Hài hòa lợi ích ích trong chính sách ngân hàng

Thực tế trong nước và thế giới cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, nợ là căn bệnh mãn tính, đồng hành cùng mọi quốc gia và doanh nghiệp; ngày càng có sự tác động tương hỗ giữa nợ xấu và nợ “đẹp”, giữa nợ công và nợ tư. Nợ xấu có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, là thước đo năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, môi trường và hoạt động kinh doanh. Nợ xấu có thể gây ra những hệ lụy bất ổn to lớn, vượt kiểm soát cả vĩ mô và vi mô, cả về kinh tế, xã hội và chính trị; đặc biệt không có ngoại lệ đổ vỡ cho bất cứ quốc gia, doanh nghiệp nào, dù trước đó từng giàu có và mạnh mẽ đến đâu Vì vậy, kiểm soát nợ xấu cần các giải pháp đồng bộ, chủ động và linh hoạt, sự phối hợp chặt chẽ giữa các giải pháp thị trường và quản lý nhà nước đặc thù, phù hợp với cam kết hội nhập, các quy chuẩn, tiêu chí và thông lệ quốc tế; chú ý tới tác động hai mặt, cũng như những lạm dụng có thể khi triển khai trên thực tế; coi trọng sự giám sát và phản biện xã hội để thông tin và kiểm soát chặt chẽ hơn, cảnh báo sớm và chính xác hơn, xử lý nghiêm khắc hơn, đề cao trách nhiệm của cả doanh nghiệp và các TCTD, bảo đảm hài hòa các lợi ích và sự phát triển lành mạnh nền kinh tế nói chung và thị trường nợ nói riêng

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hài hòa lợi ích ích trong chính sách ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Khi mua bán và sáp nhập ngân hàng với giá 0 đồng Tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) và TCTD là nội dung quan trọng của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam đã được xác định rõ trong Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ thông qua Đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”; sau đó, được khẳng định lại như một nội dung hợp thành của Đề án tổng thể tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 trong Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Trong giai đoạn 2012-2013, có 08 ngân hàng yếu kém đã từng bước thực hiện phương án tái cơ cấu là Ngân hàng thương * TS, Báo Nhân Dân. ** Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới. 29 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH HAÂI HOÂA LÚÅI ÑCH TRONG CHÑNH SAÁCH NGÊN HAÂNG NguyễN MiNh PhoNg* NguyễN TrầN MiNh Trí** Năm 2015 chứng kiến những thành công vượt trội của kinh tế Việt Nam về tăng trưởng GDP, giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát thị trường và hệ thống tài chính-ngân hàng, cải thiện môi trường đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế Góp phần làm nên những thành công này có sự nỗ lực quyết liệt, linh hoạt, đáng trân trọng của ngành ngân hàng, đặc biệt là sự cộng hưởng hệ quả hàng loạt biện pháp nổi bật: tạm dừng cấp phép thành lập ngân hàng và tổ chức tín dụng (TCTD) mới; nới “room” tỷ lệ sở hữu cổ phần tổ chức tài chính-tín dụng cho người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; gia tăng kiểm soát giảm thiểu quy mô, mặt trái của tình trạng sở hữu chéo và tình trạng sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ cho phép, tăng sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng; thúc đẩy các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD trên nguyên tắc tự nguyện và bắt buộc theo quy định của pháp luật, điều chỉnh tỷ giá, lãi suất tiền gửi bằng USD và đưa nợ xấu ngân hàng xuống dưới 3% tổng dư nợ mại cổ phần (TMCP) Sài Gòn (SCB), Ngân hàng TMCP Đệ Nhất (Ficombank), Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank), Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TienPhongBank), Ngân hàng TMCP Nam Việt (Navibank), Ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank) và Ngân hàng TMCP Phương Tây (Western Bank). Giai đoạn năm 2013-2014, có 5 TCTD đã thực hiện mua bán và sáp nhập (M&A); 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã giải thể, rút giấy phép và 4 NHTM nhà nước được cổ phần hóa. Năm 2015, tiếp tục có thêm những thương vụ M&A giữa Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB); Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MaritimeBank) với Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông (MDB); Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) với Ngân hàng TMCP Petrolimex (PGBank); và giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) với Ngân hàng TMCP Phương Nam (Southern Bank). Đặc biệt, trong năm 2015, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã liên tiếp mua lại 03 NHTM với giá 0 đồng (Ngân hàng TMCP Đại Dương - OceanBank, ngày 25/4/2015; Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam-VNBC, ngày 5/3/2015 và Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu - GPBank, ngày 7/7/2015). Sau 4 năm thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015” của NHNN, đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đã giảm 17 tổ chức, còn có một NHTM nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam), 37 ngân hàng TMCP (kể cả ba NHTM đã bị NHNN mua lại với giá 0 đồng), 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 01 ngân hàng chính sách và 01 ngân hàng hợp tác xã. Hoạt động M&A nói chung, trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng nói riêng đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển cả bề rộng và bề sâu, trong phạm vi quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn cầu, khi có khủng hoảng kinh tế cũng như vào những giai đoạn kinh tế phát triển tốt. M&A làm thay đổi cơ cấu sở hữu, quyền kiểm soát, điều hành, năng lực tài chính và quy mô kinh doanh, từ đó góp phần mở ra những cơ hội kinh doanh mới, tăng cường vị thế cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; thúc đẩy làn sóng tái cấu trúc, cải thiện cơ cấu và độ mở, sự gắn kết và khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của mỗi doanh nghiệp nói riêng, của nền kinh tế nói chung. Hoạt động M&A giúp lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Các NHTM tham gia hoạt động M&A không chỉ có thêm cơ hội vượt qua nguy cơ bị tuyên bố phá sản, mà còn có cơ hội mở rộng quy mô, thị phần, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, cải thiện năng lực tài chính, chi phí kinh doanh và khả năng cạnh tranh. Về mặt quốc gia, tái cơ cấu các TCTD không chỉ nhằm lành mạnh hóa từng TCTD, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, sự lành mạnh và ổn định hệ thống, mà còn là điều kiện và yêu cầu cần thiết để xây dựng một số tập đoàn tài chính ngân hàng mạnh, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, M&A cũng là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro và đầy trở ngại gắn với khả năng xác định đúng đắn tình hình tài chính, giá trị thương hiệu, tình trạng pháp lý và tài sản của doanh nghiệp; những hạn chế 30 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH về hệ thống luật, tính chuyên nghiệp, cơ sở dữ liệu thông tin của các nhà tư vấn, môi giới, luật sư, ngân hàng tham gia trong hợp đồng và thủ tục xác lập giao dịch; sự xung đột về chiến lược phát triển, văn hóa công ty, chính sách quản lý, đội ngũ nhân sự, áp lực thất nghiệp và những rủi ro khác. Đặc biệt, sự khác biệt của hai bên về kỳ vọng giá trị sẽ tăng cao hậu M&A; việc không công khai các khoản mục trọng yếu vào thời điểm phù hợp nhất và việc hay thay đổi các điều khoản, hoặc chậm trễ trong việc hoàn tất giao dịch do rào cản về pháp lý đề có thể làm nhạt nhòa những mục tiêu kỳ vọng trong M&A... Nếu chuẩn bị không kỹ và quản lý quá trình M&A không tốt, sẽ có thể tạo bất bình đẳng và thua thiệt quá mức cho bên yếu thế; lan truyền tin đồn thất thiệt, gây tâm lý không an tâm và ngập ngừng cho người gửi tiền; thậm chí, có thể tạo ra làn sóng rút tiền mất kiểm soát thị trường do gia tăng bột phát, phản ứng bầy đàn, đổ vỡ lòng tin thị trường, hoặc bị lợi dụng “đục nước béo cò”, đầu cơ, phá hoại; thất thoát tài sản công và tham nhũng, tiêu cực khác Việc NHNN mua lại các NHTM với giá 0 đồng thực chất cũng là một dạng M&A đặc thù, dù có vẻ ngoài như một hoạt động “quốc hữu hóa” mà một số nước phát triển từng dùng đối với một số công ty tư nhân yếu kém, nhưng không muốn sự đổ vỡ của nó gây hệ lụy tiêu cực lan tỏa cho nền kinh tế vĩ mô kiểu đô-mi-nô Ở Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, việc NHNN mua lại 03 NHTM đó với giá 0 đồng là cần thiết để giữ ổn định vĩ mô, cũng như bảo vệ người tiêu dùng, trong bối cảnh thị trường tài chính có độ nhạy cảm cao và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi NHTM thấp (không quá 50 triệu đồng/người) như hiện nay. Cái được lớn nhất và vô giá của giải pháp “cực chẳng đã” này là giữ được sự ổn định vĩ mô, không có sự hoảng loạn tâm lý đám đông nguy hiểm và làn sóng rút tiền hàng loạt dễ gây đổ vỡ toàn hệ thống thống NHTM với những hệ lụy khó lường khác Tuy nhiên, nếu kéo dài và lạm dụng giải pháp này dễ gây tâm lý ỷ lại nguy hại cho quản lý mỗi và cả hệ thống NHTM tương lai; đồng thời, dễ gây áp lực tăng nợ công như là hệ lụy “hậu mua lại với giá 0 đồng” trong thời gian tới nếu không đòi được nợ cũ và cải thiện được hoạt động kinh doanh của các NHTM bị mua lại này. Nói cách khác, nguy cơ “biến nợ tư thành nợ công” sẽ ngày càng đậm dần, tạo áp lực phá vỡ trần nợ công đã được Quốc hội thông qua, gây đe dọa ổn định tài chính vĩ mô tương lai của đất nước. Để các hoạt động M&A mang tính chủ động và tích cực, giảm thiểu nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh, thâu tóm thị trường và những hệ lụy mặt trái có thể, cần chú ý triển khai những giải pháp đồng bộ, nổi bật là: Thứ nhất, khuyến khích phát triển các dịch vụ thông tin, môi giới và tư vấn hỗ trợ pháp lý chuyên nghiệp cho hoạt động M&A và giải quyết hậu M&A. Thứ hai, bản thân các ngân hàng trong nước cần tăng hiểu biết cơ bản về M&A; chủ động sử dụng dịch vụ của các công ty tư vấn, môi giới trong xác định tín nhiệm và định giá; thẩm định giá trị và hồ sơ pháp lý, thông tin về thị trường và đối tác, tránh tình trạng bị ép giá, bị lừa đảo và bị “hớ “do thiếu kỹ năng, hiểu biết và thông tin... Thứ ba, quán triệt nguyên tắc dứt điểm, kiên quyết, đồng bộ và có tầm nhìn xa, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát các hoạt động M&A nói riêng, năng lực giám sát và cảnh báo rủi ro hệ thống sớm; xử lý dứt điểm vấn đề sở hữu chéo, khắc phục sự thiếu công khai, minh bạch trong sở hữu các 31 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH NHTM theo tinh thần Thông tư số 36 do NHNN ban hành; kiểm soát việc tuân thủ thật sự các quy định của pháp luật về tỷ lệ sở hữu của cá nhân và tổ chức trong các NHTM, gắn với tiến trình thoái vốn ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và yêu cầu về quy mô vốn đối với mỗi NHTM; gắn kết yêu cầu cơ cấu lại TCTD với yêu cầu về xử lý nợ xấu, kiểm soát chặt chẽ phân loại nợ và trích lập rủi ro của các NHTM; kết hợp cơ cấu lại TCTD theo nguyên tắc tự nguyện với bắt buộc, sáp nhập, hợp nhất TCTD yếu kém với nhau và mở rộng mô hình TCTD mạnh hợp nhất với TCTD yếu hơn, tăng cường vai trò can thiệp của NHNN Việt Nam để bảo đảm tiến trình tái cơ cấu kịp thời và hiệu quả, bảo đảm ổn định hệ thống và giữ vững an ninh tài chính- tiền tệ quốc gia trong hoạt động M&A. Thứ tư, các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp lý liên quan điều chỉnh hoạt động M&A, như Luật Cạnh tranh; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Chứng khoán và Luật Các TCTD, cũng như các văn bản dưới luật, điều chỉnh hoạt động M&A, hướng dẫn thủ tục triển khai mua lại, sáp nhập, hợp nhất TCTD gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 06/3/2014 của Chính phủ và Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg ngày 15/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ; chú ý bổ sung, cụ thể hóa quy định của pháp luật về trách nhiệm của các bên khi tham gia M&A đối với quyền lợi của người lao động và cổ đông; kiểm soát độc quyền. Đặc biệt, NHNN cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các NHTM mạnh tích cực tham gia M&A, thu nhận các NHTM yếu kém vì lợi ích chung. Từ thực tế cho thấy, để có nguồn lực mới thúc đẩy việc tái cơ cấu các TCTD, cần “nới room” và cơ chế thuận lợi hơn, khuyến khích các TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua lại, sáp nhập, hợp nhất với các TCTD trong nước yếu kém phải cơ cấu lại; đồng thời, phát triển thị trường thứ cấp, cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua bán các khoản nợ xấu nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD. Với tinh thần quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cần coi việc nới biên độ ảnh hưởng, với tổng mức sở hữu cổ phần không giới hạn của giới đầu tư nước ngoài -“room”- cho phép mở rộng và tạo áp lực buộc các TCTD trong nước liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác có tiềm lực nước ngoài. Thị trường mua, bán nợ, cũng như hoạt động mua, bán doanh nghiệp - ngân hàng cũng sẽ được kích hoạt mạnh hơn. Quản lý nhà nước sẽ đậm nét và linh hoạt hơn trong quyết định tái cấu trúc và buộc các TCTD yếu kém phải nỗ lực lành mạnh hóa theo hướng cổ phần hóa vốn và quốc tế hóa tiêu chuẩn, chất lượng hoạt động. Những khiếm khuyết sẽ bộc lộ để sửa chữa; sự trì trệ sẽ mất dần đất sống, tạo cơ cấu TCTD lành mạnh, tạo sức sống mới cho nền kinh tế và người hưởng lợi trước hết sẽ là bản thân hệ thống NHTM và người dân. Kỳ vọng “mở room” kích thích quá trình đẩy nhanh tái cấu trúc theo cơ chế kinh tế thị trường sẽ còn chờ thực tiễn tiếp nhận và phản hồi, cả thuận chiều và có thể trái chiều. Song, cần khẳng định, để tồn tại, phát triển trong áp lực cạnh tranh, không có cách gì hơn là phải tự đổi mới vì lợi ích ổn định vĩ mô và của người dân; khuyến khích mua bán nợ và công cụ nợ phái sinh trên thị trường thứ cấp; mở rộng khả năng cho các hoạt động mua-bán nợ xấu theo đúng giá trị và cơ chế thị trường. Nhìn chung, quá trình cơ cấu lại hệ 32 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH thống các TCTD tiếp tục được thực hiện theo đúng Đề án đã được phê duyệt, trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, an toàn hệ thống TCTD và khả năng chi trả của các TCTD được đảm bảo. Các NHTM đang đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và là đối tượng chính của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Chương trình cơ cấu lại hệ thống tín dụng-ngân hàng dường như thu được nhiều kết quả ấn tượng hơn cả trong ba trọng tâm tái cơ cấu thời gian qua, với những điểm nhấn đặc biệt là: Hệ thống NHTM đã ngày càng cải thiện được tính thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ hệ thống; giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM nói chung và hệ thống tín dụng nói riêng, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường. Số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc. Thị trường tiền tệ đã ổn định trở lại, thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt hơn. Hoạt động tại thị trường liên ngân hàng đã bình thường trở lại với lãi suất liên ngân hang, lãi suất huy động và cho vay đều giảm mạnh. Các TCTD đã mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ để đầu tư và dự phòng thanh khoản. Đặc biệt, niềm tin của người dân và thị trường vào VND và cam kết của NHNN được củng cố và bảo đảm, không hề có hiệu tượng rút tiền ồ ạt tại các NHTM hợp nhất, sáp nhập, bị mua lại. Bên cạnh đó, xu hướng các NHTM nội địa giảm số lượng, gia tăng về chất lượng đã được thể hiện rõ nét, nhưng không vì thế mà quy mô thị trường và thị phần bị thu hẹp lại. Nợ xấu từng bước được giải quyết hiệu quả. Các ngân hàng cũng đã từng bước tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ, quản trị, minh bạch thông tin, đồng thời, từng bước củng cố, đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình và toàn hệ thống. Ngoài ra, một thành công khác không thể không nhắc đến đó là sự cải thiện đáng kể của hệ thống pháp lý, tạo “đường ray” thúc đẩy quá trình tái cơ cấu đi nhanh và đúng hướng, đồng thời, mở rộng “cửa” hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài các văn bản liên quan tới hoạt đôṇg của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam - VAMC, để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các TCTD và bảo đảm cho các TCTD hoạt động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và NHNN đã ban hành các văn bản như Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định số 01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam; Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 1/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt; các Thông tư của NHNN bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013); kiểm soát, kiểm toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm yết cổ phiếu của các TCTD trên thị trường chứng khoán; ngân hàng hợp tác xã; mua, bán nợ xấu; kiểm soát đặc biệt TCTD, v.v.. Bên cạnh đó, NHNN đã và đang khẩn trương hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý về thanh tra, giám sát; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; ủy thác, nhận ủy thác, quy định về quản lý rủi ro của các TCTD Thực tế đã ghi nhận nhiều thành công lớn, đồng thời có nhiều cơ sở để tin tưởng và kỳ vọng vào triển vọng tích cực trong tái 33 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH cơ cấu hệ thống NHTM và TCTD, nhất là khi giải quyết tốt hơn vấn đề về nợ xấu và sở hữu chéo, nâng cấp chất lượng thể chế và trình độ, năng lực quản lý, quản trị rủi ro và giám sát an toàn hệ thống 2. Khi mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thấp và cố định Để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính quốc gia, Chính phủ, ngân hàng trung ương và các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) thường thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, như: tiếp nhận xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề, nâng hạn mức chi trả BHTG, tuyên truyền về chính sách BHTG, hoặc công bố chính thức về tình hình tài chính ôn̉ định của quôć gia, v.v.. BHTG là công cụ phổ biến bắt buộc trong hoạt động ngân hàng trên thế giới, không chỉ nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, mà còn tăng trách nhiệm và duy trì sự ổn định của hệ thống các NHTM và TCTD, cũng như bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính của mỗi nước. Theo thông lệ thế giới, mức chi trả tối đa BHTG thường gấp 3-5 lần GDP/người ở nước đó. Kể từ năm 2008, để “giữ chân” và bảo vệ quyền lợi người gửi tiền gắn với cuộc khủng hoảng tài chính-ngân hàng năm 2008, hạn mức chi trả BHTG tại Mỹ được nâng từ 100.000 USD lên 250.000 USD và tại 27 nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) nâng từ khoảng 35.000 EUR lên 50.000 EUR (riêng Đức tuyên bố bảo đảm toàn bộ tiền gửi của người dân tại các ngân hàng, tổng cộng khoảng 500 tỷ EUR). Anh cũng nâng từ mức 35.000 GBP lên 50.000 GBP; Hy Lạp nâng từ mức 20.000 EUR lên 100.000 EUR trong vòng 3 năm. Đài Loan tăng gấp 2 lần, lên 3 triệu đô la Đài Loan. Từ tháng 10/2012, Nga nâng mức chi trả BHTG từ 700.000 rúp lên 1.000.000 rúp (tương đương từ 22.500 USD lên khoảng 32.000 USD) và tính phí mua BHTG ở mức 0,04 - 0,2% tùy thuộc vào mức chênh lệnh giữa lãi suất huy động của các ngân hàng với mức lãi suất trung bình trên thị trường. BHTG ở Việt Nam được thực hiện theo Luật BHTG (số 06/2012/QH13). Theo đó, các NHTM và TCTD trong nước, chi nhánh NHTM nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Các TCTD bắt buộc phải tham gia BHTG và khi bị lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả hoặc phá sản, tổ chức BHTG nhà nước bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho cá nhân có tiền gửi theo hình thức và hạn mức quy định phù hợp từng thời kỳ, do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của NHNN. Hiện nay, mức chi trả BHTG tối đa là 50 triệu đồng/người cho tổng số các khoản tiền gửi của một người tại một tổ chức tham gia BHTG. Hạn mức này được áp dụng từ năm 2002, trên cơ sở kết quả khảo sát mức tiền gửi trên toàn hệ thống ngân hàng và cao gấp 5 lần thu nhập bình quân trên đầu người năm 2002. Mức chi trả BHTG cao đồng nghĩa với tăng mức phí mua BHTG, làm tăng chi phí vốn và giảm lợi nhuận, đồng thời tạo áp lực tăng lãi suất cho vay của các TCTD và NHTM. Tuy nhiên, nếu mức chi trả BHTG quá thấp sẽ không khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm, hoặc buộc họ phải xé nhỏ các khoản tiền gửi vào ngân hàng theo kiểu mỗi nơi một tý, “không để tất cả trứng vào một giỏ”. Quá trình sáp nhập bắt buộc 06 NHTM và mua lại với giá 0 đồng đối với 03 NHTM bị mất khả năng chi trả tiền gửi như cách làm từ năm 2012-7/2015 cho thấy, sau 13 năm, mức BHTG hiện hành đã lạc hậu và giảm giá trị thực tế gần 5 lần. Việc tăng mức 34 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH bảo hiểm lên 200 - 250 triệu đồng, gấp khoảng 5 lần mức GDP mới (hiện đã đạt trên 2.000 USD/đầu người) là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của Tổ chức BHTG, nguyện vọng của cộng đồng người gửi tiền, phù hợp bối cảnh kinh tế đã phát triển và yêu cầu đẩy mạnh tái cơ cấu các NHTM và TCTD theo nguyên tắc thị trường và tiền lệ thực tế ở nước ta, cũng như thông lệ quốc tế. Nhu cầu nâng mức BHTG càng cấp thiết hơn trong bối cảnh ngày càng mở rộng sự tham gia huy động bằng tiền Đồng của các NHTM và TCTD nước ngoài ở Việt Nam... Hài hòa các mục tiêu và lợi ích người dân, doanh nghiệp và xã hội phải là nguyên tắc và thước đo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước vĩ mô, kể cả trong BHTG. 3. Khi nợ xấu về dưới 3% Theo NHNN1 cuối tháng 6/2015, tổng dư nợ tín dụng với nền kinh tế là 4.282.604 tỷ đồng, tăng 7,86% so với cuối năm 2014; tổng nợ xấu các TCTD là hơn 159.313 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,72%, tức giảm so với mức 4,17% cùng kỳ năm trước và cũng thấp hơn tỷ lệ 3,81% tại cuối tháng 3/2015, càng thấp so với mức 17,21% tại tháng 9/2012. Từ năm 2011 đến 15/6/2015, cả nước đã giảm được 70% tổng số nợ xấu được xác định tại thời điểm tháng 9/2012. Đặc biệt, từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu giữa các TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN đã trùng khớp nhau hơn, nhờ áp dụng các quy định an toàn về cấp tín dụng, chuẩn mực mới chặt chẽ hơn về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và mua, bán, xử lý nợ. Tính thanh khoản và ổn định của các TCTD được cải thiện rõ rệt, trên 90 % TCTD kỳ vọng dư nợ tín dụng tăng và rủi ro tín dụng không đổi hoặc giảm trong thời gian tới. Nhờ vậy, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng vào cuối tháng 9/2015 đã thấp hơn so với mục tiêu 3% vào cuối năm 2015 mà Chính phủ và NHNN đặt ra. Thực tế, nợ xấu của hệ thống NHTM đã giảm từ trên 17% năm 2011 xuống còn dưới 2,9% năm 2015 là một thành công lớn của NHNN. Kết quả trên là hội tụ của nhiều nỗ lực, trong đó có việc tăng cơ hội đầu tư và giảm nhẹ chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, giảm mặt bằng lãi suất cho vay xuống mức chỉ bằng khoảng 40% nửa cuối năm 2011 và kiểm soát sở hữu chéo và sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ cho phép; đẩy mạnh tái cơ cấu và áp dụng những chuẩn mực mới về nợ; kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay bằng ngoại tệ, hạn chế đô-la hóa; đáp ứng đủ vốn tín dụng theo cơ cấu, lãi suất, kỳ hạn, và điều kiện cho vay hợp lý hơn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và xử lý nợ xấu. Theo báo cáo của 15 NHTM trong nước về con số nợ xấu tại báo cáo tài chính quý III/20152 (, tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng này giảm từ 2,24% cuối năm 2014 xuống còn 1,89% trong năm 2015. Tuy nhiên, số nợ tuyệt đối lại tăng thêm 7,15%, lên 42.519 tỷ đồng; nợ có khả năng mất vốn đã tăng tới gần 25.000 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trong 9 tháng đầu năm 2015 của 03 ngân hàng Vietcombank, Vietinbank và BIDV lên tới con số 23.825 tỷ đồng, bằng vốn của 08 ngân hàng khác cộng lại. Theo thống kê mới nhất3 , từ cuối 2013 đến nay, VAMC mới chỉ xử lý được 7,2% nợ xấu, tương đương 1 2 3 35 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH khoảng 16.270 tỷ đồng. Như vậy, thực chất nợ xấu ngành ngân hàng chỉ giảm về tỷ lệ do các ngân hàng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, nhất là sau khi NHNN cho phép nới rộng tín dụng của 18 ngân hàng và chi nhánh trong năm 2015; hơn nữa, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) vẫn tăng mạnh. Nói cách khác, bài toán giải quyết nợ xấu vẫn cần có lời giải vững chắc hơn, ngoài “giải pháp kỹ thuật”. Năng lực quản trị và dịch vụ ngân hàng cần tiếp tục có sự cải thiện, tăng sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng; khuyến khích mua bán nợ và công cụ nợ phái sinh trên thị trường thứ cấp theo đúng giá trị và cơ chế thị trường; tăng trần hạn mức tín dụng và cho phép khoanh nợ, giãn nợ và mở rộng cho vay, giúp các con nợ tiếp tục kinh doanh, tăng thu nhập trả nợ... Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, nợ xấu NHTM ngày càng có liên hệ đa chiều với nợ công. Theo Bộ Tài chính4, nợ công tăng nhanh 20% trong thời gian gần đây: Nợ công năm 2011 là 50%, năm 2012 là 50,8%, năm 2013 là 54,5%, năm 2014 là 59,6% và dự kiến năm 2015 nợ công ở mức là 61,3% GDP. Đỉnh nợ rơi vào năm 2017 là 64,3% GDP. Kế hoạch giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn 2030, nợ công không quá 65% GPD, nợ Chính phủ không quá 55% và nợ nước ngoài không quá 50%; nợ công đến năm 2020 chỉ còn 58,5% GDP. Theo Người phát ngôn Chính phủ ngày 27/11/20155 nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh hiện chiếm 11,4% GDP và khoảng 19% tổng nợ công, tức hơn 21 tỷ USD. Tổng nợ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện bằng 1,41 lần vốn chủ sở hữu, trong giới hạn quy định là không quá 3 lần. Nhằm kiểm soát nợ công, cần bảo đảm chỉ sử dụng nợ công cho đầu tư phát triển. Việc điều hành vay và trả nợ thực hiện theo đúng Nghị quyết của Quốc hội và kế hoạch vay, trả nợ hàng năm được phê duyệt. Tăng cường quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước ở bộ, ngành, địa phương; chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá và lãng phí trong chi ngân sách nhà nước. Thực tế trong nước và thế giới cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, nợ là căn bệnh mãn tính, đồng hành cùng mọi quốc gia và doanh nghiệp; ngày càng có sự tác động tương hỗ giữa nợ xấu và nợ “đẹp”, giữa nợ công và nợ tư. Nợ xấu có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, là thước đo năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, môi trường và hoạt động kinh doanh. Nợ xấu có thể gây ra những hệ lụy bất ổn to lớn, vượt kiểm soát cả vĩ mô và vi mô, cả về kinh tế, xã hội và chính trị; đặc biệt không có ngoại lệ đổ vỡ cho bất cứ quốc gia, doanh nghiệp nào, dù trước đó từng giàu có và mạnh mẽ đến đâu Vì vậy, kiểm soát nợ xấu cần các giải pháp đồng bộ, chủ động và linh hoạt, sự phối hợp chặt chẽ giữa các giải pháp thị trường và quản lý nhà nước đặc thù, phù hợp với cam kết hội nhập, các quy chuẩn, tiêu chí và thông lệ quốc tế; chú ý tới tác động hai mặt, cũng như những lạm dụng có thể khi triển khai trên thực tế; coi trọng sự giám sát và phản biện xã hội để thông tin và kiểm soát chặt chẽ hơn, cảnh báo sớm và chính xác hơn, xử lý nghiêm khắc hơn, đề cao trách nhiệm của cả doanh nghiệp và các TCTD, bảo đảm hài hòa các lợi ích và sự phát triển lành mạnh nền kinh tế nói chung và thị trường nợ nói riêng n 36 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016 CHÑNH SAÁCH 4 602-GDP/220261.vgp 5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhai_hoa_loi_ich_ich_trong_chinh_sach_ngan_hang.pdf
Tài liệu liên quan