Hệ thống điện phân phối tại thành phố Đà Nẵng trong
 hàng chục năm qua đã phát triển nhanh để đáp ứng tốc độ
tăng phụ tải ở mức rất lớn (từ 12 - 15% mỗi năm) và đồng
thời là yêu cầu về độ tin cậy cấp điện ngày càng cao cho các
phụ tải quan trọng. Hệ thống phân phối điện Đà Nẵng đang
gặp phải vấn đề mang tính cấp bách là hiện tượng quá dòng
rất lớn tại nhiều điểm trên lưới điện khi ngắn mạch, hiện
tượng này đang tiềm ẩn nguy cơ cao, có thể xảy ra sự cố mất
điện diện rộng, gây thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội. Trước
mắt, phương án vận hành theo giải pháp cắt mạch vòng như
các tác giả nghiên cứu có thể tạm thời khắc phục được quá
dòng trên lưới tại một số điểm đang nguy cơ, tuy nhiên
phương án này sẽ làm giảm đáng kể độ tin cậy cung cấp điện
và khả năng linh hoạt vận hành. Phương án ứng dụng thiết
bị HCD kiểu FCLT với các kết quả tính toán và mô phỏng
nhận được chứng minh rằng có thể bảo đảm mức hạn chế
dòng điện ngắn mạch cần thiết tại vị trí lắp đặt bất kỳ trong
hệ thống điện. Khi sử dụng phương án lắp FCLT thì không
cần thay đổi cấu trúc lưới điện và giữ nguyên các thiết bị, kể
cả các thiết bị đóng cắt hiện có. Với những ưu điểm vượt trội
của FCL kiểu máy biến áp, việc nghiên cứu để triển khai lắp
đặt tại những vị trí cần hạn chế trị số dòng quá độ trong các
hệ thống phân phối điện tại PCĐN mang tính khả thi cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 655 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạn chế dòng ngắn mạch quá độ trong hệ thống phân phối thuộc điện lực Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 Lê Thành Bắc, Nguyễn Văn Tấn, Trần Ngọc Thiên Nam 
HẠN CHẾ DÒNG NGẮN MẠCH QUÁ ĐỘ TRONG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI 
THUỘC ĐIỆN LỰC ĐÀ NẴNG 
LIMITING THE SHORTCUT TRANSIENT OVERCURRENT IN THE ELECTRIC 
DISTRIBUTION SYSTEM OF DA NANG POWER 
Lê Thành Bắc1, Nguyễn Văn Tấn2, Trần Ngọc Thiên Nam2 
1Đại học Đà Nẵng; lethanhbac2012@yahoo.com 
2Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng 
Tóm tắt - Bài báo trình bày các kết quả khảo sát cấu trúc, đánh giá 
về thực trạng vận hành và vấn đề quá dòng quá độ đang xảy ra 
trên hệ thống phân phối điện của Điện lực Đà Nẵng. Các tác giả 
cũng đề xuất một số phương án với giải pháp kỹ thuật cụ thể để 
hạn chế dòng ngắn mạch quá độ trên lưới điện trong phạm vi cho 
phép của các thiết bị đóng cắt hiện nay. Các kết quả mô phỏng 
bằng các phần mềm chuyên dụng đã chứng minh tính hiệu quả 
của các phương án đề xuất. Giải pháp lắp đặt thiết bị tự động hạn 
chế dòng ngắn mạch kiểu máy biến áp (FCLT) cho phép hạn chế 
dòng xung kích quá độ với mức hạn chế bất kỳ, đồng thời vẫn giữ 
nguyên cấu trúc lưới cùng các thiết bị đóng cắt hiện nay, đây thực 
sự là phương án mang tính khả thi cao. 
Abstract - The paper present results of studying system structure, 
estimating the current state of system operation and the transient 
over-current problem occurring in the electricity distribution system 
of Da Nang Power Company. The authors also propose some 
methods with specific technical measures to limit short-circuit 
currents on the grid within allowable ranges of current switching 
devices. Simulated results from specialized softwares demonstrate 
the effectiveness of the proposed methods. The method of 
installing automatic Fault Current Limiting device of Transformer 
type (FCLT) allows limiting the flow of transient inrush current with 
any restriction, while maintaining the same grid structure and 
switching equipment. This is a highly feasible option. 
Từ khóa - dòng quá độ; hệ thống điện Đà Nẵng; ngắn mạch; thiết 
bị tự động hạn chế dòng ngắn mạch kiểu biến áp (FCLT); mô 
phỏng. 
Key words - transient current; Da Nang power system; short 
circuit; automatic Fault Current Limiting device of Transformer type 
(FCLT); simulation. 
1. Cấu trúc lưới điện phân phối Đà Nẵng 
1.1. Giới thiệu chung 
Hiện nay, hệ thống điện của Công ty Điện lực Đà Nẵng 
(PCĐN) đang được cấp điện từ trạm biến áp (TBA) 500 kV 
Đà Nẵng qua các TBA (Hình 1): Trạm 110 kV Liên Trì 
(E11) và Xuân Hà (E10) cấp điện cho khu vực quận Hải 
Châu và quận Thanh Khê; Trạm 110 kV Cầu Đỏ (E12), 
Hòa Xuân cấp điện cho khu vực quận Cẩm Lệ, huyện Hoà 
Vang; Trạm 220kV Ngũ Hành Sơn và An Đồn (E14), 110 
kV Ngũ Hành Sơn cấp điện cho khu vực quận Sơn Trà và 
quận Ngũ Hành Sơn; Trạm 220 kV Hoà Khánh (E9), Liên 
Chiểu (Elc) và Hòa Khánh 2 cấp điện cho khu vực quận 
Liên Chiểu, huyện Hoà Vang; Trạm 110 kV Hòa Liên cấp 
điện khu vực Trường Định, Hòa Bắc, Hòa Liên, Khu Công 
nghệ cao. 
PCĐN hiện có tổng công suất đặt là 957 MVA, phụ tải 
cực đại năm 2017 là 503,8 MW, sản lượng ngày lớn nhất 
đạt 10,3 triệu kWh. 
Hình 1. Sơ đồ lưới điện phân phối 110 (220)/22kV thành phố Đà Nẵng 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(128).2018 7 
1.2. Ưu điểm của lưới điện Đà Nẵng 
Các trạm biến áp 110(220) kV trên Hình 1 hiện đang 
phân bố đồng đều trên các khu vực trong thành phố, các 
trạm đang có nhiều kết nối lưới mạch vòng phía 22 kV cho 
phép linh hoạt chuyển tải qua lại khi có công tác yêu cầu 
hoặc khi sự cố. Các TBA đang được cấp điện từ nhiều 
nguồn khác nhau nên cũng đã góp phần tăng độ tin cậy 
cung cấp điện cho toàn hệ thống. 
1.3. Những hạn chế đang tồn tại 
1.3.1. Nhược điểm trong vận hành 
Hiện nay, khi công tác đường dây 110/220 kV Hòa 
Khánh thì TBA Hòa Khánh 2 bắt buộc phải giảm tải dưới 
30 MW để đảm bảo chất lượng điện năng (điều này làm 
PCĐN không chủ động được lịch công tác và thông báo 
trước đến khách hàng). 
TBA 110 kV An Đồn hiện được cấp điện từ mạch đơn 
của TBA 220 kV Ngũ Hành Sơn, điều này khó khăn khi 
truyền tải điện công tác trên TU 174/E13 hoặc MC 
174/E13, hoặc nếu xảy ra sự cố trên đường dây 110 kV từ 
Ngũ Hành Sơn về TBA An Đồn thì toàn bộ phụ tải thuộc 
quận Sơn Trà sẽ bị ảnh hưởng mất điện. 
TBA 110 kV Hòa Khánh 2 chủ yếu cung cấp cho các 
phụ tải nhà máy thép nên không thể dùng TBA này để 
chuyển tải cho phụ tải thuộc các TBA 220 kV Hòa Khánh 
hoặc Liên Chiểu khi có nhu cầu. Nếu muốn chuyển tải bắt 
buộc phải sa thải các phụ tải nhà máy thép điều này sẽ 
gây thiệt hại lớn về kinh tế. 
Về kết lưới 22 kV, các xuất tuyến trung áp phần lớn có 
mức độ mang tải cao nên khả năng chuyển tải thực tế chưa 
linh hoạt. 
1.3.2. Quá dòng quá độ khi sự cố ngắn mạch 
Bảng 1. Giá trị dòng ngắn mạch xung kích tại xuất tuyến khi 
được vận hành có khép vòng và không có khép vòng 
Trạm biến 
áp trung 
gian 
Máy cắt đang dùng 
Giá trị dòng ngắn mạch 
xung kích các xuất 
tuyến có mạch khép 
vòng lớn nhất (kA) 
Mã hiệu 
Dòng cắt 
Iđm (kA) 
Khi khép 
vòng 
Không 
khép vòng 
An Đồn GMH/V20 25 29,3 21,5 
Hòa Khánh HVX24 31,5 58,0 31,3 
Liên Chiểu 3AH5283 25 33,1 19,0 
Liên Trì 
GVB-
M/2000 
25 42,1 27,5 
220 kV-Ngũ 
Hành Sơn 
HVX24 31,5 45,1 31,5 
Xuân Hà EVOLIS 25 32 23,7 
Ngoài các nhược điểm nêu trên, việc tăng trị số dòng 
xung kích nếu có ngắn mạch tại một số điểm (Bảng 1) như 
ở các trạm Liên Trì, Ngũ Hành Sơn, Xuân Hà khi có nối 
vòng sẽ vượt xa dòng cắt cho phép của các máy cắt, cũng 
như giới hạn độ bền điện động cho phép của các thiết bị đóng 
cắt khác đang dùng trong hệ thống. Điều này thực sự là một 
nguy cơ tạo rủi ro rất lớn, có thể xảy ra sự cố mất điện trên 
diện rộng, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an ninh. Hạn chế trị 
số dòng xung kích khi ngắn mạch qua các thiết bị đóng cắt 
trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao độ tin cậy của hệ 
thống điện phân phối, đây là yêu cầu cấp thiết đang đặt ra 
đối với PCĐN. Thực tế đang đòi hỏi phải sớm tìm ra giải 
pháp kỹ thuật hợp lý khắc phục tình trạng tăng quá lớn của 
dòng ngắn mạch xung kích xảy ra trên lưới phân phối hiện 
nay. 
2. Các giải pháp chung về hạn chế dòng ngắn mạch 
xung kích 
Để giảm trị số xung kích của dòng điện quá độ trong 
trường hợp sự cố, thế giới hiện nay đang có 8 giải pháp kỹ 
thuật và vận hành [1, 4, 7], tuy nhiên, mỗi giải pháp đều 
tồn tại những hạn chế nhất định. Cụ thể: Dùng các cuộn 
kháng không lõi sắt nối tiếp trên lưới, giải pháp kinh điển 
này lại gây sụt áp lưới ngay khi làm việc bình thường; Nâng 
cấp các thiết bị đóng cắt hiện tại hoặc nâng cấp điện áp 
lưới, giải pháp này chi phí sẽ rất cao; Sử dụng thiết bị tự 
động hạn chế dòng điện ngắn mạch với vật liệu siêu dẫn, 
giải pháp này luôn cần có thiết bị làm lạnh kèm theo, sẽ 
tăng tổn hao và chi phí đắt; Sử dụng thiết bị hạn chế dòng 
điện ngắn mạch có dạng van bán dẫn kết hợp với điện 
kháng hoặc sử dụng các thiết bị chuyển mạch công suất 
kiểu mới tác động cực nhanh, cả hai giải pháp này đều có 
nhược điểm là yêu cầu cần phải thay thế nhiều thiết bị, sơ 
đồ điều khiển phức tạp, giá thành cao, độ tin cậy thấp, rất 
tốn kém. Hai trong những giải pháp kỹ thuật - vận hành còn 
lại, khả năng có tính khả thi cao đối với hệ thống điện phân 
phối Đà Nẵng cũng như của Việt Nam nói chung là: thay 
đổi cấu trúc lưới (tách lưới, tách thanh cái, áp dụng các biện 
pháp cắt liên động loại dần nguồn cung cấp cho dòng sự 
cố) và giải pháp tính toán lắp đặt thiết bị hạn chế dòng ngắn 
mạch với chi phí hợp lý để giảm dòng điện sự cố đến giới 
hạn cho phép của các thiết bị đóng cắt [2, 6, 7]. Trong bài 
báo này, các tác giả trình bày nhóm hai giải pháp kỹ thuật 
nêu trên, bằng kết quả mô phỏng qua các phần mềm chuyên 
dụng minh chứng hiệu quả cách giải quyết vấn đề dòng quá 
độ ngắn mạch khi sự cố trong hệ thống phân phối điện 
PCĐN. Thiết bị hạn chế dòng nghiên cứu ở đây là loại tự 
động hạn chế dòng ngắn mạch kiểu FCLT. 
3. Đề xuất giải pháp hạn chế dòng quá độ trong hệ 
thống điện Đà Nẵng 
3.1. Giải pháp cắt lưới vòng, tách thanh cái trong vận hành 
Trị số dòng ngắn mạch xung kích khi có nối vòng 
(Hình 1) xét khi sự cố ngắn mạch ngay đầu cực của máy 
cắt 22 kV, cấu trúc lưới hiện tại sẽ có 6 TBA trong hệ thống 
của PCĐN có dòng vượt trị số dòng cho phép của máy cắt 
(Bảng 1). Trong đó, đặc biệt tại 02 trạm biến áp Hòa Khánh 
và Liên Trì, trị số dòng xung kích rất lớn (TBA Hòa Khánh 
tăng tới 58 kA; TBA Liên Trì 42,1 kA). Nếu dùng giải pháp 
thực hiện cắt các nối vòng khi vận hành, kiểm tra với ngắn 
mạch đầu cực các máy cắt 22 kV (cho trong Bảng 1) thì 
các trị số dòng xung kích đều đã giảm xuống dưới trị số 
dòng cắt định mức của máy cắt. Đặc tính quá độ dòng điện 
ngắn mạch tại TBA Hòa Khánh và TBA Liên Trì nhận 
được trên Bảng 1, Hình 2 và Hình 3 khi thực hiện 2 phương 
án cắt mạch vòng. 
8 Lê Thành Bắc, Nguyễn Văn Tấn, Trần Ngọc Thiên Nam 
Hình 2. Dòng ngắn mạch tại thanh góp 22 kV của 
TBA Hòa Khánh tương ứng với các phương án có nối vòng và 
cắt nối vòng 
Hình 3. Dòng ngắn mạch tại thanh góp 22 kV của TBA Liên Trì 
tương ứng với các phương án có nối vòng và cắt nối vòng 
Kết quả tính toán và mô phỏng cho thấy giải pháp cắt 
mạch nối vòng để vận hành hở rõ ràng là giảm ngay được trị 
số xung kích của dòng ngắn mạch, đưa về trong giới hạn cho 
phép của máy cắt cũng như các thiết bị hiện có (Bảng 1). 
Tuy nhiên, giải pháp này sẽ làm giảm đáng kể độ tin cậy cấp 
điện và không thể đảm bảo công tác khi có biến thiên phụ tải 
lớn hoặc khi có sự cố cục bộ. Nếu PCĐN sử dụng phương 
án này thì rõ ràng đây chỉ là một giải pháp tình huống trước 
mắt, không thể là giải pháp lâu dài khi mức độ ưu tiên của 
các phụ tải dùng điện thực tế ngày càng tăng. 
3.2. Giải pháp lắp đặt thiết bị hạn chế dòng kiểu FCLT 
Thiết bị FCLT [1, 2, 5] sẽ nối vào mạch điện ngay sau 
máy cắt 22 kV, khi có sự cố ngắn mạch như trên Hình 4: 
Hình 4. Sơ đồ nối FCLT vào lưới điện 
Khi hệ thống làm việc bình thường thì điện áp rơi trên 
tụ C bằng khoảng 5% điện áp định mức lưới, lúc này biến 
áp (BA) trong FCLT ở chế độ không tải (XBA rất lớn), tổng 
trở tương đương của FCLT chính là Xc. Khi sự cố ngắn 
mạch xảy ra, dòng qua tụ C tăng cao, đồng thời điện áp 
tăng sẽ làm tiếp điểm chân không K phóng điện, máy BA 
chuyển sang chế độ ngắn mạch (XBA giảm nhanh) làm tổng 
trở ZFLC tăng. Trở kháng ZFLC của FCLT được xác định 
theo quan hệ: 
2 2
z = 
-
С BA
FLC FLC FLC FLC
C BA
X X
R X X
X X
+   (1) 
Dòng ngắn mạch chu kỳ cực đại [3, 4] khi chưa lắp đặt 
FCLT là: 
. 2
( ) HТ
HT HТ
U U Um m mIn m
z XR X
= = 
+
 (2) 
Với: Um là trị số biên độ điện áp pha của hệ thống; RHT và 
XHT là điện trở và điện kháng của hệ thống quy về điểm ngắn 
mạch (RHT << XHT = ω.LHT, thường thì RHT/LHT ≈ 5 [3, 7]). 
Từ (1), (2) ta có dòng ngắn mạch chu kỳ cực đại khi có 
bộ FCLT là: 
. . 2 2
( ) ( )
(3)
FLC
HТ FLC
HT FLC HТ FLC
U U
m mI
n m X XR R X X
=
++ + +
Trở kháng ZFLC của FCLT tăng nhanh sẽ làm giảm gần 
như tức thời trị số dòng ngắn mạch, chọn tương đương với 
hệ số xung kích của dòng ngắn mạch, tức là: 
0,01
1 <2 
Ta
XK
K e
−
= + 
Với: Ta=LHT/RHT = XHT/(ω.RHT) là hằng số thời gian suy 
giảm của thành phần dòng không tuần hoàn. Từ (2) và (3), 
mức hạn chế dòng ngắn mạch khi có bộ FLCT so với khi 
không có là: 
.
. .
1
HТ FLC FLCn m
n m FLC HТ HT
X X XI
I X X
+
=  = + (4) 
Từ các thông số của lưới điện, tình trạng quá dòng hiện 
tại sẽ cho phép tính toán lựa chọn bộ FCLT với các thông 
số tụ C, máy BA và điện áp phóng điện phù hợp lắp đặt sau 
máy cắt tại vị trí cần thiết để hạn chế dòng ngắn mạch 
xuống giới hạn (β) yêu cầu. 
Sơ đồ mô phỏng hệ thống khi có nối thêm FCLT tại 
TBA Hòa Khánh biểu diễn trên Hình 5. 
Hình 5. Sơ đồ mạch mô phỏng có đặt bộ FCLT tại xuất tuyến 22 kV Hòa Khánh trong Matlab/Simulink 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(128).2018 9 
Kết quả mô phỏng dòng quá độ tại xuất tuyến 22 kV 
khi sự cố ngắn mạch xảy ra tại đầu cực máy cắt 22 kV trạm 
Hòa Khánh khi không có và khi có lắp đặt bộ hạn chế dòng 
(HCD) kiểu FCLT, được đưa ra trên Hình 6 và Hình 7. 
Hình 6. Dòng ngắn mạch khi không và 
khi có HCD loại FCLT với giá trị β = 1,6 
Hình 7. Dòng ngắn mạch khi không và 
khi có HCD loại FCLT với giá trị β = 1,8 
Biên độ dòng xung kích giảm tức thời (Hình 6 khoảng 
1,6 lần và Hình 7 khoảng 1,8 lần) xuống giá trị giới hạn 
cho phép của các thiết bị đóng cắt (Bảng 1), sau một 
khoảng thời gian máy cắt sẽ cắt mạch để loại trừ sự cố. Nếu 
là sự cố thoảng qua thì khi giá trị dòng điện ngắn mạch quá 
độ giảm, dẫn đến làm giảm nhanh giá trị của điện áp trên 
bộ hạn chế dòng và cũng dẫn đến giảm nhanh dòng điện 
qua công tắc phóng điện K (phóng điện chân không), thì 
FCLT sẽ tự động phục hồi lại trở kháng ban đầu ngay khi 
dòng giảm về giá trị nhỏ hơn khoảng 2 lần dòng định mức. 
4. Kết luận 
Hệ thống điện phân phối tại thành phố Đà Nẵng trong 
hàng chục năm qua đã phát triển nhanh để đáp ứng tốc độ 
tăng phụ tải ở mức rất lớn (từ 12 - 15% mỗi năm) và đồng 
thời là yêu cầu về độ tin cậy cấp điện ngày càng cao cho các 
phụ tải quan trọng. Hệ thống phân phối điện Đà Nẵng đang 
gặp phải vấn đề mang tính cấp bách là hiện tượng quá dòng 
rất lớn tại nhiều điểm trên lưới điện khi ngắn mạch, hiện 
tượng này đang tiềm ẩn nguy cơ cao, có thể xảy ra sự cố mất 
điện diện rộng, gây thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội. Trước 
mắt, phương án vận hành theo giải pháp cắt mạch vòng như 
các tác giả nghiên cứu có thể tạm thời khắc phục được quá 
dòng trên lưới tại một số điểm đang nguy cơ, tuy nhiên 
phương án này sẽ làm giảm đáng kể độ tin cậy cung cấp điện 
và khả năng linh hoạt vận hành. Phương án ứng dụng thiết 
bị HCD kiểu FCLT với các kết quả tính toán và mô phỏng 
nhận được chứng minh rằng có thể bảo đảm mức hạn chế 
dòng điện ngắn mạch cần thiết tại vị trí lắp đặt bất kỳ trong 
hệ thống điện. Khi sử dụng phương án lắp FCLT thì không 
cần thay đổi cấu trúc lưới điện và giữ nguyên các thiết bị, kể 
cả các thiết bị đóng cắt hiện có. Với những ưu điểm vượt trội 
của FCL kiểu máy biến áp, việc nghiên cứu để triển khai lắp 
đặt tại những vị trí cần hạn chế trị số dòng quá độ trong các 
hệ thống phân phối điện tại PCĐN mang tính khả thi cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Lê Thành Bắc, “Thiết bị tự động hạn chế dòng ngắn mạch kiểu máy 
biến áp”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Đà Nẵng, Số 26, 
2008, trang 10-16. 
[2] Lê Thành Bắc, “Hiệu quả tác động của thiết bị tự động hạn chế dòng 
điện ngắn mạch”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Đà 
Nẵng, Số 37, 2010, trang 10-16. 
[3] Крючков И. П., Неклепаев Б. Н., Старшинов В. А., Пираторов 
М. В., Гусев Ю. П., Пойдо А. И., Жуков В.В ., Монаков В. К., 
Кузнецов Ю. П., Расчет коротких замыканий и выбор 
электрооборудования, Учеб. Пособие для студ. высш. учеб. 
заведений/М.: Изадательский центр «Академия», 2005 г. 
[4] Александров Г. Н., Смоловик С. В. Переходные процессы в 
сетях с резонансным токоограничивающим устройством. – 
Электричество PAH, 2002, № 1. 
[5] H. Yamaguchi and T. Kataoka. “Current Limiting Characteristics of 
Tranformer Type Superconducting Fault Current Limiter With 
Shunt Imepedance”, IEEE Transactions on Applied 
Superconductivity, Vol. 17, June 2007, pp. 1919-1923. 
[6] S-H. Lim et al., “Faul Current Limiting Characteristics of Resistive 
Type SPCL Using A Tranformer”, IEEE Transactions on Applied 
Superconductivity, Vol. 15, June 2005, pp. 2055-2058. 
[7] Xiaoqing Zang, Member IEEE and Ming Li, Using The Fault 
Current Limiter with Transformer-Type Reactor Reduce Short 
Circuit Currents, IEEE/PES Transmission & Distribution 
Conference & Exposition: Asia and Pacific, China 2005, pp. 1-5. 
(BBT nhận bài: 01/7/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 18/7/2018) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 han_che_dong_ngan_mach_qua_do_trong_he_thong_phan_phoi_thuoc.pdf han_che_dong_ngan_mach_qua_do_trong_he_thong_phan_phoi_thuoc.pdf