kích thích quá trình tách giãn đáy 
biển trong khu vực giữa Việt Nam và Borneo 
ngày nay [5- 8]. Một sự thay đổi cấu trúc quan 
trọng trong Miocen sớm, đi kèm là biển tiến 
rộng khắp xảy ra trong các bể ngoài khơi ở 
miền Nam và miền Trung Việt Nam. Ở phía 
bắc bể Phú Khánh, sự phát triển rộng khắp của 
cacbonat bắt đầu do sự lún chìm tái xảy ra sau 
khi sự tạm ngừng của vận động trượt trái của 
đứt gãy ranh giới Đông Việt Nam chỉ ra rằng 
biển tiến Miocen sớm cũng đã ảnh hưởng đến 
khu vực này. Hoạt động núi lửa Neogen sớm 
trong bể Phú Khánh thể hiện bởi núi lửa bazan 
kiềm Miocen sớm - giữa gặp trong lỗ khoan 
phía bắc của bể [9, 10]. Hoạt động núi lửa rộng 
khắp trên khu vực Ninh Thuận và miền Trung 
Đông Dương có tuổi sau Neogen sớm, mặc dù, 
chỉ có một số lượng nhỏ bazan ở miền Trung 
Việt Nam có tuổi Miocen sớm và giữa cho thấy 
sự khởi đầu sớm hơn của hoạt động núi lửa [9, 
11-15]. 
Trong bể Sông Hồng, một sự thay đổi từ 
căng ngang vừa phải tới ép ngang đã xảy ra ở 
khoảng ranh giới Miocen sớm - giữa [6, 7]. 
Trong suốt Neogen sớm, sự phá vỡ lục địa ở 
phần phía nam của Biển Đông lan truyền về 
phía tây nam và bởi vậy đã kích thích quá trình 
tách giãn đáy biển trong khu vực giữa Việt 
Nam và Borneo ngày nay [5] đã minh giải sự 
lan truyền về phía tây nam đã dừng lại ở dị 
thường số 6 tương ứng với khoảng 19 - 20 Ma, 
vài triệu năm trước sự ngừng nghỉ cuối cùng 
của quá trình tách giãn đáy biển. Dựa trên vận 
tốc tách giãn không thay đổi sau sự thành tạo 
của dị thường trẻ nhất có thể nhận dạng (5D) 
[5] đã cho rằng quá trình tách giãn đáy biển kết 
thúc ở khoảng dị thường từ 5C tương ứng với 
khoảng thời gian 16 - 17 triệu năm, trái lại, 
nghiên cứu lại kiểu dị thường từ đã cho thấy 
rằng quá trình tách giãn đáy biển kết thúc sớm 
hơn cỡ khoảng 20.5 triệu năm tại dị thường 
từ 6A1. 
Một sự thay đổi cấu trúc quan trọng trong 
Miocen sớm, đi kèm là biển tiến rộng khắp xảy 
ra trong các bể ngoài khơi ở miền Nam và miền 
Trung Việt Nam [8]. Trong bể Cửu Long, quá 
trình sụt lún hậu rift Neogen dẫn tới biển tiến 
quy mô toàn bể được minh giải là sự thay đổi 
lên phía trên từ các trầm tích silicic lục địa sang 
đại dương chiếm ưu thế trong suốt Miocen sớm 
[16]. 
Trong bể Nam Côn Sơn, quá trình rift mạnh 
tái hoạt hoá dọc theo các đứt gãy phương tây 
bắc - đông nam tới bắc - nam sau Paleogen 
nhằm phản ứng lại sự lan truyền về phía tây 
nam của sự phá vỡ lục địa [16]. Phản ứng lại 
cánh tách giãn mở rộng của tây nam Biển Đông 
đang tiến lại gần, có hiện tượng biển tiến dần 
dần trong bể này, nó tạo nên sự chiếm ưu thế 
của các trầm tích silicic biển Miocen dưới với 
các đới tướng bị khống chế về mặt cấu trúc. 
Khi biển tiến tiếp tục, quá trình ngập sâu dần 
dần xảy ra ở các trung tâm sụt lún của bể và 
tích tụ cacbonat khắp nơi bắt đầu xảy ra. Trong 
suốt Miocen giữa - muộn, mực nước biển thấp 
tương đối tạm thời làm gián đoạn tích tụ 
cacbonat. Bất chỉnh hợp này dễ thấy cắt cụt các 
thành tạo nằm dưới và đánh dấu hiện tượng 
giảm rõ rệt của quá trình rift. 
Ở phía bắc bể Phú Khánh, các rift phương 
bắc - nam tới tây bắc - đông nam bị ảnh hưởng 
bởi sự lún chìm dọc theo rìa bể [7, 16-18] đã 
trình bày bằng chứng về các đứt gãy trượt phải 
phương tương tự ngay trên bờ và đã cho rằng 
sự khởi phát của vận động trượt phải là trong 
Neogen sớm. 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 211
Ở phía bắc Bể Phú Khánh, sự phát triển 
rộng khắp của cacbonat bắt đầu do sự lún chìm 
tái xảy ra sau khi sự tạm ngừng của vận động 
trượt trái của đứt gãy ranh giới Đông Việt Nam 
chỉ ra rằng biển tiến Miocen sớm cũng đã ảnh 
hưởng đến khu vực này [9, 10, 16]. Các thành 
tạo cacbonat kết nối với nhau tạo thềm 
cacbonat Tri Tôn, tạo nên một thềm cacbonat 
lớn kéo dài tới phía bắc của bể [8-10]. Hoạt 
động núi lửa Neogen sớm trong bể Phú Khánh 
đã được trình bày trong [9, 10], được ủng hộ 
bởi núi lửa bazan kiềm Miocen sớm - giữa gặp 
trong lỗ khoan phía bắc của bể. Hoạt động núi 
lửa rông khắp trên đất liền ở miền Nam và 
miền Trung Indochina có tuổi sau Neogen sớm, 
mặc dù, chỉ có một số lượng nhỏ bazan ở miền 
Trung Việt Nam có tuổi Miocen sớm và giữa 
cho thấy sự khởi đầu sớm hơn của hoạt động 
núi lửa [11, 12, 14, 15]. 
Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu và cấu trúc địa chất khu vực Ninh thuận và lân cận 
[Biên chỉnh theo Fyhn và nnk,. 2009] 
Các khu vực rộng lớn đông nam của 
Indochina được phủ bởi các cao nguyên bazan 
lớn chủ yếu có tuổi Neogen muộn, nó được gán 
với các điểm dâng lên của vòm manti, quá trình 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 212
làm mỏng vỏ hay manti trên nóng mang tính 
khu vực bên dưới khu vực tương ứng của 
Indochina [11, 12]. Ở nhiều nơi, hoạt động đứt 
gãy căng giãn đi kèm hoạt động núi lửa này 
được đề xuất qua bằng chứng là sự tiêm nhập 
của bazan dọc theo các mặt đứt gãy thuận và 
các đứt gãy dịch chuyển ngang bazan Miocen 
muộn tới gần hiện tại [7]. Các đứt gãy này thể 
hiện định hướng bắc - nam và đông bắc - tây 
nam, hầu hết là kế thừa các cấu trúc có trước. 
Hoạt động núi lửa này dẫn tới hoạt động 
nâng mạnh và gia tăng hiện tượng bào mòn ở 
phần đông nam của Indochina. Mặc dù điểm 
khởi phát của hoạt động magma xảy ra trong 
suốt Neogen sớm, hiện tượng nâng nhanh 
chóng liên quan này chỉ được bắt đầu ở khoảng 
Miocen giữa - muộn khi hoạt động núi lửa trên 
đất liền được tăng cường. Hiện tượng nâng này 
đã ảnh hưởng đến khí hầu và hải dương cục bộ, 
cùng với sự tăng cường liên quan của việc cung 
cấp trầm tích trên bờ ảnh hưởng tới sự phát 
triển của bể bên trong và xung quanh các bể 
Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn và bể 
Phú Khánh [9, 10, 17]. 
Trong suốt đầu Neogen muộn, tích tụ 
cacbonat trong khu vực bể Nam Côn Sơn chủ 
yếu xảy ra trên các điểm cao cấu trúc. Theo 
cùng sự hạ xuống tương đối của mực nước biển 
Miocen giữa - muộn liên quan với sự khởi phát 
của nâng trồi trên đất liền, các thềm cacbonat 
dọc theo rìa lục địa này rút lui xa hơn và cuối 
cùng biến mất [9, 10]. Kết quả là tích tụ silicic 
trở nên chiếm ưu thế cuối Neogen và sự mở 
rộng sau đó của thềm lục địa miền Trung và 
Nam Việt Nam đã xảy ra để phản ứng lại 
nguồn cung cấp trầm tích lục nguyên tăng lên. 
Nhìn chung hoạt động kiến tạo trong giai 
đoạn Đệ tứ tập trung ở một số đứt gãy như đứt 
gãy Sông Hồng, Điện Biên - Lai châu, Sông Cả 
[19, 20]. Ở Khu vực Ninh Thuận, hoạt động 
kiến tạo trẻ thể hiện rõ nét nhất là dọc đới đứt 
gãy Sông Ba. Rất nhiều bằng chứng cho thấy 
hoạt động của đứt gãy xảy ra trong thời gian Đệ 
tứ. Tuy nhiên chúng tôi không đi vào chi tiết 
trong bài báo này. Một số đập hồ chứa dọc lưu 
vực sông này và vùng lân cận có thể bị ảnh 
hưởng của hoạt động kiến tạo trẻ và địa động 
lực hiện đại. Hoạt động kiến tạo hiện đại trên 
toàn châu Á hoặc khối Sunda đã được công bố 
trong các công trình trước đây [1, 21-35], hay ở 
Việt Nam [3, 4, 36-40]. Tuy nhiên ở khu vực 
Ninh Thuận hoàn toàn vắng mặt các số đo 
GPS, vì vậy trong đề tài này chúng tôi phải tạo 
lập các số đo nguyên thủy, từ đó cho phép xác 
định được vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện 
đại trong mạng lưới định vị toàn cầu mới nhất 
ITRF08, cũng như xác định vận tốc biến dạng 
hiện đại cho toàn khu vực và lân cận. 
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Số liệu 
Bảng 1. Lịch đo GPS đợt tháng 3, 4 năm 2012 
của mạng lớn 
Ngày 
GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV 
59 x x 
60 x x 
61 x x 
62 x x 
102 x x x x x x 
103 x x x x x x 
104 x x x x x x 
105 x x x x x x 
106 x x x x x x 
107 x x x x x x 
Trong khu vực Ninh Thuận, trong các đề tài 
và dự án trước đây vắng mặt hoàn toàn các dữ 
liệu đo GPS vì vậy chúng tôi phải tiến hành đo 
mới toàn bộ số liệu tại 12 trạm đo. Các trạm đo 
đều được đặt trên đá gốc. Phần lớn các trạm 
đều được xây dựng theo quy chuẩn của trạm đo 
địa động lực với việc xây cố định cột mốc, bắt 
vít ăng ten, việc này làm giảm sai số định tâm 
của ăng ten. Tại một số trạm, để đảm bảo an 
toàn cho các cột mốc nên chúng tôi giấu điểm 
mốc sau mỗi lần đo và sử dụng chân máy đo 
khi đo số liệu. Để giảm thiểu sai số định tâm, 
cứ sau mỗi ca đo chúng tôi lại định tâm lại để 
giảm thiểu sai số hệ thống gây ra do việc định 
tâm. Mỗi ca đo được thực hiện trong 23 h 45 
phút. Các số liệu được ghi tự động trong mỗi 
khoảng thời gian 30 giây. Tại mỗi điểm đo, 
chúng tôi đã thực hiện tối thiểu 4 ca đo. Tại 
một số vị trí quan trọng, mỗi kỳ đo có thể thực 
hiện 8 - 10 ca đo. Ngoài ra, chúng tôi phải sử 
dụng các số đo từ các trạm đo quốc tế IGS để 
xác lập vị trí của các điểm đo trên mạng lưới 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 213
toàn cầu ITRF08. Để xác định vận tốc biến 
dạng của khu vực Ninh Thuận, chúng tôi đã sử 
dụng các giá trị về vận tốc chuyển động kiến 
tạo xác định được ở khu vực Ninh Thuận, kết 
hợp với các giá trị về vận tốc chuyển dịch từ dự 
án Châu Á - Thái Bình Dương và đề tài 
KC09.11/06-10, đề tài nghiên cứu xác định 
gradient kiến tạo phục vụ xây dựng nhà máy 
điện Hạt nhân Ninh Thuận do chính tác giả làm 
chủ nhiệm. 
Bảng 2. Lịch đo GPS tháng 5 năm 2012 của mạng nhỏ 
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA 
1 129 x 
2 130 x x 
3 131 x 
4 132 x 
5 133 x x 
6 134 x 
7 135 x x x 
8 136 x x x x 
9 137 x x x x 
10 138 x x x x 
11 139 x x x x 
12 140 x x x x 
13 141 x x x x 
14 142 x x x x 
15 143 x x x x 
Chu kỳ 2 
Bảng 3. Lịch đo của đợt đo tháng 12/2012 và 01/2013 mạng lưới nhỏ 
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA 
1 364 x x x 
2 365 x x x 
3 366 x x x 
4 001 x x x 
5 002 x x x 
6 003 x x x 
7 004 x x x 
8 005 x x x 
9 006 x x x 
10 007 x x x 
11 008 x x x 
12 009 x x x 
Bảng 4. Lịch đo GPS đợt đo tháng 3 năm 2013 mạng lưới lớn 
Ngày GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV 
61 x x x x x 
62 x x x x x 
63 x x x x x 
64 x x x x x 
65 x x x 
66 x x x 
67 x x x x 
68 x x x x 
69 x x x x 
70 x x x x 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 214
Bảng 5. Lịch đo của đợt đo tháng 9/2013 lưới nhỏ 
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA 
1 262 x x x x 
2 263 x x x x 
3 264 x x x x 
4 265 x x x x 
5 266 x x x x 
6 267 x x x x 
7 268 x x x x 
8 269 x x x x 
9 270 x x x x 
Bảng 6. Lịch đo GPS đợt đo tháng 10 năm 
2013 lưới lớn 
Ngày 
GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV 
275 x x x x x x 
276 x x x x x x 
277 x x x x x x 
278 x x x x x x 
279 x x x x x x 
Để thực hiện các nội dung trên, chúng tôi 
đã áp dụng các phương pháp chính sau: 
Phương pháp phân tích hệ thống định vị toàn 
cầu GPS 
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 
các phương pháp như: Phương pháp quan trắc, 
thu thập số liệu; Phương pháp kiểm tra chất 
lượng số liệu; Phương pháp xử lý số liệu; 
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được 
áp dụng đồng thời các phương pháp hoặc riêng 
rẽ từng phương pháp nhằm lựa chọn phương án 
tiến hành các nội dung đề tài; 
Với sự phát triển công nghệ sử lý GPS có 
độ chính xác cao, để xác định chuyển động 
kiến tạo hiện đại với vận tốc cỡ một vài 
mm/năm, bên cạnh việc kéo giãn khoảng thời 
gian giữa hai chu kỳ đo, sử dụng phần mềm 
tiên tiến, người ta còn phải nghiên cứu và áp 
dụng hàng loạt các biện pháp kỹ thuật nâng cao 
độ chính xác khi thiết lập lưới, thu thập cũng 
như xử lý số, điển hình như: áp dụng các giải 
pháp kỹ thuật thi công mốc, loại trừ tối đa các 
dịch chuyển do các yếu tố ngoại sinh, không có 
nguồn gốc kiến tạo, mốc ở vị trí thông thoáng 
thuận lợi thu tín hiệu vệ tinh; Lựa chọn phương 
pháp đo tĩnh (thu thập số liệu) với ca đo đủ dài, 
tần suất thu tín hiệu 30 giây. Tuỳ đồ hình lưới, 
lựa chọn và tiến hành số lượng ca đo đủ lớn, 
nhiều trị đo dư tạo điều kiện kiểm tra sai sót; 
Chúng tôi đã tiến hành đo liên tục 5 ngày đêm 
tại mỗi điểm đo, lựa chọn phương án xử lý hậu 
kỳ (postprocessing) cho số liệu đã được kiểm 
tra và đánh giá chất lượng, bằng các phần mềm 
khác nhau. Phần mềm được chúng tôi sử dụng 
ở đây là BERNESE 5.0. Đây là phần mềm 
chuẩn quốc tế được sử dụng trong các tính toán 
vận tốc chuyển dịch GPS và công bố quốc tế. 
Phương pháp tính biến dạng 
Để tính biến dạng, chúng tôi đã sử dụng 
phần mềm QOCA (Quasi-Observation 
Combination Analysis), là gói phần mềm cho 
phép kết hợp các lời giải vận tốc chuyển dịch 
khác nhau nhằm thu được thông tin về biến 
dạng của vỏ trái đất. Cơ sở lý thuyết của phần 
mềm được hoàn thiện và công bố năm 1998 
[21]. QOCA chấp nhận nhiều định dạng kết quả 
tính khác nhau từ các phần mềm xử lý số liệu 
GPS như: GIPSY, GAMIT, FONDA, GLOBK, 
BERNESE. Trong quá trình phát triển, QOCA 
đã trải qua nhiều phiên bản khác nhau chạy trên 
hệ điều hành họ UNIX. Trong nghiên cứu nay, 
chúng tôi sử dụng phiên bản 1.34 với chương 
trình tính biến dạng được gọi là 
ANALYZE_STRAIN thay thế cho chương trình 
tính biến dạng CAL_STR được phát triển trong 
các phiên bản trước phiên bản 1.27. Người sử 
dụng cần phải định dạng các đa giác cần tính 
biến dạng từ lưới quan trắc với các lựa chọn 
tính hoặc trong các tam giác Delauney hoặc 
tính biến dạng trung bình trong một tập hợp 
điểm quan trắc hoặc tính biến dạng trung bình 
trong các đa giác nhất định. Nghiên cứu áp 
dụng cách tính biến dạng trung bình trong các 
đa giác đã định sẵn [22, 23]. Từ trường vận tốc 
chuyển dịch, chương trình tính biến dạng này 
cho phép tính các tham số biến dạng, với kết 
quả đầu ra bao gồm: vận tốc biến dạng chính 
lớn nhất và nhỏ nhất, vận tốc xoay, góc lệch 
giữa phương của trục biến dạng chính nhỏ nhất 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 215
và phương bắc, vận tốc biến dạng trương nở và 
vận tốc biến dạng trượt cực đại  
KẾT QUẢ 
Chuyển động kiến tạo hiện đại 
Hình 2. Biểu đồ sai số trung phương các thành 
phần theo chiều dài cạnh của các ngày đo chu 
kỳ tháng 3/2013 mạng lưới lớn 
Hình 3. Biểu đồ sai số trung phương các thành 
phần theo chiều dài cạnh của tất cả các ngày đo 
chu kỳ tháng 10/2013 mạng lưới lớn 
Từ kết quả của 3 đợt đo GPS của mạng lưới 
gồm 12 điểm đo thuộc lưới Ninh Thuận, chúng 
tôi đã tính được tọa độ chính xác của các điểm 
đo trong mạng lưới theo từng chu kỳ đo năm 
2012 và 2013 với sai số trung phương của từng 
thành phần theo chiều dài cạnh như biểu đồ 
hình 2 và hình 3. 
Bảng 7. Vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện đại tương đối so với điểm CAD1 
Đơn vị tính: mm/năm 
Station Lon Lat Ve Vn Vu Re Rn Ru 
NPU1 108,8627 11,4941 -2,9 -0,7 -6,3 0,7 0,5 1,5 
NSO1 108,8794 11,6397 1,9 -1,8 -24,3 0,6 0,4 1,8 
PKA1 109,0236 11,7452 -0,9 7,0 -6,8 0,4 0,7 1,6 
PMI1 108,9030 11,4222 0,1 2,4 2,9 0,5 0,8 1,5 
THA1 109,1602 11,6250 1,2 -0,8 -12,4 0,7 0,3 1,6 
TUT1 108,9713 11,4672 -0,3 2,1 -9,4 0,4 0,6 1,5 
VIS1 109,1963 11,7180 -0,2 0,3 3,2 0,8 0,6 1,7 
Chú thích: Ve - Vận tốc theo hướng đông; Vn - Vận tốc theo hướng bắc, Vu - Vận tốc theo 
phương thẳng đứng, Re, Rn và Ru là sai số tương ứng; đơn vị tính mm/năm. 
Kết quả xác định vận tốc chuyển động kiến 
tạo hiện đại được trình bày trong bảng 7 và 8. 
Các giá trị trên là vận động tuyệt đối tính trong 
lưới chiếu toàn cầu ITRF08. Cột thứ nhất thể 
hiện tên trạm đo, cột thứ 2 và cột thứ 3 thể hiện 
tọa độ điểm đo. Cột thứ 4 (Ve) thể hiện vận tốc 
chuyển dịch tuyệt đối trong mạng lưới ITRF08 
theo phương vĩ tuyến, ở đây giá trị “+” thể hiện 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 216
chuyển dịch về phía đông, giá trị “-” thể hiện 
chuyển dịch về phía tây. Đơn vị là mm/năm. Cột 
thứ 5 (Vn) thể vận tốc chuyển dịch theo phương 
kinh tuyến trong cùng hệ lưới, giá trị “-” thể hiện 
chuyển dịch về phía nam, giá trị “+” thể hiện 
chuyển dịch về phía bắc, Vu thể hiện vận tốc 
chuyển dịch theo phương thẳng đứng, giá trị “+” 
thể hiện nâng lên, giá trị “-” thể hiện hạ.
Bảng 8. Vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện đại trong mạng lưới toàn cầu ITRF08 
Đơn vị tính: mm/năm 
Station Lon Lat Ve Vn Vu Re Rn Ru 
NPU1 108,8627 11,4941 22,8 -7,8 -15,7 0,5 0,4 1,7 
NSO1 108,8794 11,6397 26,1 -10,0 -34,2 0,6 0,5 2,3 
PKA1 109,0236 11,7452 21,4 -0,8 -25,0 0,5 0,4 2,0 
PMI1 108,9030 11,4222 26,6 -4,3 -3,4 0,5 0,4 1,8 
THA1 109,1602 11,6250 28,5 -5,8 0,9 0,5 0,5 2,2 
TUT1 108,9713 11,4672 24,7 -6,3 -16,7 0,5 0,4 1,9 
VIS1 109,1963 11,7180 24,8 -8,9 -12,3 0,5 0,4 1,9 
CAD1 109,0100 11,6024 23,9 -7,1 -6,3 0,3 0,2 1,1 
DALA 108,4456 11,9529 23,2 -4,4 -6,1 0,3 0,3 1,2 
NHAT 109,2146 12,2073 24,7 -8,4 -4,7 0,3 0,2 1,1 
PQUY 108,9320 10,5163 25,3 -7,4 -3,4 0,3 0,2 1,1 
TUYP 108,7151 11,1807 22,5 -7,2 -0,2 0,3 0,2 1,1 
Sơ đồ phân bố các vectơ chuyển dịch trên 
lưới toàn cầu ITRF08 thể hiện trên hình 4 với 
các mũi tên màu xanh. Các mũi tên màu vàng 
là các giá trị được sử dụng từ các đề tài khác để 
xác định vận tốc biến dạng cho khu vực Ninh 
Thuận và lân cận. 
Hình 4. Sơ đồ phân bố vận tốc chuyển dịch 
kiến tạo hiện đại trong hệ thống định vị toàn 
cầu ITRF08 của các trạm đo GPS lưới Ninh 
Thuận mạng lưới lớn kéo dài từ Đà Lạt, Nha 
Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận 
Hình 5. Sơ đồ phân bố vận tốc chuyển dịch 
kiến tạo hiện đại trong hệ thống định vị toàn 
cầu ITRF08 của các trạm đo GPS lưới Ninh 
Thuận mạng lưới nhỏ trong vòng bán kính 30 
km của các vị trí dự kiến xây dựng nhà máy 
điện hạt nhân Ninh Thuận 
Vận tốc biến dạng kiến tạo hiện đại 
Từ các kết quả trên, bước đầu chúng tôi đã 
tính vận tốc chuyển dịch tuyệt đối của các điểm 
thuộc khu vực Ninh Thuận và vùng lân cận như 
được thể hiện trên bảng 8, hình 4. 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 217
Ngoài 13 điểm đo thuộc lưới Ninh Thuận, 
chúng tôi tham khảo thêm kết quả của các điểm 
đo điểm GPS ở vùng lân cận [2, 11, 16, 17, 24, 
25, 41, 42] và đã tiến hành phân chia khu vực 
nghiên cứu thành các tam giác để tính vận tốc 
biến dạng. Để nâng cao tính chính xác, các tam 
giác được lựa chọn sao cho có diện tích và 
khoảng cách các cạnh đồng đều nhất (có thể). 
Trên cơ sở 7 điểm đo GPS được lựa chọn, đã 
tiến hành phân chia khu vực nghiên cứu thành 
một mạng lưới 6 đa giác. Việc này được tiến 
hành dựa trên nguyên tắc: lấy điểm CAD1 và 
TUYP làm trung tâm để kết nối với các điểm 
xung sao cho diện tích của các đa giác không 
quá chênh lệch nhau, phù hợp với quy mô lưới 
tính biến dạng. Lưới đa giác được tạo thành có 
trọng tâm của mỗi đa giác thường nằm ở tâm 
của các cấu trúc quan trọng. 
Kết quả các giá trị vận tốc biến dạng chính 
của các tam giác này được tính toán thể hiện ở 
trọng tâm của mỗi tam giác (hình 6). 
Hình 6. Vận tốc biến dạng trong các đa giác (từ 
T1 đến T6) tính từ số liệu chuyển dịch GPS thể 
hiện các trạng thái biến dạng nén ép, trượt bằng 
hoặc căng giãn trong các đa giác khác nhau 
Khu vực nghiên cứu với quy mô lưới tính 
biến dạng lớn nhưng chỉ có 7 điểm đo GPS. Để 
thu được một trường biến dạng mang tính liên 
tục, cần phải có một trường vận tốc chuyển 
dịch với các điểm GPS phân bố tương đối đều 
trong lưới. Nhằm mô tả trường vận tốc biến 
dạng liên tục, đã tiến hành nội suy vận tốc 
chuyển dịch theo lưới 0,20 × 0,20 cho toàn vùng 
trên cơ sở vận tốc chuyển dịch của 7 điểm đã 
được lựa chọn kết hợp với số liệu đã công bố 
khu vực Nam Bộ (Trần Đình Tô), chương trình 
châu Á - Thái Bình Dương [1, 2] và Tây 
Nguyên (đề tài TN3/T06). Việc nội suy được 
tiến hành bằng phương pháp Kriging cho từng 
thành phần vận tốc. Kriging là phương pháp 
nội suy tìm ra đặc tính chung của toàn bộ bề 
mặt được thể hiện bởi các giá trị số đo, và áp 
dụng các đặc tính đó cho các phần khác của bề 
mặt. Kriging dựa trên phương pháp “phân tích 
bề mặt” và “trọng số trung bình”. Trọng số 
được xác định bởi xu hướng của những độ lệch 
giữa đường cong bề mặt toàn cầu và các điểm 
quan sát. Kết quả thu được một trường vận tốc 
chuyển dịch phân bố đều. Hình 7 giới thiệu 
trường vận tốc chuyển dịch nhận được cùng các 
vectơ vận tốc đo thực tế. Từ trường vận tốc 
chuyển dịch này, đã tiến hành tính biến dạng 
cho lưới tứ giác 0,20 × 0,20 trong phạm vi của 
các đa giác nội mảng. Mỗi ô lưới 0,20 × 0,20 
tương đương với diện tích khoảng 484 km2. 
Hình 7. Vận tốc biến dạng xoay trong các đa 
giác nội mảng 
Hình 8. Vận tốc chuyển dịch nội suy theo lưới 
0,20 × 0,20 bằng phương pháp Kriging từ các giá 
trị đo chuyển dịch tuyệt đối của các điểm GPS 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 218
Hình 9. Vận tốc biến dạng tính từ vận tốc 
chuyển dịch nội suy 
Hình 10. Vận tốc biến dạng xoay tính từ vận 
tốc chuyển dịch nội suy 
Độ lớn vận tốc biến dạng - đại lượng bất 
biến thứ hai 
Ngoài các giá trị vận tốc biến dạng chính và 
vận tốc biến dạng xoay, chúng tôi còn xác định 
một số tham số như độ lớn biến dạng mà bản 
chất là bất biến thứ 2 trong tenxơ vận tốc biến 
dạng. “Độ lớn biến dạng” tính được nằm ở tâm 
của mỗi ô vuông kích thước 0,20 × 0,20. Kết 
quả cho phép nhận dạng các khu vực biến dạng 
mạnh yếu khác nhau trong khu vực nghiên cứu. 
Theo đó, biến dạng lớn nhất là ở phía tây Bảo 
Lộc (20 nano-strain/năm) và ở tây Nha Trang 
(14 nano-strain/năm). Biến dạng yếu nhất nằm 
ở phía đông Nha Trang và vịnh Phan Thiết 
(< 2 nano-strain/năm). Khu vực Ninh Thuận có 
giá trị độ lớn biến dạng yếu, nhỏ hơn 14 nano-
strain/năm (hình 11). 
Hình 11. “Độ lớn biến dạng” tính từ vận tốc 
chuyển dịch nội suy. Giá trị này tính theo đại 
lượng bất biến thứ hai của tenxơ biến dạng. Cơ 
cấu chấn tiêu động đất theo danh mục CMT 
(1976 - 2011) 
Vận tốc biến dạng khối hai chiều - bất biến 
thứ nhất 
Độ lớn biến dạng khối hai chiều (nền màu) 
tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy. Giá trị này 
tính theo đại lượng bất biến thứ nhất của tenxơ 
biến dạng. Độ lớn biến dạng khối 2D tính được 
nằm ở tâm của mỗi ô vuông kích thước 0,20 × 
0,20. Các giá trị này được nội suy một lần nữa 
bằng phương pháp tương tự đã áp dụng cho 
tính độ lớn biến dạng. Kết quả thể hiện trên 
hình 12. 
Các vùng có giá trị dương lớn nhất là phía 
nam và tây nam Phan Rang - Ninh Thuận và 
phía tây đảo Phú Quý (14 - 18 nano-
strain/năm). Vùng có giá trị âm lớn nhất là phía 
tây bắc Đà Lạt và phía đông nam vịnh Nha 
Trang. Giá trị dương biểu thị biến dạng thuận 
lợi cho phát triển đứt gãy thuận. Giá trị dương 
của biến dạng trương nở hai chiều ở phía tây 
đảo Phú Quý phù hợp với sự có mặt của các 
trận động đất với cơ chế đứt gãy thuận ở lân 
cận đảo này (hình 12). 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 219
Hình 12. Độ lớn biến dạng trương nở 2D (nền 
màu) tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy. Giá 
trị này này tính theo đại lượng bất biến thứ nhất 
của tenxơ biến dạng. Giá trị dương biểu thị 
biến dạng thuận lợi cho phát triển đứt gãy 
thuận, giá trị âm biểu thị biến dạng thuận lợi 
cho phát triển đứt gãy nghịch 
Vận tốc biến dạng trượt cực đại 
Độ lớn biến dạng trượt cực đại (nền màu và 
kích thước dấu cộng) tính từ vận tốc chuyển 
dịch nội suy. Phương của biến dạng trượt cực 
đại thể hiện thông qua định hướng của dấu 
cộng. Độ lớn biến dạng trượt cực đại tính được 
nằm ở tâm của mỗi ô vuông kích thước 0,20 × 
0,20. Các giá trị này được nội suy một lần nữa 
bằng phương pháp tương tự áp dụng cho tính 
độ lớn biến dạng. Kết quả thể hiện trên hình 13. 
Biến dạng trượt cực đại lớn nhất là ở phía 
tây Bảo Lộc và tây Nha Trang (40 - 60 nano-
strain/năm). Vùng Phan Rang có vận tốc biến 
dạng trượt cỡ 10 nano-strain/năm. Vùng đông 
Nha Trang và tây Phú Quý có vận tôc biến 
dạng trượt thấp nhất. Độ lớn biến dạng trượt 
cực đại và phương của nó đặc trưng cho tính 
cục bộ của biến dạng trượt lẫn phương mà dọc 
theo đó hoạt động đứt gãy trượt bằng dễ xảy ra 
nhất. Các đứt gãy trượt bằng nếu xảy ra sẽ có 
chuyển dịch phải nếu đứt gãy định hướng theo 
phương tây bắc - đông nam và chuyển dịch trái 
nếu đứt gãy định hướng theo phương đông bắc 
- tây nam. Các vùng nam và tây Phan Rang 
thuận lợi cho phát triển đứt gãy trượt bằng. 
Hình 13. Độ lớn biến dạng trượt cực đại (thể 
biện bằng nền màu - biểu diễn giá trị dương và 
kích thước dấu cộng) tính từ vận tốc chuyển 
dịch nội suy. Phương của biến dạng trượt cực 
đại thể hiện thông qua định hướng của dấu 
cộng. Độ lớn biến dạng trượt cực đại và 
phương của nó đặc trưng tính cục bộ của biến 
dạng trượt lẫn phương mà dọc theo đó hoạt 
động đứt gãy trượt bằng dễ xảy ra nhất 
Hình 14. Sơ đồ gradient vận tốc biến dạng 
chi tiết theo tài liệu đo GPS cho khu vực 
bán kính 25 km 
Nhìn chung vận tốc dịch chuyển về phía 
đông giao động trong khoảng 22 mm/năm tới 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 220
26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam từ 
6 mm/năm tới 8 mm/năm. Tuy nhiên, điểm 
THA1 có vận tốc chuyển dịch về phía đông đạt 
tới 28,5 mm/năm, điểm PKA1 chuyển dịch về 
phía nam chỉ với vận tốc -0,8 mm/năm. Trong 
khi đó vận tốc dịch chuyển về phía nam của 
NSO1 đạt tới giá trị 10 mm/năm. Theo thông 
báo của phần mềm BERNESE, sai số vận tốc 
theo phương á vĩ tuyến thay đổi từ 0,3 - 
0,6 mm/năm, theo phương kinh tuyến 0,2 - 
0,5 mm/năm. Tuy nhiên sai số thực có thể gấp 
3 lần ứng với 0,9 - 1,8 mm/năm đối với phương 
vĩ tuyến và 0,6 - 1,5 mm/năm đối với phương 
kinh tuyến. 
THẢO LUẬN 
Với thời gian thực hiện đo GPS chỉ trong 
khoảng thời gian ngắn, các kết quả đo GPS tại 
khu vực Ninh Thuận hoàn toàn tương tích với 
kết quả đo GPS tại HOCM, KT04, SRIS, SIEM 
là các trạm đo GPS trong khoảng thời gian trên 
10 năm. Nhìn chung vận tốc dịch chuyển về 
phía đông giao động trong khoảng 22 mm/năm 
tới 26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam từ 
6 mm/năm tới 8 mm/năm. Tuy nhiên, một số vị 
trí có giá trị tương đối khác biệt như điểm 
THA1 có vận tốc chuyển dịch về phía đông đạt 
tới 28,5 mm/năm, điểm PKA1 chuyển dịch về 
phía nam chỉ với vận tốc -0,8 mm/năm. Trong 
khi đó vận tốc dịch chuyển về phía nam của 
NSO1 đạt tới giá trị 10 mm/năm. Giá trị sai số 
theo thông báo của phần mềm BERNESE đối 
với phương vĩ tuyến giao động trong khoảng 
0,3 - 0,6 mm/năm, theo phương kinh tuyến 0,3 
- 0,5 mm/năm. Tuy nhiên giá trị sai số thực có 
lẽ phải gấp 3 lần, tức là sai số chuẩn phải ít 
nhất trong khoảng 0,9 - 1,8 mm/năm đối với 
phương kinh tuyến. Chúng tôi cho rằng có thể 
do thời gian đo quá ngắn nên sai số còn lớn. 
Giá trị vận tốc biến dạng chính thay đổi từ 19 -
68 nano biến dạng/năm, với giá trị trung bình là 
33 nano biến dạng/năm. Vận tốc biến dạng 
xoay nhìn chung nhỏ hơn 25 nano biến 
dạng/năm. Phương trục vận tốc biến dạng tách 
giãn giao động theo phương bắc nam, còn 
phương trục vận tốc biến dạng nén ép giao 
động quanh phương vĩ tuyến. Độ lớn biến dạng 
tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy theo đại 
lượng bất biến thứ hai của tenxơ vận tốc biến 
dạng nhỏ hơn 22 nano biến dạng/năm. Vận tốc 
biến dạng khối hai chiều có giá trị giao động từ 
-8 nanno biến dạng/năm tới 18 nanno biến 
dạng/năm. Độ lớn biến dạng trượt cực đại nhỏ 
hơn giá trị 60 nano biến dạng/năm. Giá trị sai 
số biến dạng nhỏ hơn 50 nano biến dạng/năm. 
Với giá trị vận tốc biến dạng như đã trình bày, 
vùng Ninh Thuận và khu vực lân cận có thể coi 
là vùng có chế độ phân dị kiến tạo rất yếu, khá 
phù hợp với mô hình vùng ổn định của khối 
Sunda mà một số tác giả đã đề cập trước đây 
[1, 2, 28]. Do là khu vực có tốc độ biến dạng 
yếu nên cần xem xét tích lũy động đất trong 
khoảng thời gian dài, chu kỳ tích lũy không chỉ 
là 10.000 năm mà cần thiết xem xét trong 
100.000 năm thậm chí trong toàn bộ Đệ tứ. 
Theo khuyến cáo của cơ quan năng lượng 
nguyên tử quốc tế, những vùng có biến dạng 
kiến tạo yếu cần xem xét trong khoảng thậm 
chí dài hơn như Pliocen. 
KẾT LUẬN 
Với 3 chu kỳ đo GPS trong khoảng thời 
gian 2012 - 2013, chúng tôi nhận thấy chuyển 
động kiến tạo hiện đại thể toàn khu vực Ninh 
Thuận có vận tốc dịch chuyển về phía đông 22 
- 26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam 6 - 
8 mm/năm. Giá trị sai số của vận tốc chuyển 
dịch kiến tạo hiện đại 0,9 - 1,8 mm/năm đối với 
phương kinh tuyến. Giá trị vận tốc biến dạng 
chính thay đổi từ 19 - 68 nano biến dạng/năm, 
Vận tốc biến dạng xoay nhỏ hơn 25 nano biến 
dạng/năm. Phương trục vận tốc biến dạng tách 
giãn giao động theo phương bắc nam, phương 
trục vận tốc biến dạng nén ép giao động quanh 
phương vĩ tuyến. Độ lớn biến dạng của bất biến 
thứ hai của tenxơ vận tốc biến dạng nhỏ hơn 
22 nano biến dạng/năm. Vận tốc biến dạng khối 
hai chiều giao động từ -8 nanno biến dạng/năm 
tới 18 nanno biến dạng/năm. Độ lớn biến dạng 
trượt cực đại nhỏ hơn giá trị 60 nano biến 
dạng/năm. Giá trị sai số biến dạng nhỏ hơn 
50 nano biến dạng/năm. Vùng Ninh Thuận và 
khu vực lân cận là vùng có chế độ kiến tạo ổn 
định, cần xem xét đứt gãy hoạt động và đứt gãy 
sinh chấn trong khoảng thời gian Pliocen - Đệ 
tứ như khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng 
nguyên tử quốc tế IAEA. 
Lời cảm ơn: Bài viết này là kết quả của đề tài 
độc lập cấp nhà nước “Đánh giá gradient 
chuyển dịch kiến tạo trong Pleistocen muộn và 
hiện đại khu vực dự kiến xây dựng nhà máy 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 221
điện hạt nhân Ninh thuận”, mã số 03/2012 và 
đề tài trọng điểm cấp nhà nước: “Nghiên cứu 
địa động lực hiện đại khu vực Tây Nguyên 
phục vụ dự báo các dạng tai biến địa chất ở các 
vùng đập, hồ chứa và đề xuất các giải pháp 
phòng tránh”. Mã số TN3/06. Tập thể tác giả 
cảm ơn sự tài trợ kinh phí của quĩ phát triển 
Khoa học và Công nghệ NAFOSTED và Bộ 
Khoa học và Công nghệ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dawson, J., Luton, G., and Govind, R., 
2004. Permanent Committee for GIS 
Infrastructure for Asia and the Pacific, 
1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 GPS 
Campaign Analysis. PCGIAP Report. 
2. Guorong Hu and John Dawson, 2010. The 
Asia Pacific Regional Geodetic Project 
(APRGP) GPS Solution (1997 - 2008), 
XXIV FIG, (www.icsm.gov.au/icsm/FIG/-
CongressPaper4113.pdf.) 
3. Phan Trọng Trịnh, 2012. Kiến tạo trẻ và 
địa động lực hiện đại vùng biển Việt Nam 
và kế cận. Nxb. Khoa học Tự nhiên và 
Công nghệ, 332 tr. 
4. Phan Trọng Trịnh, 2013. Tràn dầu tự nhiên 
và mối liên quan với kiến tạo vùng biển 
Việt Nam và kế cận. Nxb. Khoa học Tự 
nhiên và Công nghệ, 308 tr. 
5. Briais, A., Patriat, P., and Tapponnier, P., 
1993. Updated interpretation of magnetic 
anomalies and seafloor spreading stages in 
the South China Sea: Implications for the 
Tertiary tectonics of Southeast Asia. 
Journal of Geophysical Research: Solid 
Earth (1978 - 2012), 98(B4): 6299-6328. 
6. Leloup, P. H., Lacassin, R., Tapponnier, P., 
Schärer, U., Zhong, D., Liu, X., Zhang, L., 
Ji, S., and Trinh, P. T., 1995. The Ailao 
Shan-Red River shear zone (Yunnan, 
China), Tertiary transform boundary of 
Indochina. Tectonophysics, 251(1): 3-84. 
7. Rangin, C., Huchon, P., Le Pichon, X., 
Bellon, H., Lepvrier, C., Roques, D., Hoe, 
N. D., and Van Quynh, P., 1995. Cenozoic 
deformation of central and south Vietnam. 
Tectonophysics, 251(1): 179-196. 
8. Roques, D., Matthews, S. J., and Rangin, 
C., 1997. Constraints on strike-slip motion 
from seismic and gravity data along the 
Vietnam margin offshore Da Nang: 
implications for hydrocarbon prospectivity 
and opening of the East Vietnam Sea. 
Geological Society, London, Special 
Publications, 126(1): 341-353. 
9. Fyhn, M. B., Boldreel, L. O., and Nielsen, L. 
H., 2009a. Geological development of the 
Central and South Vietnamese margin: 
Implications for the establishment of the 
South China Sea, Indochinese escape 
tectonics and Cenozoic volcanism. 
Tectonophysics, 478(3): 184-214. 
10. Fyhn, M. B., Nielsen, L. H., Boldreel, L. O., 
Thang, L. D., Bojesen-Koefoed, J., 
Petersen, H. I., Huyen, N. T., Duc, N. A., 
Dau, N. T, Mathiesen, A., Reid, I., Huong, 
D. T., Tuan, H. A., Hien, L. V., Nytoft, H. 
P., and Abatzis, I., 2009b. Geological 
evolution, regional perspectives and 
hydrocarbon potential of the northwest Phu 
Khanh Basin, offshore Central Vietnam. 
Marine and Petroleum Geology, 26(1): 1-
24. 
11. Hoang, N., Flower, M. F., & Carlson, R. 
W., 1996. Major, trace element, and 
isotopic compositions of Vietnamese 
basalts: Interaction of hydrous EM1-rich 
asthenosphere with thinned Eurasian 
lithosphere. Geochimica et Cosmochimica 
Acta, 60(22): 4329-4351. 
12. Hoang, N., and Flower, M., 1998. 
Petrogenesis of Cenozoic basalts from 
Vietnam: implication for origins of a 
‘diffuse igneous province’. Journal of 
Petrology, 39(3): 369-395. 
13. Nguyễn Kinh Quốc, Lê Ngọc Thước, 
1979. Phun trào bazan Kainozoi muộn Nam 
Trung Bộ. Địa chất và khoáng sản, 1: 137-
158. Liên đoàn Bản đồ địa chất, Hà Nội. 
14. Nguyễn Xuân Hãn, Nguyễn Trọng Yêm, 
Nguyễn Hoàng, Cung Thượng Chí, Phạm 
Tích Xuân, 1991. Hoạt động núi lửa 
Kainozoi muộn Nam Trung Bộ. Địa chất, 
202-203: 33-41, Hà Nội. 
15. Phạm Tích Xuân, Nguyễn Hoàng, Lee Hyun 
Koo, 2003. Đặc điểm thành phần nguyên tố 
vết và đồng vị trong bazan Kainozoi muộn 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 222
tại Việt Nam và ý nghĩa kiến tạo của 
chúng. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 
25(4): 449-510. Hà Nội. 
16. Lee, G. H., Lee, K., & Watkins, J. S., 2001. 
Geologic evolution of the Cuu Long and 
Nam Con Son basins, offshore southern 
Vietnam, South China Sea. AAPG bulletin, 
85(6): 1055-1082. 
17. Clift, P. D., and Sun, Z., 2006. The 
sedimentary and tectonic evolution of the 
Yinggehai - Song Hong basin and the 
southern Hainan margin, South China Sea: 
Implications for Tibetan uplift and 
monsoon intensification. Journal of 
Geophysical Research: Solid Earth (1978 - 
2012), 111(B6). 
18. Clift, P., Lee, G. H., Anh Duc, N., 
Barckhausen, U., Van Long, H., and Zhen, 
S., 2008. Seismic reflection evidence for a 
Dangerous Grounds miniplate: No 
extrusion origin for the South China Sea. 
Tectonics, 27(3). 
19. Trinh, P. T., Van Liem, N., Van Huong, N., 
Vinh, H. Q., Van Thom, B., Thao, B. T., 
Tan, M. T., and Hoang, N., 2012. Late 
Quaternary tectonics and seismotectonics 
along the Red River fault zone, North 
Vietnam. Earth-Science Reviews, 114(3): 
224-235. 
20. Trinh, P., Vinh, H., Huong, N., and Liem, 
N., 2013. Active fault segmentation and 
seismic hazard in Hoa-Binh reservoir, 
Vietnam. Open Geosciences, 5(2): 223-235. 
21. Beavan, J., Tregoning, P., Bevis, M., Kato, 
T., and Meertens, C., 2002. Motion and 
rigidity of the Pacific Plate and 
implications for plate boundary 
deformation. Journal of Geophysical 
Research: Solid Earth (1978 - 2012), 
107(B10): ETG-19. 
22. Bock, Y., Prawirodirdjo, L., Genrich, J. F., 
Stevens, C. W., McCaffrey, R., Subarya, C., 
Puntodewo, S. S. O., and Calais, E., 2003. 
Crustal motion in Indonesia from global 
positioning system measurements. Journal 
of Geophysical Research: Solid Earth (1978 
- 2012), 108(B8). 
23. Calais, E., Vergnolle, M., San'Kov, V., 
Lukhnev, A., Miroshnitchenko, A., 
Amarjargal, S., and Déverchère, J., 2003. 
GPS measurements of crustal deformation 
in the Baikal‐Mongolia area (1994 - 2002): 
Implications for current kinematics of Asia. 
Journal of Geophysical Research: Solid 
Earth (1978 - 2012), 108(B10). 
24. Chamot-Rooke, N., and Le Pichon, X., 
1999. GPS determined eastward Sundaland 
motion with respect to Eurasia confirmed 
by earthquakes slip vectors at Sunda and 
Philippine trenches. Earth and Planetary 
Science Letters, 173(4): 439-455. 
25. Chen, Z., Burchfiel, B. C., Liu, Y., King, R. 
W., Royden, L. H., Tang, W., Wang, E., 
Zhao, J., and Zhang, X., 2000. Global 
Positioning System measurements from 
eastern Tibet and their implications for 
India/Eurasia. Journal of Geophysical 
Research, 105(B7): 16215-16227. 
26. Gan, W., Zhang, P., Shen, Z. K., Niu, Z., 
Wang, M., Wan, Y., Zhou, D., and Cheng, 
J., 2007. Present‐day crustal motion within 
the Tibetan Plateau inferred from GPS 
measurements. Journal of Geophysical 
Research: Solid Earth (1978 - 2012), 
112(B8). 
27. Galgana, G., Hamburger, M., McCaffrey, 
R., Corpuz, E., and Chen, Q., 2007. 
Analysis of crustal deformation in Luzon, 
Philippines using geodetic observations and 
earthquake focal mechanisms. 
Tectonophysics, 432(1): 63-87. 
28. Iwakuni, M., Kato, T., Takiguchi, H., 
Nakaegawa, T., & Satomura, M., 2004. 
Crustal deformation in Thailand and 
tectonics of Indochina peninsula as seen 
from GPS observations. Geophysical 
research letters, 31. 
29. Michel, G. W., Yu, Y. Q., Zhu, S. Y., 
Reigber, C., Becker, M., Reinhart, E., 
Simons, W., Ambrosius, B., Vigny, C., 
Chamot-Rooke, N., Pichon, X. L., Morgan, 
P., and Matheussen, S., 2001. Crustal 
motion and block behaviour in SE-Asia 
from GPS measurements. Earth and 
Planetary Science Letters, 187(3): 239-244. 
30. Zhijun, N., Min, W., Hanrong, S., 
Jianzhong, S., Xinzhao, Y., Weijun, G., 
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực  
 223
Guijiang, X., Jinxin, H., Shaohua, X., 
Yongqing, W., Yongxiang, W., and Bai, L., 
2005. Contemporary velocity field of 
crustal movement of Chinese mainland 
from Global Positioning System 
measurements. Chinese Science Bulletin, 
50(9): 939-941. 
31. Shen, Z. K., Lü, J., Wang, M., and 
Bürgmann, R., 2005. Contemporary crustal 
deformation around the southeast 
borderland of the Tibetan Plateau. Journal 
of Geophysical Research: Solid Earth (1978 
- 2012), 110(B11). 
32. Simons, W. J. F., Socquet, A., Vigny, C., 
Ambrosius, B. A. C., Haji Abu, S., 
Promthong, C., Subarya, C., Sarsito, D. A., 
Matheussen, S., Morgan, P., and Spakman, 
W., 2007. A decade of GPS in Southeast 
Asia: Resolving Sundaland motion and 
boundaries. Journal of Geophysical 
Research: Solid Earth (1978 - 2012), 
112(B6). 
33. Socquet, A., Simons, W., Vigny, C., 
McCaffrey, R., Subarya, C., Sarsito, D., 
Ambrosius, B., and Spakman, W., 2006. 
Microblock rotations and fault coupling in 
SE Asia triple junction (Sulawesi, 
Indonesia) from GPS and earthquake slip 
vector data. Journal of Geophysical 
Research: Solid Earth (1978 - 2012), 
111(B8). 
34. Vigny, C., Simons, W. J., Abu, S., 
Bamphenyu, R., Satirapod, C., Choosakul, 
N., Subarya, C., Socquet, A., Omar, K., 
Abidin, H. Z., and Ambrosius, B. A. C., 
2005. Insight into the 2004 Sumatra-
Andaman earthquake from GPS 
measurements in southeast Asia. Nature, 
436(7048): 201-206. 
35. Zhang, P. Z., Shen, Z., Wang, M., Gan, W., 
Bürgmann, R., Molnar, P., Wang, Q., Niu, 
Z., Sun, J., Wu, J., Hanrong, S., and 
Xinzhao, Y., 2004. Continuous deformation 
of the Tibetan Plateau from global 
positioning system data. Geology, 32(9): 
809-812. 
36. Cong, D. C., and Feigl, K. L., 1999. 
Geodetic measurement of horizontal strain 
across the Red River fault near Thac Ba, 
Vietnam, 1963 - 1994. Journal of Geodesy, 
73(6): 298-310. 
37. Feigl, K. L., Cong, D. C., Becker, M., To, T. 
D., Neumann, K., and Xuyen, N. Q., 2003. 
Insignificant horizontal strain across the 
Red River fault near Thac Ba, Vietnam 
from GPS measurements 1994-2000. In 
EGS-AGU-EUG Joint Assembly (Vol. 1, 
p. 4707). 
38. Lê Huy Minh, Kurt Feigl, Frédéric Masson, 
Dương Chí Công, Alain Bourdillon, Patrick 
Lassudrie Duchesne, Nguyễn Chiến Thắng, 
Nguyễn Hà Thành, Trần Ngọc Nam, Hoàng 
Thái Lan, 2012. Dịch chuyển vỏ Trái Đất 
theo số liệu GPS liên tục tại Việt Nam và 
khu vực Đông Nam Á. Tạp chí Các Khoa 
học về Trái đất, 32(3): 249-260. 
39. Trần Đình Tô và Nguyễn Trọng Yêm, 2004. 
Chuyển động hiện đại vỏ Trái đất lãnh thổ 
Việt Nam theo số liệu đo GPS. Tạp chí Các 
khoa học về Trái đất, 26(4): 579-586. 
40. Trần Đình Tô, Vy Quốc Hải, 2005. Xác 
định chuyển động hiện đại đới đứt gãy Lai 
Châu-Điện Biên từ số liệu đo GPS (2002 - 
2004). Tạp chí các khoa học về Trái đất, 
27(1): 6-13, Hà Nội. 
41. Dong, D., Herring, T. A., and King, R. W., 
1998. Estimating regional deformation 
from a combination of space and terrestrial 
geodetic data. Journal of Geodesy, 72(4): 
200-214. 
42. Đỗ Tuyết, Nguyễn Tiến Tân, Đinh Văn 
Thành, 1980. Về các bề mặt san bằng ở 
vùng Đà Lạt. Tạp chí địa chất, 149(5-6): 
14-21. 
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,  
 224
PRESENT DAY TECTONIC GRADIENT IN NINH THUAN AND 
SURROUNDING REGION 
Phan Trong Trinh, Ngo Van Liem, Vy Quoc Hai, Tran Van Phong, Nguyen Van Huong, 
Nguyen Viet Thuan, Nguyen Quang Xuyen, Bui Van Thom, Nguyen Dang Tuc, Hoang 
Quang Vinh, Nguyen Huy Thinh, Bui Thi Thao, Tran Quoc Hung 
Institute of Geological Sciences-VAST 
ABSTRACT: The estimation of the present day tectonic movement and tectonic gradient (strain 
rate) has an important practical signification in the assessment of active fault and seismic hazards 
for the selection of Ninh Thuan nuclear power plant. Based on the three campaigns of GPS 
measurement between 2012 - 2013, we used BERNESE 5.0 software to determine present day slip 
rates of 13 stations in ITRF08 frame. The GPS stations move eastwards at the slip rates of 22 - 25 
mm/yr, southwards at the velocities of 5 - 10 mm/yr. The standard errors in latitudinal and 
longitudinal directions are 1.2 mm/yr and 0.9 mm/yr, respectively. Combined with GPS data from 
the project of the study on actual geodynamics in Tay Nguyen TN3/06, we determined the strain rate 
ranging from 50 to 100 nanostrains with the standard error of 50 nanostrains. The direction of 
maximum compressive strain rate is from northwest - southeast to east - west. 
Keywords: GPS, present-day tectonics, veolocity, tectonic gradient, strain rate, maximum 
compressive axe, maximum extensive axe. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
7216_26887_1_pb_491_2079686.pdf