The estimation of the present day tectonic movement and tectonic gradient (strain
rate) has an important practical signification in the assessment of active fault and seismic hazards
for the selection of Ninh Thuan nuclear power plant. Based on the three campaigns of GPS
measurement between 2012 - 2013, we used BERNESE 5.0 software to determine present day slip
rates of 13 stations in ITRF08 frame. The GPS stations move eastwards at the slip rates of 22 - 25
mm/yr, southwards at the velocities of 5 - 10 mm/yr. The standard errors in latitudinal and
longitudinal directions are 1.2 mm/yr and 0.9 mm/yr, respectively. Combined with GPS data from
the project of the study on actual geodynamics in Tay Nguyen TN3/06, we determined the strain rate
ranging from 50 to 100 nanostrains with the standard error of 50 nanostrains. The direction of
maximum compressive strain rate is from northwest - southeast to east - west.
16 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gradient kiến tạo hiện đại khu vực Ninh Thuận và lân cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
209
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 3; 2015: 209-224
DOI: 10.15625/1859-3097/15/3/7216
GRADIENT KIẾN TẠO HIỆN ĐẠI KHU VỰC
NINH THUẬN VÀ LÂN CẬN
Phan Trọng Trịnh*, Ngô Văn Liêm, Vy Quốc Hải, Trần Văn Phong, Nguyễn Văn Hướng,
Nguyễn Viết Thuận, Nguyễn Quang Xuyên, Bùi Văn Thơm, Nguyễn Đăng Túc, Hoàng
Quang Vinh, Nguyễn Huy Thịnh, Bùi Thị Thảo, Trần Quốc Hùng
Viện Địa chất-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: phantrongt@yahoo.com
Ngày nhận bài: 15-1-2015
TÓM TẮT: Đánh giá vận tốc chuyển động kiến tạo hiện đại và gradient kiến tạo hiện đại có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc đánh giá đứt gãy hoạt động nguy hiểm động đất phục vụ xây
dụng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Trên cơ sở đo 3 chu kỳ GPS vào các năm 2012 - 2013, sử
dụng phần mềm BERNESE 5.0, chúng tôi đã xác lập được vận tốc chuyển động kiến tạo hiện đại tại
13 điểm đo GPS trong khu vực lân cận bao gồm kéo dài từ Nha Trang tới đảo Phú Quý. Vận tốc
chuyển dịch kiến tạo hiện đại về phía đông thay đổi từ 22 - 25 mm/năm và chuyển dịch về phía nam
với vận tốc giao động từ 5 - 10 mm/năm trên hệ tọa độ toàn cầu ITRF08. Sai số vận tốc chuyển dịch
kiến tạo về phía đông giao động trong khoảng 1,2 - 1,5 mm/năm và về phía nam giao động trong
khoảng 0,9 - 1,2 mm/năm. Liên kết với giá trị đo GPS từ đề tài nghiên cứu địa động lực hiện đại khu
vực Tây Nguyên mã số TN3/T06, chúng tôi đã xác định được giá trị vận tốc biến dạng giao động từ
50 nano tới 100 nano biến dạng với sai số giao động trong khoảng 50 nano biến dạng. Trục biến
dạng nén cực đại giao động theo phương thay đổi từ bắc nam sang đông bắc - tây nam. Trục biến
dạng căng cực đại có phương thay đổi từ tây bắc - đông nam sang phương đông - tây.
Từ khóa: GPS, kiến tạo hiện đại, vận tốc, gradient kiến tạo, vận tốc biến dạng, trục biến dạng
nén cực đại, trục biến dạng giãn cực đại.
MỞ ĐẦU
Đánh giá chuyển động kiến tạo hiện đại
trong một khu vực hay một lãnh thổ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Trước hết cho phép làm
sáng tỏ cơ chế biến dạng thạch quyển, phát hiện
các đới đứt gãy đang hoạt động từ đó đặt cở sở
cho việc đánh giá tai biến địa chất như nguy
hiểm động đất, sóng thần, trượt lở. Đối với việc
xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, 2
tham số quan trọng có tính chất loại trừ trong
việc lựa chọn địa điểm là đứt gãy đang hoạt
động tồn tại lân cận nhà máy và gia tốc rung
động cực đại không được vượt quá giá trị tới
hạn 360 cm/s2 với chu kỳ lặp lại 10.000 năm.
Ngoài ra, theo tiêu chuẩn của Nga thì gradient
kiến tạo hiện đại mà thực chất là vận tốc biến
dạng hiện đại cũng là một trong những tiêu chí
ngoại trừ nếu khu vực nhà máy có gradient kiến
tạo vượt quá giá trị 10-6/năm. Giá trị này còn là
tham số đầu vào để đánh giá nguy hiểm động
đất của các nhà tư vấn Nga.
Bài báo này trình bày những kết quả mới
nhất về xác định vận tốc chuyển dịch kiến tạo
hiện đại trên khu vực Ninh Thuận và lân cận
trên cở sở các số đo GPS trên 13 trạm trong 3
chu kỳ 2012 - 2013. Vận tốc chuyển dịch tuyệt
đối được tính toán trên mạng lưới toàn cầu
ITRF08. Trên cơ sở các số liệu về vận tốc
chuyển dịch trên khu vực Ninh Thuận và lân
cận, kết hợp với giá trị vận tốc chuyển động
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
210
hiện đại đo từ mạng lưới Châu Á - Thái Bình
dương [1, 2] và từ nhiều đề tài dự án như từ đề
tài KC09.11/06-10 và đề tài đánh giá địa động
lực hiện đại khu vực Tây nguyên, mã số
TN3/T06 do Phan Trọng Trịnh là chủ nhiệm [3,
4], chúng tôi đã xác định vận tốc biến dạng
kiến tạo hiện đại cũng như tốc độ xoay, biến
dạng cực đại, giá trị và phương biến dạng tiếp
cực đại cho toàn khu vực Ninh Thuận và lân
cận. Những kết quả được trình bày ở đây sẽ
góp phần làm sáng tỏ đặc điểm địa động lực
hiện đại khu vực Ninh Thuận từ đó đặt cơ sở
cho việc lựa chọn nhà máy điện hạt nhân
Ninh Thuận.
BỐI CẢNH KIẾN TẠO PLIOCEN - ĐỆ TỨ
KHU VỰC NINH THUẬN VÀ LÂN CẬN
Dọc theo rìa lục địa Việt Nam, những sự
thay đổi lớn về kiến tạo và trầm tích đã xảy ra
từ khoảng ranh giới Paleogen - Neogen. Trong
suốt Neogen sớm, sự phá vỡ lục địa ở phần
phía nam của Biển Đông lan truyền về phía tây
nam và đã kích thích quá trình tách giãn đáy
biển trong khu vực giữa Việt Nam và Borneo
ngày nay [5- 8]. Một sự thay đổi cấu trúc quan
trọng trong Miocen sớm, đi kèm là biển tiến
rộng khắp xảy ra trong các bể ngoài khơi ở
miền Nam và miền Trung Việt Nam. Ở phía
bắc bể Phú Khánh, sự phát triển rộng khắp của
cacbonat bắt đầu do sự lún chìm tái xảy ra sau
khi sự tạm ngừng của vận động trượt trái của
đứt gãy ranh giới Đông Việt Nam chỉ ra rằng
biển tiến Miocen sớm cũng đã ảnh hưởng đến
khu vực này. Hoạt động núi lửa Neogen sớm
trong bể Phú Khánh thể hiện bởi núi lửa bazan
kiềm Miocen sớm - giữa gặp trong lỗ khoan
phía bắc của bể [9, 10]. Hoạt động núi lửa rộng
khắp trên khu vực Ninh Thuận và miền Trung
Đông Dương có tuổi sau Neogen sớm, mặc dù,
chỉ có một số lượng nhỏ bazan ở miền Trung
Việt Nam có tuổi Miocen sớm và giữa cho thấy
sự khởi đầu sớm hơn của hoạt động núi lửa [9,
11-15].
Trong bể Sông Hồng, một sự thay đổi từ
căng ngang vừa phải tới ép ngang đã xảy ra ở
khoảng ranh giới Miocen sớm - giữa [6, 7].
Trong suốt Neogen sớm, sự phá vỡ lục địa ở
phần phía nam của Biển Đông lan truyền về
phía tây nam và bởi vậy đã kích thích quá trình
tách giãn đáy biển trong khu vực giữa Việt
Nam và Borneo ngày nay [5] đã minh giải sự
lan truyền về phía tây nam đã dừng lại ở dị
thường số 6 tương ứng với khoảng 19 - 20 Ma,
vài triệu năm trước sự ngừng nghỉ cuối cùng
của quá trình tách giãn đáy biển. Dựa trên vận
tốc tách giãn không thay đổi sau sự thành tạo
của dị thường trẻ nhất có thể nhận dạng (5D)
[5] đã cho rằng quá trình tách giãn đáy biển kết
thúc ở khoảng dị thường từ 5C tương ứng với
khoảng thời gian 16 - 17 triệu năm, trái lại,
nghiên cứu lại kiểu dị thường từ đã cho thấy
rằng quá trình tách giãn đáy biển kết thúc sớm
hơn cỡ khoảng 20.5 triệu năm tại dị thường
từ 6A1.
Một sự thay đổi cấu trúc quan trọng trong
Miocen sớm, đi kèm là biển tiến rộng khắp xảy
ra trong các bể ngoài khơi ở miền Nam và miền
Trung Việt Nam [8]. Trong bể Cửu Long, quá
trình sụt lún hậu rift Neogen dẫn tới biển tiến
quy mô toàn bể được minh giải là sự thay đổi
lên phía trên từ các trầm tích silicic lục địa sang
đại dương chiếm ưu thế trong suốt Miocen sớm
[16].
Trong bể Nam Côn Sơn, quá trình rift mạnh
tái hoạt hoá dọc theo các đứt gãy phương tây
bắc - đông nam tới bắc - nam sau Paleogen
nhằm phản ứng lại sự lan truyền về phía tây
nam của sự phá vỡ lục địa [16]. Phản ứng lại
cánh tách giãn mở rộng của tây nam Biển Đông
đang tiến lại gần, có hiện tượng biển tiến dần
dần trong bể này, nó tạo nên sự chiếm ưu thế
của các trầm tích silicic biển Miocen dưới với
các đới tướng bị khống chế về mặt cấu trúc.
Khi biển tiến tiếp tục, quá trình ngập sâu dần
dần xảy ra ở các trung tâm sụt lún của bể và
tích tụ cacbonat khắp nơi bắt đầu xảy ra. Trong
suốt Miocen giữa - muộn, mực nước biển thấp
tương đối tạm thời làm gián đoạn tích tụ
cacbonat. Bất chỉnh hợp này dễ thấy cắt cụt các
thành tạo nằm dưới và đánh dấu hiện tượng
giảm rõ rệt của quá trình rift.
Ở phía bắc bể Phú Khánh, các rift phương
bắc - nam tới tây bắc - đông nam bị ảnh hưởng
bởi sự lún chìm dọc theo rìa bể [7, 16-18] đã
trình bày bằng chứng về các đứt gãy trượt phải
phương tương tự ngay trên bờ và đã cho rằng
sự khởi phát của vận động trượt phải là trong
Neogen sớm.
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
211
Ở phía bắc Bể Phú Khánh, sự phát triển
rộng khắp của cacbonat bắt đầu do sự lún chìm
tái xảy ra sau khi sự tạm ngừng của vận động
trượt trái của đứt gãy ranh giới Đông Việt Nam
chỉ ra rằng biển tiến Miocen sớm cũng đã ảnh
hưởng đến khu vực này [9, 10, 16]. Các thành
tạo cacbonat kết nối với nhau tạo thềm
cacbonat Tri Tôn, tạo nên một thềm cacbonat
lớn kéo dài tới phía bắc của bể [8-10]. Hoạt
động núi lửa Neogen sớm trong bể Phú Khánh
đã được trình bày trong [9, 10], được ủng hộ
bởi núi lửa bazan kiềm Miocen sớm - giữa gặp
trong lỗ khoan phía bắc của bể. Hoạt động núi
lửa rông khắp trên đất liền ở miền Nam và
miền Trung Indochina có tuổi sau Neogen sớm,
mặc dù, chỉ có một số lượng nhỏ bazan ở miền
Trung Việt Nam có tuổi Miocen sớm và giữa
cho thấy sự khởi đầu sớm hơn của hoạt động
núi lửa [11, 12, 14, 15].
Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu và cấu trúc địa chất khu vực Ninh thuận và lân cận
[Biên chỉnh theo Fyhn và nnk,. 2009]
Các khu vực rộng lớn đông nam của
Indochina được phủ bởi các cao nguyên bazan
lớn chủ yếu có tuổi Neogen muộn, nó được gán
với các điểm dâng lên của vòm manti, quá trình
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
212
làm mỏng vỏ hay manti trên nóng mang tính
khu vực bên dưới khu vực tương ứng của
Indochina [11, 12]. Ở nhiều nơi, hoạt động đứt
gãy căng giãn đi kèm hoạt động núi lửa này
được đề xuất qua bằng chứng là sự tiêm nhập
của bazan dọc theo các mặt đứt gãy thuận và
các đứt gãy dịch chuyển ngang bazan Miocen
muộn tới gần hiện tại [7]. Các đứt gãy này thể
hiện định hướng bắc - nam và đông bắc - tây
nam, hầu hết là kế thừa các cấu trúc có trước.
Hoạt động núi lửa này dẫn tới hoạt động
nâng mạnh và gia tăng hiện tượng bào mòn ở
phần đông nam của Indochina. Mặc dù điểm
khởi phát của hoạt động magma xảy ra trong
suốt Neogen sớm, hiện tượng nâng nhanh
chóng liên quan này chỉ được bắt đầu ở khoảng
Miocen giữa - muộn khi hoạt động núi lửa trên
đất liền được tăng cường. Hiện tượng nâng này
đã ảnh hưởng đến khí hầu và hải dương cục bộ,
cùng với sự tăng cường liên quan của việc cung
cấp trầm tích trên bờ ảnh hưởng tới sự phát
triển của bể bên trong và xung quanh các bể
Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn và bể
Phú Khánh [9, 10, 17].
Trong suốt đầu Neogen muộn, tích tụ
cacbonat trong khu vực bể Nam Côn Sơn chủ
yếu xảy ra trên các điểm cao cấu trúc. Theo
cùng sự hạ xuống tương đối của mực nước biển
Miocen giữa - muộn liên quan với sự khởi phát
của nâng trồi trên đất liền, các thềm cacbonat
dọc theo rìa lục địa này rút lui xa hơn và cuối
cùng biến mất [9, 10]. Kết quả là tích tụ silicic
trở nên chiếm ưu thế cuối Neogen và sự mở
rộng sau đó của thềm lục địa miền Trung và
Nam Việt Nam đã xảy ra để phản ứng lại
nguồn cung cấp trầm tích lục nguyên tăng lên.
Nhìn chung hoạt động kiến tạo trong giai
đoạn Đệ tứ tập trung ở một số đứt gãy như đứt
gãy Sông Hồng, Điện Biên - Lai châu, Sông Cả
[19, 20]. Ở Khu vực Ninh Thuận, hoạt động
kiến tạo trẻ thể hiện rõ nét nhất là dọc đới đứt
gãy Sông Ba. Rất nhiều bằng chứng cho thấy
hoạt động của đứt gãy xảy ra trong thời gian Đệ
tứ. Tuy nhiên chúng tôi không đi vào chi tiết
trong bài báo này. Một số đập hồ chứa dọc lưu
vực sông này và vùng lân cận có thể bị ảnh
hưởng của hoạt động kiến tạo trẻ và địa động
lực hiện đại. Hoạt động kiến tạo hiện đại trên
toàn châu Á hoặc khối Sunda đã được công bố
trong các công trình trước đây [1, 21-35], hay ở
Việt Nam [3, 4, 36-40]. Tuy nhiên ở khu vực
Ninh Thuận hoàn toàn vắng mặt các số đo
GPS, vì vậy trong đề tài này chúng tôi phải tạo
lập các số đo nguyên thủy, từ đó cho phép xác
định được vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện
đại trong mạng lưới định vị toàn cầu mới nhất
ITRF08, cũng như xác định vận tốc biến dạng
hiện đại cho toàn khu vực và lân cận.
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Số liệu
Bảng 1. Lịch đo GPS đợt tháng 3, 4 năm 2012
của mạng lớn
Ngày
GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV
59 x x
60 x x
61 x x
62 x x
102 x x x x x x
103 x x x x x x
104 x x x x x x
105 x x x x x x
106 x x x x x x
107 x x x x x x
Trong khu vực Ninh Thuận, trong các đề tài
và dự án trước đây vắng mặt hoàn toàn các dữ
liệu đo GPS vì vậy chúng tôi phải tiến hành đo
mới toàn bộ số liệu tại 12 trạm đo. Các trạm đo
đều được đặt trên đá gốc. Phần lớn các trạm
đều được xây dựng theo quy chuẩn của trạm đo
địa động lực với việc xây cố định cột mốc, bắt
vít ăng ten, việc này làm giảm sai số định tâm
của ăng ten. Tại một số trạm, để đảm bảo an
toàn cho các cột mốc nên chúng tôi giấu điểm
mốc sau mỗi lần đo và sử dụng chân máy đo
khi đo số liệu. Để giảm thiểu sai số định tâm,
cứ sau mỗi ca đo chúng tôi lại định tâm lại để
giảm thiểu sai số hệ thống gây ra do việc định
tâm. Mỗi ca đo được thực hiện trong 23 h 45
phút. Các số liệu được ghi tự động trong mỗi
khoảng thời gian 30 giây. Tại mỗi điểm đo,
chúng tôi đã thực hiện tối thiểu 4 ca đo. Tại
một số vị trí quan trọng, mỗi kỳ đo có thể thực
hiện 8 - 10 ca đo. Ngoài ra, chúng tôi phải sử
dụng các số đo từ các trạm đo quốc tế IGS để
xác lập vị trí của các điểm đo trên mạng lưới
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
213
toàn cầu ITRF08. Để xác định vận tốc biến
dạng của khu vực Ninh Thuận, chúng tôi đã sử
dụng các giá trị về vận tốc chuyển động kiến
tạo xác định được ở khu vực Ninh Thuận, kết
hợp với các giá trị về vận tốc chuyển dịch từ dự
án Châu Á - Thái Bình Dương và đề tài
KC09.11/06-10, đề tài nghiên cứu xác định
gradient kiến tạo phục vụ xây dựng nhà máy
điện Hạt nhân Ninh Thuận do chính tác giả làm
chủ nhiệm.
Bảng 2. Lịch đo GPS tháng 5 năm 2012 của mạng nhỏ
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA
1 129 x
2 130 x x
3 131 x
4 132 x
5 133 x x
6 134 x
7 135 x x x
8 136 x x x x
9 137 x x x x
10 138 x x x x
11 139 x x x x
12 140 x x x x
13 141 x x x x
14 142 x x x x
15 143 x x x x
Chu kỳ 2
Bảng 3. Lịch đo của đợt đo tháng 12/2012 và 01/2013 mạng lưới nhỏ
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA
1 364 x x x
2 365 x x x
3 366 x x x
4 001 x x x
5 002 x x x
6 003 x x x
7 004 x x x
8 005 x x x
9 006 x x x
10 007 x x x
11 008 x x x
12 009 x x x
Bảng 4. Lịch đo GPS đợt đo tháng 3 năm 2013 mạng lưới lớn
Ngày GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV
61 x x x x x
62 x x x x x
63 x x x x x
64 x x x x x
65 x x x
66 x x x
67 x x x x
68 x x x x
69 x x x x
70 x x x x
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
214
Bảng 5. Lịch đo của đợt đo tháng 9/2013 lưới nhỏ
STT DOY CAD TUT PMI NPU NSO PKA VIS THA
1 262 x x x x
2 263 x x x x
3 264 x x x x
4 265 x x x x
5 266 x x x x
6 267 x x x x
7 268 x x x x
8 269 x x x x
9 270 x x x x
Bảng 6. Lịch đo GPS đợt đo tháng 10 năm
2013 lưới lớn
Ngày
GPS CAD1 NHAT DALA TUYP PQUY CUSV
275 x x x x x x
276 x x x x x x
277 x x x x x x
278 x x x x x x
279 x x x x x x
Để thực hiện các nội dung trên, chúng tôi
đã áp dụng các phương pháp chính sau:
Phương pháp phân tích hệ thống định vị toàn
cầu GPS
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
các phương pháp như: Phương pháp quan trắc,
thu thập số liệu; Phương pháp kiểm tra chất
lượng số liệu; Phương pháp xử lý số liệu;
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được
áp dụng đồng thời các phương pháp hoặc riêng
rẽ từng phương pháp nhằm lựa chọn phương án
tiến hành các nội dung đề tài;
Với sự phát triển công nghệ sử lý GPS có
độ chính xác cao, để xác định chuyển động
kiến tạo hiện đại với vận tốc cỡ một vài
mm/năm, bên cạnh việc kéo giãn khoảng thời
gian giữa hai chu kỳ đo, sử dụng phần mềm
tiên tiến, người ta còn phải nghiên cứu và áp
dụng hàng loạt các biện pháp kỹ thuật nâng cao
độ chính xác khi thiết lập lưới, thu thập cũng
như xử lý số, điển hình như: áp dụng các giải
pháp kỹ thuật thi công mốc, loại trừ tối đa các
dịch chuyển do các yếu tố ngoại sinh, không có
nguồn gốc kiến tạo, mốc ở vị trí thông thoáng
thuận lợi thu tín hiệu vệ tinh; Lựa chọn phương
pháp đo tĩnh (thu thập số liệu) với ca đo đủ dài,
tần suất thu tín hiệu 30 giây. Tuỳ đồ hình lưới,
lựa chọn và tiến hành số lượng ca đo đủ lớn,
nhiều trị đo dư tạo điều kiện kiểm tra sai sót;
Chúng tôi đã tiến hành đo liên tục 5 ngày đêm
tại mỗi điểm đo, lựa chọn phương án xử lý hậu
kỳ (postprocessing) cho số liệu đã được kiểm
tra và đánh giá chất lượng, bằng các phần mềm
khác nhau. Phần mềm được chúng tôi sử dụng
ở đây là BERNESE 5.0. Đây là phần mềm
chuẩn quốc tế được sử dụng trong các tính toán
vận tốc chuyển dịch GPS và công bố quốc tế.
Phương pháp tính biến dạng
Để tính biến dạng, chúng tôi đã sử dụng
phần mềm QOCA (Quasi-Observation
Combination Analysis), là gói phần mềm cho
phép kết hợp các lời giải vận tốc chuyển dịch
khác nhau nhằm thu được thông tin về biến
dạng của vỏ trái đất. Cơ sở lý thuyết của phần
mềm được hoàn thiện và công bố năm 1998
[21]. QOCA chấp nhận nhiều định dạng kết quả
tính khác nhau từ các phần mềm xử lý số liệu
GPS như: GIPSY, GAMIT, FONDA, GLOBK,
BERNESE. Trong quá trình phát triển, QOCA
đã trải qua nhiều phiên bản khác nhau chạy trên
hệ điều hành họ UNIX. Trong nghiên cứu nay,
chúng tôi sử dụng phiên bản 1.34 với chương
trình tính biến dạng được gọi là
ANALYZE_STRAIN thay thế cho chương trình
tính biến dạng CAL_STR được phát triển trong
các phiên bản trước phiên bản 1.27. Người sử
dụng cần phải định dạng các đa giác cần tính
biến dạng từ lưới quan trắc với các lựa chọn
tính hoặc trong các tam giác Delauney hoặc
tính biến dạng trung bình trong một tập hợp
điểm quan trắc hoặc tính biến dạng trung bình
trong các đa giác nhất định. Nghiên cứu áp
dụng cách tính biến dạng trung bình trong các
đa giác đã định sẵn [22, 23]. Từ trường vận tốc
chuyển dịch, chương trình tính biến dạng này
cho phép tính các tham số biến dạng, với kết
quả đầu ra bao gồm: vận tốc biến dạng chính
lớn nhất và nhỏ nhất, vận tốc xoay, góc lệch
giữa phương của trục biến dạng chính nhỏ nhất
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
215
và phương bắc, vận tốc biến dạng trương nở và
vận tốc biến dạng trượt cực đại
KẾT QUẢ
Chuyển động kiến tạo hiện đại
Hình 2. Biểu đồ sai số trung phương các thành
phần theo chiều dài cạnh của các ngày đo chu
kỳ tháng 3/2013 mạng lưới lớn
Hình 3. Biểu đồ sai số trung phương các thành
phần theo chiều dài cạnh của tất cả các ngày đo
chu kỳ tháng 10/2013 mạng lưới lớn
Từ kết quả của 3 đợt đo GPS của mạng lưới
gồm 12 điểm đo thuộc lưới Ninh Thuận, chúng
tôi đã tính được tọa độ chính xác của các điểm
đo trong mạng lưới theo từng chu kỳ đo năm
2012 và 2013 với sai số trung phương của từng
thành phần theo chiều dài cạnh như biểu đồ
hình 2 và hình 3.
Bảng 7. Vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện đại tương đối so với điểm CAD1
Đơn vị tính: mm/năm
Station Lon Lat Ve Vn Vu Re Rn Ru
NPU1 108,8627 11,4941 -2,9 -0,7 -6,3 0,7 0,5 1,5
NSO1 108,8794 11,6397 1,9 -1,8 -24,3 0,6 0,4 1,8
PKA1 109,0236 11,7452 -0,9 7,0 -6,8 0,4 0,7 1,6
PMI1 108,9030 11,4222 0,1 2,4 2,9 0,5 0,8 1,5
THA1 109,1602 11,6250 1,2 -0,8 -12,4 0,7 0,3 1,6
TUT1 108,9713 11,4672 -0,3 2,1 -9,4 0,4 0,6 1,5
VIS1 109,1963 11,7180 -0,2 0,3 3,2 0,8 0,6 1,7
Chú thích: Ve - Vận tốc theo hướng đông; Vn - Vận tốc theo hướng bắc, Vu - Vận tốc theo
phương thẳng đứng, Re, Rn và Ru là sai số tương ứng; đơn vị tính mm/năm.
Kết quả xác định vận tốc chuyển động kiến
tạo hiện đại được trình bày trong bảng 7 và 8.
Các giá trị trên là vận động tuyệt đối tính trong
lưới chiếu toàn cầu ITRF08. Cột thứ nhất thể
hiện tên trạm đo, cột thứ 2 và cột thứ 3 thể hiện
tọa độ điểm đo. Cột thứ 4 (Ve) thể hiện vận tốc
chuyển dịch tuyệt đối trong mạng lưới ITRF08
theo phương vĩ tuyến, ở đây giá trị “+” thể hiện
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
216
chuyển dịch về phía đông, giá trị “-” thể hiện
chuyển dịch về phía tây. Đơn vị là mm/năm. Cột
thứ 5 (Vn) thể vận tốc chuyển dịch theo phương
kinh tuyến trong cùng hệ lưới, giá trị “-” thể hiện
chuyển dịch về phía nam, giá trị “+” thể hiện
chuyển dịch về phía bắc, Vu thể hiện vận tốc
chuyển dịch theo phương thẳng đứng, giá trị “+”
thể hiện nâng lên, giá trị “-” thể hiện hạ.
Bảng 8. Vận tốc chuyển dịch kiến tạo hiện đại trong mạng lưới toàn cầu ITRF08
Đơn vị tính: mm/năm
Station Lon Lat Ve Vn Vu Re Rn Ru
NPU1 108,8627 11,4941 22,8 -7,8 -15,7 0,5 0,4 1,7
NSO1 108,8794 11,6397 26,1 -10,0 -34,2 0,6 0,5 2,3
PKA1 109,0236 11,7452 21,4 -0,8 -25,0 0,5 0,4 2,0
PMI1 108,9030 11,4222 26,6 -4,3 -3,4 0,5 0,4 1,8
THA1 109,1602 11,6250 28,5 -5,8 0,9 0,5 0,5 2,2
TUT1 108,9713 11,4672 24,7 -6,3 -16,7 0,5 0,4 1,9
VIS1 109,1963 11,7180 24,8 -8,9 -12,3 0,5 0,4 1,9
CAD1 109,0100 11,6024 23,9 -7,1 -6,3 0,3 0,2 1,1
DALA 108,4456 11,9529 23,2 -4,4 -6,1 0,3 0,3 1,2
NHAT 109,2146 12,2073 24,7 -8,4 -4,7 0,3 0,2 1,1
PQUY 108,9320 10,5163 25,3 -7,4 -3,4 0,3 0,2 1,1
TUYP 108,7151 11,1807 22,5 -7,2 -0,2 0,3 0,2 1,1
Sơ đồ phân bố các vectơ chuyển dịch trên
lưới toàn cầu ITRF08 thể hiện trên hình 4 với
các mũi tên màu xanh. Các mũi tên màu vàng
là các giá trị được sử dụng từ các đề tài khác để
xác định vận tốc biến dạng cho khu vực Ninh
Thuận và lân cận.
Hình 4. Sơ đồ phân bố vận tốc chuyển dịch
kiến tạo hiện đại trong hệ thống định vị toàn
cầu ITRF08 của các trạm đo GPS lưới Ninh
Thuận mạng lưới lớn kéo dài từ Đà Lạt, Nha
Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận
Hình 5. Sơ đồ phân bố vận tốc chuyển dịch
kiến tạo hiện đại trong hệ thống định vị toàn
cầu ITRF08 của các trạm đo GPS lưới Ninh
Thuận mạng lưới nhỏ trong vòng bán kính 30
km của các vị trí dự kiến xây dựng nhà máy
điện hạt nhân Ninh Thuận
Vận tốc biến dạng kiến tạo hiện đại
Từ các kết quả trên, bước đầu chúng tôi đã
tính vận tốc chuyển dịch tuyệt đối của các điểm
thuộc khu vực Ninh Thuận và vùng lân cận như
được thể hiện trên bảng 8, hình 4.
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
217
Ngoài 13 điểm đo thuộc lưới Ninh Thuận,
chúng tôi tham khảo thêm kết quả của các điểm
đo điểm GPS ở vùng lân cận [2, 11, 16, 17, 24,
25, 41, 42] và đã tiến hành phân chia khu vực
nghiên cứu thành các tam giác để tính vận tốc
biến dạng. Để nâng cao tính chính xác, các tam
giác được lựa chọn sao cho có diện tích và
khoảng cách các cạnh đồng đều nhất (có thể).
Trên cơ sở 7 điểm đo GPS được lựa chọn, đã
tiến hành phân chia khu vực nghiên cứu thành
một mạng lưới 6 đa giác. Việc này được tiến
hành dựa trên nguyên tắc: lấy điểm CAD1 và
TUYP làm trung tâm để kết nối với các điểm
xung sao cho diện tích của các đa giác không
quá chênh lệch nhau, phù hợp với quy mô lưới
tính biến dạng. Lưới đa giác được tạo thành có
trọng tâm của mỗi đa giác thường nằm ở tâm
của các cấu trúc quan trọng.
Kết quả các giá trị vận tốc biến dạng chính
của các tam giác này được tính toán thể hiện ở
trọng tâm của mỗi tam giác (hình 6).
Hình 6. Vận tốc biến dạng trong các đa giác (từ
T1 đến T6) tính từ số liệu chuyển dịch GPS thể
hiện các trạng thái biến dạng nén ép, trượt bằng
hoặc căng giãn trong các đa giác khác nhau
Khu vực nghiên cứu với quy mô lưới tính
biến dạng lớn nhưng chỉ có 7 điểm đo GPS. Để
thu được một trường biến dạng mang tính liên
tục, cần phải có một trường vận tốc chuyển
dịch với các điểm GPS phân bố tương đối đều
trong lưới. Nhằm mô tả trường vận tốc biến
dạng liên tục, đã tiến hành nội suy vận tốc
chuyển dịch theo lưới 0,20 × 0,20 cho toàn vùng
trên cơ sở vận tốc chuyển dịch của 7 điểm đã
được lựa chọn kết hợp với số liệu đã công bố
khu vực Nam Bộ (Trần Đình Tô), chương trình
châu Á - Thái Bình Dương [1, 2] và Tây
Nguyên (đề tài TN3/T06). Việc nội suy được
tiến hành bằng phương pháp Kriging cho từng
thành phần vận tốc. Kriging là phương pháp
nội suy tìm ra đặc tính chung của toàn bộ bề
mặt được thể hiện bởi các giá trị số đo, và áp
dụng các đặc tính đó cho các phần khác của bề
mặt. Kriging dựa trên phương pháp “phân tích
bề mặt” và “trọng số trung bình”. Trọng số
được xác định bởi xu hướng của những độ lệch
giữa đường cong bề mặt toàn cầu và các điểm
quan sát. Kết quả thu được một trường vận tốc
chuyển dịch phân bố đều. Hình 7 giới thiệu
trường vận tốc chuyển dịch nhận được cùng các
vectơ vận tốc đo thực tế. Từ trường vận tốc
chuyển dịch này, đã tiến hành tính biến dạng
cho lưới tứ giác 0,20 × 0,20 trong phạm vi của
các đa giác nội mảng. Mỗi ô lưới 0,20 × 0,20
tương đương với diện tích khoảng 484 km2.
Hình 7. Vận tốc biến dạng xoay trong các đa
giác nội mảng
Hình 8. Vận tốc chuyển dịch nội suy theo lưới
0,20 × 0,20 bằng phương pháp Kriging từ các giá
trị đo chuyển dịch tuyệt đối của các điểm GPS
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
218
Hình 9. Vận tốc biến dạng tính từ vận tốc
chuyển dịch nội suy
Hình 10. Vận tốc biến dạng xoay tính từ vận
tốc chuyển dịch nội suy
Độ lớn vận tốc biến dạng - đại lượng bất
biến thứ hai
Ngoài các giá trị vận tốc biến dạng chính và
vận tốc biến dạng xoay, chúng tôi còn xác định
một số tham số như độ lớn biến dạng mà bản
chất là bất biến thứ 2 trong tenxơ vận tốc biến
dạng. “Độ lớn biến dạng” tính được nằm ở tâm
của mỗi ô vuông kích thước 0,20 × 0,20. Kết
quả cho phép nhận dạng các khu vực biến dạng
mạnh yếu khác nhau trong khu vực nghiên cứu.
Theo đó, biến dạng lớn nhất là ở phía tây Bảo
Lộc (20 nano-strain/năm) và ở tây Nha Trang
(14 nano-strain/năm). Biến dạng yếu nhất nằm
ở phía đông Nha Trang và vịnh Phan Thiết
(< 2 nano-strain/năm). Khu vực Ninh Thuận có
giá trị độ lớn biến dạng yếu, nhỏ hơn 14 nano-
strain/năm (hình 11).
Hình 11. “Độ lớn biến dạng” tính từ vận tốc
chuyển dịch nội suy. Giá trị này tính theo đại
lượng bất biến thứ hai của tenxơ biến dạng. Cơ
cấu chấn tiêu động đất theo danh mục CMT
(1976 - 2011)
Vận tốc biến dạng khối hai chiều - bất biến
thứ nhất
Độ lớn biến dạng khối hai chiều (nền màu)
tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy. Giá trị này
tính theo đại lượng bất biến thứ nhất của tenxơ
biến dạng. Độ lớn biến dạng khối 2D tính được
nằm ở tâm của mỗi ô vuông kích thước 0,20 ×
0,20. Các giá trị này được nội suy một lần nữa
bằng phương pháp tương tự đã áp dụng cho
tính độ lớn biến dạng. Kết quả thể hiện trên
hình 12.
Các vùng có giá trị dương lớn nhất là phía
nam và tây nam Phan Rang - Ninh Thuận và
phía tây đảo Phú Quý (14 - 18 nano-
strain/năm). Vùng có giá trị âm lớn nhất là phía
tây bắc Đà Lạt và phía đông nam vịnh Nha
Trang. Giá trị dương biểu thị biến dạng thuận
lợi cho phát triển đứt gãy thuận. Giá trị dương
của biến dạng trương nở hai chiều ở phía tây
đảo Phú Quý phù hợp với sự có mặt của các
trận động đất với cơ chế đứt gãy thuận ở lân
cận đảo này (hình 12).
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
219
Hình 12. Độ lớn biến dạng trương nở 2D (nền
màu) tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy. Giá
trị này này tính theo đại lượng bất biến thứ nhất
của tenxơ biến dạng. Giá trị dương biểu thị
biến dạng thuận lợi cho phát triển đứt gãy
thuận, giá trị âm biểu thị biến dạng thuận lợi
cho phát triển đứt gãy nghịch
Vận tốc biến dạng trượt cực đại
Độ lớn biến dạng trượt cực đại (nền màu và
kích thước dấu cộng) tính từ vận tốc chuyển
dịch nội suy. Phương của biến dạng trượt cực
đại thể hiện thông qua định hướng của dấu
cộng. Độ lớn biến dạng trượt cực đại tính được
nằm ở tâm của mỗi ô vuông kích thước 0,20 ×
0,20. Các giá trị này được nội suy một lần nữa
bằng phương pháp tương tự áp dụng cho tính
độ lớn biến dạng. Kết quả thể hiện trên hình 13.
Biến dạng trượt cực đại lớn nhất là ở phía
tây Bảo Lộc và tây Nha Trang (40 - 60 nano-
strain/năm). Vùng Phan Rang có vận tốc biến
dạng trượt cỡ 10 nano-strain/năm. Vùng đông
Nha Trang và tây Phú Quý có vận tôc biến
dạng trượt thấp nhất. Độ lớn biến dạng trượt
cực đại và phương của nó đặc trưng cho tính
cục bộ của biến dạng trượt lẫn phương mà dọc
theo đó hoạt động đứt gãy trượt bằng dễ xảy ra
nhất. Các đứt gãy trượt bằng nếu xảy ra sẽ có
chuyển dịch phải nếu đứt gãy định hướng theo
phương tây bắc - đông nam và chuyển dịch trái
nếu đứt gãy định hướng theo phương đông bắc
- tây nam. Các vùng nam và tây Phan Rang
thuận lợi cho phát triển đứt gãy trượt bằng.
Hình 13. Độ lớn biến dạng trượt cực đại (thể
biện bằng nền màu - biểu diễn giá trị dương và
kích thước dấu cộng) tính từ vận tốc chuyển
dịch nội suy. Phương của biến dạng trượt cực
đại thể hiện thông qua định hướng của dấu
cộng. Độ lớn biến dạng trượt cực đại và
phương của nó đặc trưng tính cục bộ của biến
dạng trượt lẫn phương mà dọc theo đó hoạt
động đứt gãy trượt bằng dễ xảy ra nhất
Hình 14. Sơ đồ gradient vận tốc biến dạng
chi tiết theo tài liệu đo GPS cho khu vực
bán kính 25 km
Nhìn chung vận tốc dịch chuyển về phía
đông giao động trong khoảng 22 mm/năm tới
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
220
26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam từ
6 mm/năm tới 8 mm/năm. Tuy nhiên, điểm
THA1 có vận tốc chuyển dịch về phía đông đạt
tới 28,5 mm/năm, điểm PKA1 chuyển dịch về
phía nam chỉ với vận tốc -0,8 mm/năm. Trong
khi đó vận tốc dịch chuyển về phía nam của
NSO1 đạt tới giá trị 10 mm/năm. Theo thông
báo của phần mềm BERNESE, sai số vận tốc
theo phương á vĩ tuyến thay đổi từ 0,3 -
0,6 mm/năm, theo phương kinh tuyến 0,2 -
0,5 mm/năm. Tuy nhiên sai số thực có thể gấp
3 lần ứng với 0,9 - 1,8 mm/năm đối với phương
vĩ tuyến và 0,6 - 1,5 mm/năm đối với phương
kinh tuyến.
THẢO LUẬN
Với thời gian thực hiện đo GPS chỉ trong
khoảng thời gian ngắn, các kết quả đo GPS tại
khu vực Ninh Thuận hoàn toàn tương tích với
kết quả đo GPS tại HOCM, KT04, SRIS, SIEM
là các trạm đo GPS trong khoảng thời gian trên
10 năm. Nhìn chung vận tốc dịch chuyển về
phía đông giao động trong khoảng 22 mm/năm
tới 26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam từ
6 mm/năm tới 8 mm/năm. Tuy nhiên, một số vị
trí có giá trị tương đối khác biệt như điểm
THA1 có vận tốc chuyển dịch về phía đông đạt
tới 28,5 mm/năm, điểm PKA1 chuyển dịch về
phía nam chỉ với vận tốc -0,8 mm/năm. Trong
khi đó vận tốc dịch chuyển về phía nam của
NSO1 đạt tới giá trị 10 mm/năm. Giá trị sai số
theo thông báo của phần mềm BERNESE đối
với phương vĩ tuyến giao động trong khoảng
0,3 - 0,6 mm/năm, theo phương kinh tuyến 0,3
- 0,5 mm/năm. Tuy nhiên giá trị sai số thực có
lẽ phải gấp 3 lần, tức là sai số chuẩn phải ít
nhất trong khoảng 0,9 - 1,8 mm/năm đối với
phương kinh tuyến. Chúng tôi cho rằng có thể
do thời gian đo quá ngắn nên sai số còn lớn.
Giá trị vận tốc biến dạng chính thay đổi từ 19 -
68 nano biến dạng/năm, với giá trị trung bình là
33 nano biến dạng/năm. Vận tốc biến dạng
xoay nhìn chung nhỏ hơn 25 nano biến
dạng/năm. Phương trục vận tốc biến dạng tách
giãn giao động theo phương bắc nam, còn
phương trục vận tốc biến dạng nén ép giao
động quanh phương vĩ tuyến. Độ lớn biến dạng
tính từ vận tốc chuyển dịch nội suy theo đại
lượng bất biến thứ hai của tenxơ vận tốc biến
dạng nhỏ hơn 22 nano biến dạng/năm. Vận tốc
biến dạng khối hai chiều có giá trị giao động từ
-8 nanno biến dạng/năm tới 18 nanno biến
dạng/năm. Độ lớn biến dạng trượt cực đại nhỏ
hơn giá trị 60 nano biến dạng/năm. Giá trị sai
số biến dạng nhỏ hơn 50 nano biến dạng/năm.
Với giá trị vận tốc biến dạng như đã trình bày,
vùng Ninh Thuận và khu vực lân cận có thể coi
là vùng có chế độ phân dị kiến tạo rất yếu, khá
phù hợp với mô hình vùng ổn định của khối
Sunda mà một số tác giả đã đề cập trước đây
[1, 2, 28]. Do là khu vực có tốc độ biến dạng
yếu nên cần xem xét tích lũy động đất trong
khoảng thời gian dài, chu kỳ tích lũy không chỉ
là 10.000 năm mà cần thiết xem xét trong
100.000 năm thậm chí trong toàn bộ Đệ tứ.
Theo khuyến cáo của cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế, những vùng có biến dạng
kiến tạo yếu cần xem xét trong khoảng thậm
chí dài hơn như Pliocen.
KẾT LUẬN
Với 3 chu kỳ đo GPS trong khoảng thời
gian 2012 - 2013, chúng tôi nhận thấy chuyển
động kiến tạo hiện đại thể toàn khu vực Ninh
Thuận có vận tốc dịch chuyển về phía đông 22
- 26 mm/năm, dịch chuyển về phía nam 6 -
8 mm/năm. Giá trị sai số của vận tốc chuyển
dịch kiến tạo hiện đại 0,9 - 1,8 mm/năm đối với
phương kinh tuyến. Giá trị vận tốc biến dạng
chính thay đổi từ 19 - 68 nano biến dạng/năm,
Vận tốc biến dạng xoay nhỏ hơn 25 nano biến
dạng/năm. Phương trục vận tốc biến dạng tách
giãn giao động theo phương bắc nam, phương
trục vận tốc biến dạng nén ép giao động quanh
phương vĩ tuyến. Độ lớn biến dạng của bất biến
thứ hai của tenxơ vận tốc biến dạng nhỏ hơn
22 nano biến dạng/năm. Vận tốc biến dạng khối
hai chiều giao động từ -8 nanno biến dạng/năm
tới 18 nanno biến dạng/năm. Độ lớn biến dạng
trượt cực đại nhỏ hơn giá trị 60 nano biến
dạng/năm. Giá trị sai số biến dạng nhỏ hơn
50 nano biến dạng/năm. Vùng Ninh Thuận và
khu vực lân cận là vùng có chế độ kiến tạo ổn
định, cần xem xét đứt gãy hoạt động và đứt gãy
sinh chấn trong khoảng thời gian Pliocen - Đệ
tứ như khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng
nguyên tử quốc tế IAEA.
Lời cảm ơn: Bài viết này là kết quả của đề tài
độc lập cấp nhà nước “Đánh giá gradient
chuyển dịch kiến tạo trong Pleistocen muộn và
hiện đại khu vực dự kiến xây dựng nhà máy
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
221
điện hạt nhân Ninh thuận”, mã số 03/2012 và
đề tài trọng điểm cấp nhà nước: “Nghiên cứu
địa động lực hiện đại khu vực Tây Nguyên
phục vụ dự báo các dạng tai biến địa chất ở các
vùng đập, hồ chứa và đề xuất các giải pháp
phòng tránh”. Mã số TN3/06. Tập thể tác giả
cảm ơn sự tài trợ kinh phí của quĩ phát triển
Khoa học và Công nghệ NAFOSTED và Bộ
Khoa học và Công nghệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dawson, J., Luton, G., and Govind, R.,
2004. Permanent Committee for GIS
Infrastructure for Asia and the Pacific,
1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 GPS
Campaign Analysis. PCGIAP Report.
2. Guorong Hu and John Dawson, 2010. The
Asia Pacific Regional Geodetic Project
(APRGP) GPS Solution (1997 - 2008),
XXIV FIG, (www.icsm.gov.au/icsm/FIG/-
CongressPaper4113.pdf.)
3. Phan Trọng Trịnh, 2012. Kiến tạo trẻ và
địa động lực hiện đại vùng biển Việt Nam
và kế cận. Nxb. Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, 332 tr.
4. Phan Trọng Trịnh, 2013. Tràn dầu tự nhiên
và mối liên quan với kiến tạo vùng biển
Việt Nam và kế cận. Nxb. Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ, 308 tr.
5. Briais, A., Patriat, P., and Tapponnier, P.,
1993. Updated interpretation of magnetic
anomalies and seafloor spreading stages in
the South China Sea: Implications for the
Tertiary tectonics of Southeast Asia.
Journal of Geophysical Research: Solid
Earth (1978 - 2012), 98(B4): 6299-6328.
6. Leloup, P. H., Lacassin, R., Tapponnier, P.,
Schärer, U., Zhong, D., Liu, X., Zhang, L.,
Ji, S., and Trinh, P. T., 1995. The Ailao
Shan-Red River shear zone (Yunnan,
China), Tertiary transform boundary of
Indochina. Tectonophysics, 251(1): 3-84.
7. Rangin, C., Huchon, P., Le Pichon, X.,
Bellon, H., Lepvrier, C., Roques, D., Hoe,
N. D., and Van Quynh, P., 1995. Cenozoic
deformation of central and south Vietnam.
Tectonophysics, 251(1): 179-196.
8. Roques, D., Matthews, S. J., and Rangin,
C., 1997. Constraints on strike-slip motion
from seismic and gravity data along the
Vietnam margin offshore Da Nang:
implications for hydrocarbon prospectivity
and opening of the East Vietnam Sea.
Geological Society, London, Special
Publications, 126(1): 341-353.
9. Fyhn, M. B., Boldreel, L. O., and Nielsen, L.
H., 2009a. Geological development of the
Central and South Vietnamese margin:
Implications for the establishment of the
South China Sea, Indochinese escape
tectonics and Cenozoic volcanism.
Tectonophysics, 478(3): 184-214.
10. Fyhn, M. B., Nielsen, L. H., Boldreel, L. O.,
Thang, L. D., Bojesen-Koefoed, J.,
Petersen, H. I., Huyen, N. T., Duc, N. A.,
Dau, N. T, Mathiesen, A., Reid, I., Huong,
D. T., Tuan, H. A., Hien, L. V., Nytoft, H.
P., and Abatzis, I., 2009b. Geological
evolution, regional perspectives and
hydrocarbon potential of the northwest Phu
Khanh Basin, offshore Central Vietnam.
Marine and Petroleum Geology, 26(1): 1-
24.
11. Hoang, N., Flower, M. F., & Carlson, R.
W., 1996. Major, trace element, and
isotopic compositions of Vietnamese
basalts: Interaction of hydrous EM1-rich
asthenosphere with thinned Eurasian
lithosphere. Geochimica et Cosmochimica
Acta, 60(22): 4329-4351.
12. Hoang, N., and Flower, M., 1998.
Petrogenesis of Cenozoic basalts from
Vietnam: implication for origins of a
‘diffuse igneous province’. Journal of
Petrology, 39(3): 369-395.
13. Nguyễn Kinh Quốc, Lê Ngọc Thước,
1979. Phun trào bazan Kainozoi muộn Nam
Trung Bộ. Địa chất và khoáng sản, 1: 137-
158. Liên đoàn Bản đồ địa chất, Hà Nội.
14. Nguyễn Xuân Hãn, Nguyễn Trọng Yêm,
Nguyễn Hoàng, Cung Thượng Chí, Phạm
Tích Xuân, 1991. Hoạt động núi lửa
Kainozoi muộn Nam Trung Bộ. Địa chất,
202-203: 33-41, Hà Nội.
15. Phạm Tích Xuân, Nguyễn Hoàng, Lee Hyun
Koo, 2003. Đặc điểm thành phần nguyên tố
vết và đồng vị trong bazan Kainozoi muộn
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
222
tại Việt Nam và ý nghĩa kiến tạo của
chúng. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất,
25(4): 449-510. Hà Nội.
16. Lee, G. H., Lee, K., & Watkins, J. S., 2001.
Geologic evolution of the Cuu Long and
Nam Con Son basins, offshore southern
Vietnam, South China Sea. AAPG bulletin,
85(6): 1055-1082.
17. Clift, P. D., and Sun, Z., 2006. The
sedimentary and tectonic evolution of the
Yinggehai - Song Hong basin and the
southern Hainan margin, South China Sea:
Implications for Tibetan uplift and
monsoon intensification. Journal of
Geophysical Research: Solid Earth (1978 -
2012), 111(B6).
18. Clift, P., Lee, G. H., Anh Duc, N.,
Barckhausen, U., Van Long, H., and Zhen,
S., 2008. Seismic reflection evidence for a
Dangerous Grounds miniplate: No
extrusion origin for the South China Sea.
Tectonics, 27(3).
19. Trinh, P. T., Van Liem, N., Van Huong, N.,
Vinh, H. Q., Van Thom, B., Thao, B. T.,
Tan, M. T., and Hoang, N., 2012. Late
Quaternary tectonics and seismotectonics
along the Red River fault zone, North
Vietnam. Earth-Science Reviews, 114(3):
224-235.
20. Trinh, P., Vinh, H., Huong, N., and Liem,
N., 2013. Active fault segmentation and
seismic hazard in Hoa-Binh reservoir,
Vietnam. Open Geosciences, 5(2): 223-235.
21. Beavan, J., Tregoning, P., Bevis, M., Kato,
T., and Meertens, C., 2002. Motion and
rigidity of the Pacific Plate and
implications for plate boundary
deformation. Journal of Geophysical
Research: Solid Earth (1978 - 2012),
107(B10): ETG-19.
22. Bock, Y., Prawirodirdjo, L., Genrich, J. F.,
Stevens, C. W., McCaffrey, R., Subarya, C.,
Puntodewo, S. S. O., and Calais, E., 2003.
Crustal motion in Indonesia from global
positioning system measurements. Journal
of Geophysical Research: Solid Earth (1978
- 2012), 108(B8).
23. Calais, E., Vergnolle, M., San'Kov, V.,
Lukhnev, A., Miroshnitchenko, A.,
Amarjargal, S., and Déverchère, J., 2003.
GPS measurements of crustal deformation
in the Baikal‐Mongolia area (1994 - 2002):
Implications for current kinematics of Asia.
Journal of Geophysical Research: Solid
Earth (1978 - 2012), 108(B10).
24. Chamot-Rooke, N., and Le Pichon, X.,
1999. GPS determined eastward Sundaland
motion with respect to Eurasia confirmed
by earthquakes slip vectors at Sunda and
Philippine trenches. Earth and Planetary
Science Letters, 173(4): 439-455.
25. Chen, Z., Burchfiel, B. C., Liu, Y., King, R.
W., Royden, L. H., Tang, W., Wang, E.,
Zhao, J., and Zhang, X., 2000. Global
Positioning System measurements from
eastern Tibet and their implications for
India/Eurasia. Journal of Geophysical
Research, 105(B7): 16215-16227.
26. Gan, W., Zhang, P., Shen, Z. K., Niu, Z.,
Wang, M., Wan, Y., Zhou, D., and Cheng,
J., 2007. Present‐day crustal motion within
the Tibetan Plateau inferred from GPS
measurements. Journal of Geophysical
Research: Solid Earth (1978 - 2012),
112(B8).
27. Galgana, G., Hamburger, M., McCaffrey,
R., Corpuz, E., and Chen, Q., 2007.
Analysis of crustal deformation in Luzon,
Philippines using geodetic observations and
earthquake focal mechanisms.
Tectonophysics, 432(1): 63-87.
28. Iwakuni, M., Kato, T., Takiguchi, H.,
Nakaegawa, T., & Satomura, M., 2004.
Crustal deformation in Thailand and
tectonics of Indochina peninsula as seen
from GPS observations. Geophysical
research letters, 31.
29. Michel, G. W., Yu, Y. Q., Zhu, S. Y.,
Reigber, C., Becker, M., Reinhart, E.,
Simons, W., Ambrosius, B., Vigny, C.,
Chamot-Rooke, N., Pichon, X. L., Morgan,
P., and Matheussen, S., 2001. Crustal
motion and block behaviour in SE-Asia
from GPS measurements. Earth and
Planetary Science Letters, 187(3): 239-244.
30. Zhijun, N., Min, W., Hanrong, S.,
Jianzhong, S., Xinzhao, Y., Weijun, G.,
Gradient kiến tạo hiện đại khu vực
223
Guijiang, X., Jinxin, H., Shaohua, X.,
Yongqing, W., Yongxiang, W., and Bai, L.,
2005. Contemporary velocity field of
crustal movement of Chinese mainland
from Global Positioning System
measurements. Chinese Science Bulletin,
50(9): 939-941.
31. Shen, Z. K., Lü, J., Wang, M., and
Bürgmann, R., 2005. Contemporary crustal
deformation around the southeast
borderland of the Tibetan Plateau. Journal
of Geophysical Research: Solid Earth (1978
- 2012), 110(B11).
32. Simons, W. J. F., Socquet, A., Vigny, C.,
Ambrosius, B. A. C., Haji Abu, S.,
Promthong, C., Subarya, C., Sarsito, D. A.,
Matheussen, S., Morgan, P., and Spakman,
W., 2007. A decade of GPS in Southeast
Asia: Resolving Sundaland motion and
boundaries. Journal of Geophysical
Research: Solid Earth (1978 - 2012),
112(B6).
33. Socquet, A., Simons, W., Vigny, C.,
McCaffrey, R., Subarya, C., Sarsito, D.,
Ambrosius, B., and Spakman, W., 2006.
Microblock rotations and fault coupling in
SE Asia triple junction (Sulawesi,
Indonesia) from GPS and earthquake slip
vector data. Journal of Geophysical
Research: Solid Earth (1978 - 2012),
111(B8).
34. Vigny, C., Simons, W. J., Abu, S.,
Bamphenyu, R., Satirapod, C., Choosakul,
N., Subarya, C., Socquet, A., Omar, K.,
Abidin, H. Z., and Ambrosius, B. A. C.,
2005. Insight into the 2004 Sumatra-
Andaman earthquake from GPS
measurements in southeast Asia. Nature,
436(7048): 201-206.
35. Zhang, P. Z., Shen, Z., Wang, M., Gan, W.,
Bürgmann, R., Molnar, P., Wang, Q., Niu,
Z., Sun, J., Wu, J., Hanrong, S., and
Xinzhao, Y., 2004. Continuous deformation
of the Tibetan Plateau from global
positioning system data. Geology, 32(9):
809-812.
36. Cong, D. C., and Feigl, K. L., 1999.
Geodetic measurement of horizontal strain
across the Red River fault near Thac Ba,
Vietnam, 1963 - 1994. Journal of Geodesy,
73(6): 298-310.
37. Feigl, K. L., Cong, D. C., Becker, M., To, T.
D., Neumann, K., and Xuyen, N. Q., 2003.
Insignificant horizontal strain across the
Red River fault near Thac Ba, Vietnam
from GPS measurements 1994-2000. In
EGS-AGU-EUG Joint Assembly (Vol. 1,
p. 4707).
38. Lê Huy Minh, Kurt Feigl, Frédéric Masson,
Dương Chí Công, Alain Bourdillon, Patrick
Lassudrie Duchesne, Nguyễn Chiến Thắng,
Nguyễn Hà Thành, Trần Ngọc Nam, Hoàng
Thái Lan, 2012. Dịch chuyển vỏ Trái Đất
theo số liệu GPS liên tục tại Việt Nam và
khu vực Đông Nam Á. Tạp chí Các Khoa
học về Trái đất, 32(3): 249-260.
39. Trần Đình Tô và Nguyễn Trọng Yêm, 2004.
Chuyển động hiện đại vỏ Trái đất lãnh thổ
Việt Nam theo số liệu đo GPS. Tạp chí Các
khoa học về Trái đất, 26(4): 579-586.
40. Trần Đình Tô, Vy Quốc Hải, 2005. Xác
định chuyển động hiện đại đới đứt gãy Lai
Châu-Điện Biên từ số liệu đo GPS (2002 -
2004). Tạp chí các khoa học về Trái đất,
27(1): 6-13, Hà Nội.
41. Dong, D., Herring, T. A., and King, R. W.,
1998. Estimating regional deformation
from a combination of space and terrestrial
geodetic data. Journal of Geodesy, 72(4):
200-214.
42. Đỗ Tuyết, Nguyễn Tiến Tân, Đinh Văn
Thành, 1980. Về các bề mặt san bằng ở
vùng Đà Lạt. Tạp chí địa chất, 149(5-6):
14-21.
Phan Trọng Trịnh, Ngô Văn Liêm,
224
PRESENT DAY TECTONIC GRADIENT IN NINH THUAN AND
SURROUNDING REGION
Phan Trong Trinh, Ngo Van Liem, Vy Quoc Hai, Tran Van Phong, Nguyen Van Huong,
Nguyen Viet Thuan, Nguyen Quang Xuyen, Bui Van Thom, Nguyen Dang Tuc, Hoang
Quang Vinh, Nguyen Huy Thinh, Bui Thi Thao, Tran Quoc Hung
Institute of Geological Sciences-VAST
ABSTRACT: The estimation of the present day tectonic movement and tectonic gradient (strain
rate) has an important practical signification in the assessment of active fault and seismic hazards
for the selection of Ninh Thuan nuclear power plant. Based on the three campaigns of GPS
measurement between 2012 - 2013, we used BERNESE 5.0 software to determine present day slip
rates of 13 stations in ITRF08 frame. The GPS stations move eastwards at the slip rates of 22 - 25
mm/yr, southwards at the velocities of 5 - 10 mm/yr. The standard errors in latitudinal and
longitudinal directions are 1.2 mm/yr and 0.9 mm/yr, respectively. Combined with GPS data from
the project of the study on actual geodynamics in Tay Nguyen TN3/06, we determined the strain rate
ranging from 50 to 100 nanostrains with the standard error of 50 nanostrains. The direction of
maximum compressive strain rate is from northwest - southeast to east - west.
Keywords: GPS, present-day tectonics, veolocity, tectonic gradient, strain rate, maximum
compressive axe, maximum extensive axe.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7216_26887_1_pb_491_2079686.pdf