Trong nền kinh tế thị trường, NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp vì vậy khi kinh doanh phải coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cuối cùng. Để tạo ra lợi nhuận và thu nhập cho Ngân hàng thì các NHTM phải biết sử dụng và khai thác nguồn vốn một cách triệt để và hiệu quả nhất.
Tín dụng là hoạt động cơ bản đem lại phần lớn lợi nhuận cho các NHTM. Các NHTM dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay từ đó thu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch phí đầu vào và phí đầu ra. Thực hiện nghiệp vụ này các NHTM không những đã thực hiện được chức năng xã hội của mình thông qua việc mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống nhân dân mà còn có ý nghĩa rất lớn đến toàn bộ đời sống kỹ thuật thông qua các hoạt động tài trợ cho các ngành, các lĩnh vực phát triển công nghiệp, nông nghiệp trong nền kinh tế.
66 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 944 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh ngân hành công thương quận Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng, đảm bảo tốt việc khen thưởng nhằm giúp cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh an tâm làm việc
2.2. Thực trạng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh NHCT Đống Đa
2.2.1. Thực trạng tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHCTVN
Từ năm 2000, NHCT Việt Nam đã đánh giá các DNNVV là đối tượng khách hàng quan trọng, là thị trường tiềm năng mà NHCT Việt Nam cần hướng tới. Điều đó đã được cụ thể hoá bằng các chương trình hành động trong kế hoạch phát triển hàng năm, kế hoạch phát triển 5 năm, 10 năm về tài trợ cho DNNVV. Sau 6 năm thực hiện chiến lược tăng cường tài trợ DNNVV, đến nay NHCT Việt Nam được đánh giá cao như là một trong các NHTM hàng đầu Việt Nam về cho vay DNNVV, được Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước chỉ định là Ngân hàng duy nhất của Việt Nam tham gia ký kết Biên bản ghi nhớ giữa các tổ chức tài chính APEC tài trợ DNNVV; số lượng khách hàng DNNVV chiếm 50% số lượng khách hàng, dư nợ cho vay khoảng 60% tổng dư nợ. Hơn nữa, NHCT Việt Nam còn tích cực hàng đầu trong việc tìm kiếm và giữ mối quan hệ với các tổ chức liên quan đến DNNVV. NHCT đã và đang thực hiện 7 chương trình tín dụng với nguồn vốn có lãi suất thấp, thời hạn dài từ các Tổ chức quốc tế: hiện ICB đang triển khai 7 chương trình tín dụng sử dụng nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế để hỗ trợ vốn cho các DNNVV như Chương trình tín dụng Việt-Đức có tổng giá trị 37,5 triệu DM và đến nay đã cho vay được gần 7.000 dự án; Chương trình tín dụng SMEDF-EU có tổng tiền tài trợ 130 tỷ đồng và đã giải ngân được 63 tỷ đồng.
Với mục tiêu phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ cho DNNVV, NHCT đang phối hợp với Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Bộ Khoa học Công nghệ triển khai 2 sản phẩm tín dụng mới cho DNNVV. Đó là sản phẩm cho vay và bảo lãnh đối với các DNNVV (có vốn đăng ký kinh doanh không quá 30 tỷ đồng hoặc sử dụng bình quân không quá 500 lao động) để thực hiện các Dự án tiết kiệm và hiệu quả năng lượng(TK&HQNL).
Đối với sản phẩm cho vay, NHCT Việt Nam dành 14,1 triệu USD từ nguồn vốn thương mại để cho vay, nguồn vốn này cũng có thể tiếp tục được bổ sung khi dự án triển khai có hiệu quả. Thời hạn giải ngân Chương trình cho vay các dự án đến hết ngày 31/12/2010. Khách hàng khi tham gia chương trình sẽ được hưởng vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn so với cho vay thông thường của NHCT Việt Nam. Ngoài ra, khách hàng còn được tham gia đào tạo miễn phí về nâng cao năng lực quản lý và thực hiện tiết kiệm năng lượng và được tư vấn về các giải pháp TK&HQNL trong sản xuất và được cung cấp các thông tin có liên quan đến công nghệ, kinh nghiệm và giải pháp thực hiện TK&HQNL trong sản xuất, giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, để giúp các DNNVV tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn khi vay vốn không đủ tài sản bảo đảm, NHCT Việt Nam còn thực hiện bảo lãnh vốn vay cho các DNNVV để thực hiện dự án TK&HQNL. Nguồn vốn của Chương trình là 1.950.000 USD do Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua các đơn vị thực hiện là UNDP và Bộ KH&CN. NHCT Việt Nam có vai trò là người quản lý quỹ bảo lãnh, trực tiếp thẩm định quyết định cấp bảo lãnh cho khách hàng
2.2.2. Thực trạng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh NHCT Đống Đa
Ngân hàng Công thương đã đưa ra định hướng đến năm 2010 xây dựng NHCT trở thành ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam phục vụ DNNVV. Hiểu rõ điều này, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống đa đã có rất nhiều biện pháp để thu hút khách hàng là các DNNVV sử dụng dịch vụ của mình, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến tín dụng.
Khách hàng của Chi nhánh NHCT Đống Đa thuộc rất nhiều lĩnh vực , bảo gồm cả thương mại và sản xuất như công ty môi trường xanh sạch đẹp, công ty TNHH DVKT Tây Sơn, Công ty TNHH Đại Việt; một số khác thuộc lĩnh vực xây dựng, giao thông như Công ty công trình đường thủy, Công ty cổ phần xây dựng công trình I, Công ty TNHH vận tải biển Vinafco, Công ty cổ phần vận tải Vạn Xuân Trong số đó số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng trên 100 doanh nghiệp, chiếm khoảng 80% số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Chi nhánh nhưng tổng lượng vốn vay chỉ chiếm khoảng 50% dư nợ tín dụng tại Chi nhánh. Lĩnh vực kinh doanh của các DNNVV – khách hàng của Chi nhánh chủ yếu thuộc lĩnh vực thương mại và sản xuất với vốn vay cho mỗi doanh nghiệp dao động từ 100 triệu đến 25.000 triệu.
Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, công tác đầu tư và cho vay của chi nhánh đã được đặc biệt coi trọng với định hướng từng bước nâng cao chất lượng tín dụng. Chi nhánh đã tiếp tục dầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNNVV có tình hình tài chính lành mạnh, sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh cao, sức tiêu thụ lớn, qua đó tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, đóng góp vào phát triển nên kinh tế như: công ty cổ phần Vạn Xuân, công ty Dây và cáp điện Thượng Đình, công ty TNHH Kim Hoa
Trong các năm qua, doanh số cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đối với khu vực này liên tục tăng cao, tỷ trọng dư nợ tín dụng với DNNVV chiếm khoảng 50% của tổng dư nợ
Bảng 2.5: Sử dụng vốn phân theo quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ
2230
2044
1577
1198
-doanh nghiệp lớn
983
1023
750
504
Tỷ trọng
44,08%
50,05%
47,56%
42,07%
-doanh nghiệp nhỏ và vừa
1220
1021
827
694
Tỷ trọng
45,92%
49,95%
52,44%
57,93%
(Nguồn: Bảng thống kê một số chỉ tiêu chủ yếu của Chi nhánh NHCT Đống Đa)
Năm 2005 đánh dấu 1 bước chuyển quan trong trong hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa, chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng đã khiến cho dư nợ đầu tư vốn tín dụng của năm (2.044 tỷ đồng) gần như không tăng so với năm 2004 (2.230 tỷ), mặt khác cũng có một phần nguyên nhân do dư nợ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, khối giao thông có một số khó khăn trong việc nghiệm thu, quyết toán, nâng cấp chậm nên chi nhánh chủ trương thận trọng trong cho vay ở khối này mà tập trung thu hồi nợ.
Từ đầu năm 2006, chuẩn cho vay mới chính thức được thực hiện, rất nhiều doanh nghiệp trước đây đủ điều kiện được vay vốn từ Ngân hàng nhưng đến nay không còn đủ tiêu chuẩn nên không còn được vay thêm nữa, thay vào đó, Chi nhánh tập trung thu hồi nợ. Do vậy mà dư nợ tín dụng trong năm 2006 và 2007 suy giảm rõ rệt so với những năm trước đó, từ hơn 2000 tỷ giảm chỉ còn 1.577 tỷ vào năm 2006 và 1.198 vào năm 2007, chỉ trong 2 năm mà dư nợ tín dụng đã giảm gần 50%.
Trong tổng dư nợ tín dụng, số dư nợ cũng như tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn giảm dần qua các năm, vào năm 2004 là gần 900 tỷ (cho vay thêm được 250 và thu nợ được 270), chiếm 41% tổng dư nợ, đến năm 2005, con số này là 687 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 34%, và năm 2006 thì chỉ còn 494 tỷ đồng, con số này vẫn tiếp tục suy giảm, đến năm 2007 là 313 tỷ đồng.
Bảng 2.6: sử dụng vốn phân theo thời hạn của khoản tín dụng
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh số cho vay
2243
2280
1900
1780
- Ngắn hạn
1993
2080
1780
1680
- Trung-Dài hạn
250
200
120
100
Doanh số thu nợ
2134
2230
2000
2180
- Ngắn hạn
1858
1830
2190
1700
- Trung-Dài hạn
270
400
310
480
Tổng Dư nợ tín dụng
2230
2044
1577
1198
(nguồn: bảng một số chỉ tiêu chủ yếu của Chi nhánh NHCT Đống Đa)
Tuy được sự chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam về việc đặc biệt coi trọng công tác đầu tư, cho vay với định hướng từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, nhưng những con số này đã phần nào phản ánh được sự yếu kém trong khâu tín dụng của ngân hàng.
Mặc dù công tác tín dụng của Chi nhánh về mặt số lượng đang ngày càng suy giảm nhưng về mặt chất lượng thì đang ngày càng được nâng cao. Bằng chứng là cho đến năm 2007, chi nhánh vẫn tiếp tục đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn và giữ vững mối quan hệ với các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh cao, sức tiêu thụ lớn, qua đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh như: Công ty cổ phần Cao su Sao vàng, Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Cơ điện Trần Phú, Công ty Cổ phần Dược Trung ương
Chi nhánh cũng đã kí được những hợp đồng cho vay trung và dài hạn khá lớn như:
Dự án truyền hình cáp của công ty dịch vụ truyền thanh truyền hình Hà Nội, số tiền 22 tỷ đồng (năm 2004);
dự án nhập thiết bị để thi công Nhà máy Thủy điện A Vương của công ty Lũng Lô, số tiền 43,5 tỷ đồng (năm 2004);
Đầu tư 22 tỷ đồng cho Công Ty TNHH vận tải Việt Thanh để xây dựng hệ thống vận chuyển hành khách tuyến đường Hà Nội - Nội Bài (năm 2005);
Ba dự án của Công ty Cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông, đầu tư di dời và mở rộng sản xuất bóng đèn phích nước và các thiết bị chiếu sáng với tổng số tiền đầu tư lên tới 67 tỷ đồng vào năm 2006;
Mở rộng nhà máy bóng đèn Quế Võ – Bắc Ninh với số tiền là 28 tỷ đồng đầu năm 2007;
Đầu tư 20 tỷ cho nhà máy sản xuất và lắp ráp máy bơm và vật liệu xây dựng của công ty TNHH thương mại Đại Việt năm 2007
2.3. Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng
2.3.1. Thực trạng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ nợ quá hạn của Chi nhánh đang có xu hướng tăng cao, thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.7: Nợ quá hạn phân theo quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng số nợ quá hạn
12
25
95
92
Tỷ trọng
0,54%
1,22%
6,02%
7,68%
- Doanh nghiệp lớn
8
17
65
75
Tỷ trọng
0,81%
1,66%
8,67%
10,81%
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa
4
8
20
17
Tỷ trọng
0,33%
0,78%
2,42%
3,37%
(Nguồn: báo cáo tổng kết thực hiện đề án nợ tồn đọng tại NHCTVN)
Qua biểu trên, ta có thể thấy tỷ lệ nợ quá hạn đang ngày càng tăng nhanh, từ 0,54 % trong năm 2004, tăng lên 1,2% trong năm 2005 và tăng đột biến lên 6% trong năm 2006 đạt con số 95 tỷ 490 triệu đồng, tăng 71 tỷ 50 triệu đồng so với năm trước. Năm 2007, tuy số nợ quá hạn giảm một chút so với 2006 (92,28 tỷ) nhưng tỷ lệ nợ quá hạn vẫn cao vượt quá 6 %, cụ thể là 7,7% do dư nợ tín dụng giảm.
Đồng thời, một diều không thể phủ nhận là tỷ trọng nợ quá hạn/dư nợ tín dụng của DNNVV là khá nhỏ, chỉ chiếm cao nhất vào khoảng 3,3%. Từ đó có thể thấy, tâm lý e ngại rủi ro khi cho vay DNNVV là không đáng có.
Song song với việc tìm kiếm thêm khách hàng, công tác thu hồi và xử lý nợ tồn đọng của Chi nhánh cũng được tích cực triển khai.
Bảng 2.8: Số nợ quá hạn được thu hồi giai đoạn 2004 – 2007
Đơn vị:tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng số nợ quá hạn
12
25
95
92
Thu hồi nợ quá hạn và nợ tồn đọng
9,345
7,85
39,909
41,366
(Nguồn: báo cáo thường niên Chi nhánh NHCT Đống Đa)
Đối với những khoản nợ quá hạn mà Chi nhánh nhận thấy không có khả năng thu hồi hay còn gọi là nợ đọng, Chi nhánh tiến hành xử lý theo một số phương pháp như bán tài sản đảm bảo, xóa nợ
Bảng 2.9: Kết quả xử lý nợ tồn đọng đến 30/9/2007
Đơn vị: triệu đồng
Chi nhánh Đống Đa
Bán khai thác tài sản
5054
Thu bằng tiền
5963
Xử lý rủi ro
13953
Chính phủ cấp nguồn xử lý
808
Các biện pháp xử lý khác
0
Xóa nợ
0
Tổng
25778
(Nguồn: tổng kết đề án xử lý nợ tồn đọng tại NHCTVN)
2.3.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa
a) Nguyên nhân từ phía khách hàng
Các DNNVV là khách hàng của Chi nhánh thuộc cả 2 phạm vi trong và ngoài quốc doanh, đối với mỗi loại lại có những ưu điểm và hạn chế nhất định, quyết định mức độ rủi ro cũng như tính chất rủi ro khác nhau.
Đối với DNNVV thuộc khu vực ngoài quốc doanh, những doanh nghiệp này thường có tài sản đảm bảo và hệ số tự tài trợ khá lớn. Những doanh nghiệp này thường chỉ cần vay một lượng tương đối nhỏ để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh trong vòng một năm hoặc nhiều hơn. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là không có được hệ thống báo cáo tài chính đầy đủ, chính xác. Rủi ro tín dụng xảy ra với nhóm đối tượng này cũng tương đối nhỏ vì nhu cầu vốn mà họ cần nhỏ trong khi khả năng thanh toán lớn. Theo báo cáo thực hiện kế hoạch thì chỉ có 1 DNNVV ngoài quốc doanh là công ty điện tử Sel có nợ quá hạn (nhóm 5) là 23.011 triệu đồng (tính đến hết tháng 3 năm 2008)
Nhóm đối tượng thứ hai (các DNNVV thuộc khu vực trong quốc doanh), với ưu điểm nổi bật là hệ thống báo cáo tài chính và kế toán đầy đủ, nhân viên tín dụng của Chi nhánh không quá vất vả trong việc thẩm định cũng như hướng dẫn về mặt thủ tục với các doanh nghiệp này nhưng do tính chất là doanh nghiệp sở hữu nhà nước nên tài sản đảm bảo của những doanh nghiệp này rất nhỏ, chủ yếu là nhà xưởng và thiết bị, còn đất đai thì không được phép mang thế chấp để vay vốn, ngoài ra thì hệ số tự tài trợ lại tương đối nhỏ trong khi đó thì nhu cầu vốn lại khá lớn. cho vay các doanh nghiệp này, Chi nhánh phải chấp nhận mức độ rủi ro tương đối lớn do các doanh nghiệp quốc doanh thường ít tự chủ về phương hướng kinh doanh, pụ thuộc vào các chính sách cấp vốn của nhà nước, môi trường làm việc đôi khi khá trì trệCó một vài DNNVV thuộc khu vực quốc doanh có nợ quá hạn thuộc nhóm 4 và nhóm 5 như công ty vật tư xây dựng công trình với 985 triệu chưa xử lý và 19.327 triệu đã xử lý rủi ro; công ty thiết bị lạnh kỹ thật số với 653 triệu
b) Nguyên nhân chủ quan của Chi nhánh
Nợ xấu lớn do ảnh hưởng của việc Chi nhánh đã đầu tư vào khối giao thông, xây dựng cơ bản, việc trì trệ thi công, chậm trễ nghiệm thu, thanh toán, nợ nần dây dưa cũng như giá cả vật tư biến động mạnh gần đây dẫn đến các doanh nghiệp khó khăn, không trả nợ ngân hàng được.
Chi nhánh còn chưa có nhiều kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng, cơ chế tín dụng của NHCTVN chưa theo kịp với thực tiễn, chưa có định hướng đầu tư phù hợp.
c) Nguyên nhân bất khả kháng
Do ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt, mất mùa, dịch bệnh, biến động của thị trường lãi suất, tỷ giá ngoại tệ, giá nhập vật tư, phân bón, sắt thép, nguyên nhiện liệu ở thị trường quốc tế biến động mạnh, tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực, nhất là khủng hoảng tài chính tiền tệ của Mỹ gây ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá giao dịch đồng USD
2.3.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa.
Rủi ro tín dụng đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh tín dụng của Chi nhánh trong giai đoạn hiện nay. Nó đã để lại một số hậu quả như:
- Rủi ro tín dụng làm giảm tổng lãi thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của Chi nhánh . Tính đến ngày 31/12/2007 tổng lãi thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chỉ đạt 102,2 tỷ đồng, thấp hơn chỉ tiêu đã đặt ra là 10 tỷ
- Là Chi nhánh có tổng số nợ xấu và nợ tồn đọng tương đối lớn trong toàn hệ thống, điều này đã gây sức ép về tâm lý đối với cán bộ tín dụng của Ngân hàng.
- Vấn đề nợ quá hạn tồn đọng lớn trong thời gian gần đây, buộc Chi nhánh phải thành lập tiểu ban xử lý nợ tồn đọng nên đã gây không ít tốn kém về vật lực và trí lực của Ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng quá lớn, buộc Ngân hàng phải thắt chặt quy chế tín dụng nên rất có thể sẽ bỏ qua những khoản cho vay "hơi mạo hiểm" mà các thời điểm bình thường khác Ngân hàng có thế chấp nhận cho vay
2.4. Đánh giá thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng
2.4.1. Kết quả đạt được
Có phương hướng phát triển cụ thể
Trái với một số ngân hàng khác, có hướng phát triển như nhau, không vạch rõ hướng đi cho mình, chủ yếu tập trung cạnh tranh để có được các dự án lớn của nhà nước. NHCTVN nói chung và chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa nói riêng đã đề ra chủ trương hướng tới khách hàng là DNNVV. Do vậy, đã hạn chế được một số rủi ro từ phía các doanh nghiệp nhà nước như chậm thu hồi nợ do tiến độ công trình trì trệ Hơn nữa, khi quyết định hướng tới các DNNVV, NHCT đã tự mở rộng phạm vi kinh doanh cho mình, có nhiều sự lựa chọn hơn, khi đó, công việc của Chi nhánh là thẩm định để lựa chọn những phương án khả thi nhất để tiến hành cho vay. Bằng chứng là trong khi tỷ trọng dư nợ tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 70% tổng dư nợ toàn hệ thống thì nợ quá hạn chỉ có 3%.
Có chủ trương chọn lọc khách hàng
Chi nhánh đã có chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với các khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng; với những đơn vị có nợ quá hạn lớn, kinh doanh thua lỗ, Chi nhánh không thể tiếp tục đầu tư vốn tín dụng tiếp mà chỉ thu nợ.
Hoạt động thẩm định đạt hiệu quả cao
Hoạt động tín dụng đã được thực hiện theo đúng quy trình của NHCTVN, hoạt động thẩm định rủi ro được độc lập với hoạt động thẩm định cho vay, chỉ trong năm 2007 đã thẩm định 302 món là tín dụng với DNNVV. Công tác tín dụng được thực hiện trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin để phục vụ cho quá trình thẩm định các dự án, phương án thông qua nhiều nguồn thông tin như qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng internet, tình hình giá cả, cung cầu trên thị trường, CIC và qua cả các mối quan hệ của nhân viên tín dụng với các đối tác khác nhau Thẩm định đã giúp các phòng cho vay đúng đối tượng, mục đích và theo đúng quy trình nghiệp vụ. Đồng thời cũng góp phần phát hiện ra những phương án, dự án không khả thi, không hợp lệ để thông báo cho các phòng khách hàng.
Công tác đào tạo cán bộ tín dụng
Chi nhánh đã quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh, nâng cao tác phong giao dịch của tất cả các nghiệp vụ, dịch vụ có tiếp xúc với khách hàng, chú trọng đạo đức nghề nghiệp yêu cầu cán bộ phải nắm rõ quy chế nghiệp vụ Ngân hàng, nắm bắt được các phương thức tài trợ tín dụng để tư vấn cho khách hàng chọn những sản phẩm tín dụng nào là phù hợp nhất. Chi nhánh cũng đã tổ chức một số khóa học về luật do giảng viên giầu kinh nghiệm của trường Đại học Luật giảng dậy và tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng của Chi nhánh.
Xử lý nợ xấu và nợ tồn đọng
Chi nhánh đã thi hành một số biện pháp để xử lý nợ xấu và nợ tồn đọng như: hàng tháng, Chi nhánh tổ chức họp giao ban, tín dụng trong đó các phòng khách hàng và phòng quản lý nợ có vấn đề phải báo cáo những việc đã làm, kết quả đã thu nợ, biện pháp thu nợ đối với từng khách hàng có nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro. Chi nhánh đã khá quyết liệt bằng các biện pháp như phân loại khách hàng để áp dụng các biện pháp phù hợp như bán sát tình hình hoạt động của cá đơn vị, các nguồn tiều về để kịp thời thu nơ, khỏi kiện đối với khách hàng chây ỳ, phối hợp với đơn vụ tìm khách hàng bán tài sản thế chấp hoặc làm việc với chính quyền thành phố, các tổng công ty để nhờ hỗ trợ trong thu nợ.
2.4.2. Khó khăn vướng mắc trong hạn chế rủi ro tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tuy Chi nhánh NHCT Đống Đa đã có nhiều biện pháp để phòng ngừa rủi ro tín dụng nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Điều đó thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn vẫn cao hơn 3 % nguyên nhân là do các biện pháp đưa ra còn nhiều bất cập và hầu như khắc phục rủi ro sau khi rủi ro tín dụng xảy ra chứ chưa chú trọng nhiều đến vấn đề nhận thức được rủi ro tiềm ẩn trước khi rủi ro xảy ra để có biện pháp khắc phục kịp thời. Một số khó khăn, vướng mắc có thể kể ra như sau
Từ phía khách hàng (các DNNVV)
Cung cấp các thông tin tài chính thiếu minh bạch
Báo cáo tài chính của công ty là nguồn thông tin chính để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, nhiều DNNVV cung cấp thông tin tài chính không đáng tin cậy. Điều này khiến cho DNNVV khó có thể có được các khoản vay từ Chi nhánh.
Có hai lí do giải thích cho thực trạng này là: thiếu năng lực hoặc hạch toán kế toán sai. Các cuộc phỏng vấn với hơn 100 chủ DNNVV cho thấy nhiều doanh nghiệp chuẩn bị ba bộ hồ sơ kế toán, một cho ngân hàng, một cho phòng thuế và một cho chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, cán bộ ngân hàng hiểu rất rõ thực tế này, và đa số họ khẳng định rằng họ thường yêu cầu doanh nghiệp xin vay vốn nộp bản sao báo cáo tài chính có dấu nhận hồ sơ của cục thuế, bởi vì các báo cáo tài chính lập để gửi cơ quan thuế thường thể hiện kết quả hoạt động tài chính xấu nhất. Cung cấp báo cáo tài chính có chất lượng là hết sức quan trọng đối với quá trình xét duyệt cho vay vốn. Trên thực tế việc chuẩn bị báo cáo tài chính đáng tin cậy và kế hoạch kinh doanh khả thi cho hồ sơ xin vay vốn là rất khó đối với các chủ DNNVV, những người không có kiến thức cơ bản về tài chính.
Bên cạnh đó, hầu hết các chủ DNNVV cho biết họ không thuê các công ty tư vấn phát triển kinh doanh. Thực trạng này xuất phát chủ yếu từ ý nghĩ về việc thiếu chất lượng của các công ty tư vấn kinh doanh ở Việt Nam và phí tư vấn quá cao đối với các doanh nghiệp. Mặc dù số lượng công ty tư vấn phát triển kinh doanh đang tăng, nhưng dịch vụ của họ không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Vấn đề nằm ở phía các DNNVV. Họ chưa có thói quen trả tiền cho dịch vụ.
Một ví dụ cụ thể về Công ty Long Thành – công ty chuyên về máy móc cũng như trực tiếp đào đường hầm, tuy rất có khả năng phát triển cũng như đã có mối quan hệ tín dụng khá tốt với Chi nhánh nhưng cán bộ tín dụng đã phải trực tiếp hướng dẫn công ty làm tờ trình vay vốn cũng như phương án sản xuất kinh doanh các năm tiếp theo để được vay thêm vốn điều này có nguyên nhân từ hạn chế trong khả năng quản lý và lập phương án sản xuất kinh doanh.
Thiếu năng lực tài chính và không có đủ tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là một yếu tố quan trọng trong quá trình đánh giá khoản vay, đặc biệt là đối với các DNNVV – những doanh nghiệp chưa đủ uy tín kinh doanh trên thị trường. Một số doanh nghiệp nộp hồ sơ xin vay với tài sản đảm bảo ở các địa phương khá xa Chi nhánh, điều này gây trở ngại không nhỏ đối với nhân viên tín dụng trong việc thẩm định giá trị của tài sản đảm bảo. Tệ hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo không đủ đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của các DNNVV lại có hạn, với mức vốn tự có dưới 10 tỷ đồng (thông thường là khoảng trên dưới 2 tỷ đồng), Chi nhánh chưa thể tin tưởng để đồng ý cho doanh nghiệp đó vay trên 5 tỷ để phục vụ nhu cầu hoạt động kinh doanh hoặc xây dựng nhà xưởng mới được. Khi doanh nghiệp thiếu năng lực tài chính, tài sản đảm bảo không có, phương án sản xuất kinh doanh sơ sài thì Chi nhánh không thể chấp nhận yêu cầu vay vốn của doanh nghiệp đó vì tỷ lệ rủi ro quá lớn.
Một số nguyên nhân khác như:
sử dụng vốn sai mục đích
giá cả thị trường có nhiều biến động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
b) Từ phía Chi nhánh
Quá coi trọng tài sản thế chấp:
Tài sản thế chấp là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tuy nhiên, có một số trường hợp cán bộ tín dụng chỉ đơn thuần dựa vào một bất động sản có giá trị lớn hơn khoản vay mà đồng ý cho vay, quá trình thẩm định lỏng lẻo, một số sai sót của doanh nghiệp bị lấp liếm đi. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng đã quên rằng khoản vay cần được trả bằng dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng việc bán tài sản đảm bảo. Giả sử, khi một khoản vay bị thẩm định qua loa, và đồng ý cho vay, một số khách hàng khác xứng đáng hơn sẽ không được vay do nguồn lực ngân hàng có hạn, đến kỳ thanh toán, khoản vay không thể trả đầy đủ, gây ra rủi ro tín dụng, Ngân hàng buộc phải sử lý tài sản đảm bảo, trong trường hợp này tuy ngân hàng không bị thiệt hại về mặt tiền của nhưng lại bị thiệt hại lớn về nhân lưc cũng như những phí tổn không đáng có để bán tài sản đảm bảo.
Bên cạnh đó, các chủ DNNVV thường phàn nàn nhiều về việc cho vay dựa vào tài sản đảm bảo vì họ không có cách nào để tiếp cận các khoản tín dụng trung và dài hạn không có tài sản đảm bảo. Một số chủ DNNVV khẳng định rằng cán bộ ngân hàng sẽ không xem xét nghiêm túc báo cáo tài chính và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không có đủ tài sản đảm bảo. Họ chỉ trích cách thức xét cho vay chỉ dựa vào tài sản đảm bảo. Nhiều chủ doanh nghiệp cũng khẳng định rằng ngân hàng thường đánh giá tài sản đảm bảo thấp hơn giá trị thị trường rất nhiều, do vậy doanh nghiệp không thể vay đủ như mong muốn.
Phụ thuộc vào nhận định mang tính cá nhân của các cán bộ quản lý ngân hàng,, đôi khi không thực hiện đúng các quy chế tín dụng
Những chủ DNNVV có kinh nghiệm về vay vốn ngân hàng cho biết mối quan hệ cá nhân đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi lần đầu đi vay ngân hàng. Một số tiếp cận được nguồn tín dụng ngân hàng là nhờ có mối quan hệ với cán bộ ngân hàng, trong khi một số khác thì được bạn bè thông báo về kế hoạch tài trợ dành cho DNNVV của các nhà tài trợ. Theo kết quả khảo sát, khoảng 20-30% công ty coi mối quan hệ cá nhân là hết sức quan trọng trong việc thương thảo với ngân hàng. Hơn thế nữa, 22% DNNN và gần 50% doanh nghiệp tư nhân cũng đồng tình là quan hệ cá nhân là hết sức quan trọng trong việc tiếp cận nguồn vốn.
Một số cán bộ quản lý cao cấp cũng thừa nhận rằng cho vay đối với DNNVV chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và các mối quan hệ cá nhân với chủ doanh nghiệp. Hoạt động ngân hàng dựa vào quan hệ như vậy rất hữu hiệu đối với ngân hàng, đặc biệt trong việc tài trợ các DNNVV vì các doanh nghiệp này chưa thiết lập được lòng tin và tình hình sản xuất kinh doanh của họ thường biến động.
Cán bộ quản lý hoặc cán bộ tín dụng có liên hệ cá nhân với chủ hoặc nhân viên của doanh nghiệp, và có thể nhận định việc cho vay trên cơ sở cá nhân. Việc những cán bộ này được trao nhiều quyền quyết định hơn có thể giúp các DNNVV tiếp cận với các khoản vay ngân hàng dễ dàng hơn thông qua việc tiếp cận với cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, phụ thuộc quá nhiều vào thẩm quyền cá nhân như vậy có thể tạo ra rủi ro tín dụng do đạo đức của cán bộ tín dụng.
Chi nhánh chưa xây dựng được mô hình lượng hoá rủi ro và xác định mức cho vay tối đa, tối ưu đối với khách hàng
Chi nhánh chưa xây dựng được cho mình một mô hình thích hợp để lượng hoá mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Bản thân hệ thống tính điểm tín dụng hiện đang áp dụng ở Chi nhánh cũng chưa có hệ thống phương pháp luận cơ sở. Đo lường rủi ro tín dụng ở Việt Nam hiện đang rất khó, chưa kể đến thông tin ít chính xác và còn quá nghèo nàn. Thêm vào đó, thông tin đầu vào vô cùng cần thiết phục vụ việc ra quyết định của NH chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. Trung tâm thông tin tín dụng NH nhà nước hầu như mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ vay của các doanh nghiệp, chưa có thông tin phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
Trích lập dự phòng rủi ro trên cơ sở nợ quá hạn chứ không phải trên mức rủi ro tín dụng gây ra trích lập thiếu dự phòng
Theo quy định hiện nay, Chi nhánh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn. Điều này là không hợp lý vì có những khoản vay mặc dù chưa tới hạn nhưng đã tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro song lại không được trích lập.
Một bộ phận cán bộ thiếu kiến thức xã hội
Đội ngũ cán bộ tín dụng và cán bộ tại phòng quản trị rủi ro đều có bằng cấp từ đại học trở lên, tuy nhiên kiến thức về xã hội, thị trường của một bộ phận cán bộ tín dụng bị hạn chế, điều đó cũng gây cho món vay bị rủi ro vì cán bộ tín dụng phải là người có kiến thức về nhiều lĩnh vực, đặc biệt alf những lĩnh vực mà mình cho vay để có thể phân tích tình hình thị trường, dự đoán khả năng phát triển của một ngành nghề nào đó để có hướng đầu tư đúng đắn. Trong nhiều trường hợp khách hàng đã không nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, không phân tích được cung cầu của thị trường dẫn đến mặt hàng kinh doanh đó bị ứ đọng, nên cán bộ tín dụng là người có kiến thức, biết phân tích tình hình cho khách hàng, sẽ tránh được thiệt hại trong kinh doanh, và ngân hàng.
c) Từ phía các cơ quan nhà nước
Cơ chế chính sách trong điều tiết còn nhiều bất cập, chưa phù hợp
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách cần phải điều chỉnh là không thể tránh khỏi, do đó sự điều chỉnh đôi khi tác động làm ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng như NĐ18/CP của Chính phủ về quản lý đất đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng kinh doanh bất động sản bị kẹt vốn không thể trả được nợ cho ngân hàng khi đến hẹn. Hệ thống văn bản còn nhiều bất cập, nhất là quy định về bảo đảm tiền vay. Chính sách ngoại thương không kịp thời, không đối phó với sự biến động của thị trường của thị trường làm cho hàng hoá lúc thì nhập ồ ạt không tiêu thụ được gây kẹt vốn lúc thì tạo thành cơn sốt.
Chính sách thu nhập theo qui định của Bộ tài chính và bản thân các NH tính lương theo quy mô hoạt động của NH, lợi nhuậnmà không tính đến mức độ rủi ro của các hoạt động NH đang tiến hành. Điều này gián tiếp khuyến khích các NH chỉ chú trọng đến tăng trưởng, dẫn đến nguy cơ rủi ro cao và không khuyến khích quản trị rủi ro chuyên nghiệp.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA
3.1. Định hướng chung của NHCT
3.1.1. Cơ hội và thách thức
Sau 1 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền kinh tế bên ngoài lãnh thổ, thêm vào đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều tên tuổi các ngân hàng lớn trên thế giới đã tạo ra một môi trường cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt đối với các ngân hàng trong nước nói chung và NHCT nói riêng. Bên cạnh đó, ngay thị trường tài chính trong nước cũng có rất nhiều biến động, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, ý thức được vai trò của mình trong nền kinh tế, các ngân hàng đồng loạt mở ra rất nhiều chi nhánh. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, trên địa bàn quận Đống Đa, một loạt các Chi nhánh của các ngân hàng đã được mở như Sea Bank, MHB Bank, Ocean Bank, Techcombank, Indovina Bank, Military Bank Chính điều này cũng đã làm giảm khả năng tìm kiếm khách hàng của chi nhánh NHCT Đống đa trong năm qua. Tuy nhiên, NHCTVN có một ưu thế mà không một ngân hàng nào có được, đó là uy tín lâu năm cùng với định hướng rõ ràng về mục tiêu phát triển trong tương lai, do vậy, đối với NHCTVN, thách thức có nhiều nhưng cơ hội cũng không thiếu.
3.1.2. Định hướng về tín dụng và mục tiêu của Chi nhánh đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
3.1.2.1. Mục tiêu của Chi nhánh
Để lập thành tích kỷ niệm 20 năm ngày thành lập NHCTVN. Căn cứ vào định hướng của NHCTVN và tình hình thực tế tại Chi nhánh, Chi nhánh NHCT Đống Đa đề ra một số nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh doanh đến năm 2008. cụ thể như sau:
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kinh doanh đến 31/12/2008
TT
Chỉ tiêu
Thực hiện năm 2007
Kế hoạch năm 2008
% so với 2007
1
Tổng nguồn vốn huy động
4.503 tỷ đồng
5.000 tỷ đồng
111
2
Tổng dư nợ
1.198 tỷ đồng
1.545 tỷ đồng
129
3
Dư nợ trung dài hạn
26%
<40%
4
Dư nợ có tài sản đảm bảo
31%
>40%
5
Nợ xấu
92.281 triệu đồng
55.000 triệu đồng
60
6
Thu dịch vụ phí
10.749 triệu đồng
14.000 triệu đồng
130
7
Phát hành thẻ E-Partner
9.083 thẻ
10.500 thẻ
116
8
Lợi nhuận hạch toán
120.228 triệu đồng
107.500triệu đồng
(Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 và phương hướng kinh doanh năm 2008 – Chi nhánh NHCT Đống Đa)
Để thực hiện được những mục tiêu trên, Chi nhánh đã đề ra một số biện pháp như sau:
Rà soát và nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ giao dịch và cán bộ tín dụng. Tiếp tục cải tiến mạnh mẽ cơ chế lương, thưởng để làm động lực cho cán bộ. Phân loại cán bộ, có chế độ lương, thưởng căn cứ vào số lượng và chất lượng công việc. Coi trọng việc giáo dục đạo đức, nghề nghiệp của các cán bộ trong Chi nhánh, cần quan tâm đúng mức tới những cán bộ có những biểu hiện chi tiêu bất thường. Khen thưởng kịp thời những cán bộ có thành tích xuất sắc, tìm kiếm được khách hàng tốt, thu hồi được nợ xấu, nợ đã XLRR. Đồng thời, xử lý kỷ luật nghiêm đối với những cán bộ làm sai quy trình, quy chế gây ra nợ xấu hoặc làm thiệt hại tới quyền lợi của ngân hàng cũng như của khách hàng. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ theo tiêu thức, một cán bộ có thể quy hoạch nhiều vị trí và một ví trí quy hoạch nhiều cán bộ.
Đẩy mạnh công tác huy động vốn, triển khai các sản phẩm huy động vốn mới nhằm thu hút tối đa nguồn tiền gửi của khách hàng. Cung cấp các dịch vụ mới và sử dụng lãi suất linh hoạt trong phạm vi ủy quyền cho giám đốc Chi nhánh hoặc thông báo kịp thời diễn biến lãi suất tới cá phòng nghiệp vụ của NHCT Việt Nam để có biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp. Rà soát, nâng cấp lại các quỹ tiết kiệm, những quỹ tiết kiệm vắng khách, không hiệu quả sẽ đóng cửa và tiếp tục tìm kiếm những vị trí tốt đẹp, có tiềm năng phát triển để mở mới điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng lành mạnh bằng các biện pháp nhưng nâng cao chất lượng thẩm định, tái thẩm định, thực hiện kiểm tra chặt chẽ các khoản vay, công tác kiểm tra chéo, tái kiểm tra của phòng kiểm tra sẽ làm chặt chẽ. Nawmg 2008, Chi nhánh phấn đấu mở rộng đầu tư tín dụng đối với khách hàng vừa và nhỏ đảm bảo an toàn, hiệu quả, không để phát sinh nợ quá hạn, lãi treo. Khẩn trương bổ sung tài sản bảo đảm để nhằm giảm thiểu rủi ro.
Tích cực tìm biện pháp giải quyết thu hồi các khoản nợ xấu, nợ đã XLRR. Phối hợp chặt chẽ giữa các phòng Quản Lý Nợ có vấn đề và các phòng Khách hàng để đưa ra biện pháp thu nợ cụ thể đối với từng khách hàng. Xử lý tài sản là máy móc thiết bị của Công ty 899, 875, 874, Việt Lào. Xử lý tài sản trên đất của các Công ty 889, 875. Làm việc với Công ty Mua bán nợ của Bộ tài chính để thực hiện bán nợ đối với khối các Công ty thuộc Tổng 8, Công ty Chế biến Ván nhân tạo, Hóa sinh, Điện thông.
Thực hiện tốt chính sách chăm sóc khách hàng mà Chi nhánh đã đề ra. Chủ động phân công cán bộ có trách nhiệm theo dõi nắm bắt những biến động trên tài khoản của khách hàng chiến lược để có hướng chăm sóc khách hàng kịp thời và xử lý lãi suất tiền gửi cũng như tiền vay linh hoạt để đảm bảo hiệu quả cao trong kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của Chi nhánh trên thị trường. Năm 2008, đẩy mạnh công tác phát hành thẻ và trả lương qua thẻ nhằm tăng thu phí dịch vụ và thu hút nguồn tiền gửi.
Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ bằng nhiều hình thức: tự kiểm tra, kiểm tra chéo giữa các bộ phận, nâng cao vai trò và trách nhiệm của hậu kiểm. Đặc biệt chú ý đến công tác phòng ngừa rủi ro, cán bộ cần làm đúng quy trình nghiệp vụ, khi linh cảm có rủi ro cần kiểm tra và báo cáo lãnh đạo, chú ý đến các cảnh báo của NHNN, NHCT để có biện pháp phù hợp.
Làm tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phát triển Đảng viên mới. Thường xuyên quán triệt Luật Phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tới toàn thể CBNV, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. Duy trì và phát huy tốt các hoạt động đoàn thể: Công đoàn, thanh niên, Nữ công, Tự vệ, Tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua.
3.1.2.2. Định hướng chung đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngân hàng Công thương đã đưa ra định hướng đến năm 2010 sẽ trở thành ngân hàng hàng đầu phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để thực hiện được điều đó NHCT Việt Nam đã triển khai tập huấn cho các Chi nhánh, phối hợp với Ban quản lý dự án và các Chi nhánh xúc tiến tiếp xúc, thẩm định khách hàng để giải ngân và bảo lãnh vay vốn, bước đầu đã đạt được những kết quả khích lệ.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam (ICB) đã lập phòng chuyên trách về hỗ trợ tín dụng cho khu vực DNNVV; đồng thời, chú trọng hoàn thiện sản phẩm, đào tạo cán bộ chuyên trách phục vụ nhóm khách hàng này và tìm các nguồn vốn hỗ trợ mới. Tham vọng của ICB là đến năm 2010 sẽ trở thành ngân hàng dẫn đầu về phục vụ đối tượng khách hàng này.
Bằng những giải pháp này, số lượng DNNVV hiện đã chiếm 50% tổng lượng khách hàng và lượng vốn vay chiếm tới 60% tổng dư nợ của ngân hàng. Tuy nhiên, tham vọng của NHCT là có khoảng 70% dư nợ tín dụng thuộc nhóm khách hàng là DNNVV vào năm 2010.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, khai thác các nguồn vốn quốc tế có nhiều ưu đãi, thời hạn dài để cho vay DNNVV thể hiện sự tích cực và năng động của NHCT Việt Nam vào việc phát triển DNNVV đồng thời tiếp tục khẳng định vị trí và uy tín của NHCT Việt Nam là Ngân hàng đi đầu trong tài trợ DNNVV, đồng hành cùng doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước
3.2. Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
3.2.1. Giải pháp đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
a) Tổ chức các lớp tập huấn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong điều kiên hội nhập như hiện nay, các DNNVV cần phải được trang bị những kiến thức cơ bản về kế toán cũng như khả năng lập các báo cáo kết quả kinh doanh. Điều này không chỉ có lợi cho các doanh nghiệp mà còn có lợi cho chính Chi nhánh. Tuy để tổ chức được các lớp này sẽ tiêu tốn một khoản chi phí nhất định nhưng lại mang lại lợi ích lâu dài cho ngân hàng. Lợi ích trước mắt là có thể chuẩn hóa được các báo cáo tài chính cũng như kế hoạch vay vốn mà các DNNVV sẽ đưa ra, nhằm giảm bớt áp lực về công việc cho cán bộ tín dụng và hạn chế rủi ro. Lợi ích thứ hai, dễ dàng thấy được là có thể thu hút các khách hàng mới cho chi nhánh. Một khi nhận thấy nhu cầu của mình được chú trọng, các DNNVV có thể phá vỡ tâm lý e ngại sử dụng vốn vay ngân hàng và trở thành khách hàng tiềm năng của Chi nhánh.
b Giáo dục và đào tạo cho cán bộ tín dụng những kiến thức về mặt xã hội
Để giải quyết khó khăn do hạn chế về những kiến thức xã hội gây ra, Chi nhánh cần phải có những biện pháp giáo dục thường xuyên đội ngũ cán bộ, nhất là đối với cán bộ tín dụng. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo sự an toàn và phát triển vốn của Chi nhánh. Trước hết Chi nhánh phải nắm được trong tay một đội ngũ cán bộ tín dụng có đủ tư cách và phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn giỏi. Vì vậy Chi nhánh phải có kế hoạch giáo dục và đào tạo lại, nhằm trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về tình hình kinh tế thị trường, đặc biệt là kiến thức về ngành mà họ đang cho vay. Bên cạnh đó, họ cũng phải được bồi dưỡng những kiến thức pháp lý về các quan hệ kinh tế, dân sự và hình sự, vấn đề về sở hữu... đều quan trọng không thể xem nhẹ, đó là thường xuyên ôn luyện và có sự kiểm tra về kiến thức nghiệp vụ, sự hiểu biết về quy trình và cơ chế cho vay của ngân hàng.
Một biện pháp khác là có thể tổ chức các buổi họp mặt thường niên, nhằm trao đổi thông tin giữa các cán bộ ở các phòng khách hành trong chi nhánh và rút ra những bài học kinh nghiệm sau 1 năm hoạt động tín dụng của mỗi cá nhân.
c) Thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng
Quá coi trọng tài sản thế chấp và nhận định mang tính cá nhân đôi khi khiến các cán bộ tín dụng thực hiện không nghiêm túc các quy chế tín dụng. Trong mọi trường hợp, cần phải thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng đã được đề ra, trách tư tưởng săn tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Bằng bất cứ giá nào cũng không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để lôi kéo khách hàng, thực hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, và để cho món vay có thể được hoàn trả cả trong trường hợp dự án kinh doanh thất bại, thì phải thực hiện thế chấp đúng đắn, phù hợp với thực tế. Nhưng cũng cần phải cảnh tỉnh quan điểm cho rằng tài sản thế chấp là tất cả, do đó cứ có thể chấp là cho vay mà quên đi những vấn đề cơ bản của tín dụng. Để ngăn ngừa các rủi ro về phía khách hàng, Chi nhánh NHCT Đống đa cần thực hiện việc lựa chọn khách hàng một cách đúng đắn hơn nữa, chỉ cho vay đối với những khách hàng đầy đủ điều kiện tín dụng. Cần quan tâm đến các vấn đề như: năng lực tài chính, tình hình tài chính, khả năng và đạo đức của người điều hành, ưu thế và sức mạnh của người vay trong cạnh tranh. Khi món tín dụng đã được cấp, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và người điều hành là phải thường xuyên giám sát hoạt động của người vay, phát hiện kịp thời những món vay có vấn đề đưa các giải pháp hữu hiệu. Cũng cần phải buộc khách hàng phải sử dụng tiền vay đúng theo cam kết khi vay, nếu họ có ý đồ làm khác đi, với những toan tính phiếu lưu, thì cán bộ tín dụng phải có những biện pháp thích hợp để thu hồi lại món vay.
Ngoài ra, ban lãnh đạo phải thường xuyên xem xét, đánh giá lại các qui định tín dụng. Một mặt phải chỉnh sửa những vấn đề không phù hợp với thực tiễn, chưa chặt chẽ về pháp luật, nhằm tránh sự lợi dụng của những người “thiếu đạo đức” từ phía khách hàng lẫn cán bộ ngân hàng. Mặt khác đánh giá tác động của hệ thống quy chế tín dụng vào quá trình cho vay và thu nợ, nhằm tìm ra những biện pháp đưa quy chế vào thực tiễn.
d) Áp dụng một số mô hình lượng hóa rủi ro vào hoạt động thẩm định tín dụng của ngân hàng
Chi nhánh có thể áp dụng mô hình xác định chất lượngkhoản vay: dựa trên yếu tố 6 C như sau:
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng củ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm phòng ngừa rủi ro
- Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của quốc gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính sau:
+ Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios):
Hệ số lưu động = tài sản nợ lưu động / nợ ngắn hạn . Hệ số này phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ đúng hạn.
Hệ số thanh khoản nhanh = tài sản lưu động – hàng tồn kho / nợ ngắn hạn. Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải cao, còn doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu này có thể nhỏ hơn 1.
Hệ số ngân quỹ = ngân quỹ / nợ ngắn hạn
+ Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios):
Hệ số nợ = tổng tài sản – vốn chủ sở hữu / tổng tài sản. Hệ số này có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là lý tưởng vì có ít nhất phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi. Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ.
+ Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios):
Hệ số vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán / hàng tồn kho
Hệ số vòng quay các khoản phải thu = doanh thu / các khoản phải thu
Hệ số vòng quay tài sản = doanh thu thuần / tổng tài sản
+ Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios):
Hệ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = tổng lợi tức sau thuế / tổng tài sản
Hệ số thu nhập trên vốn thuần = tổng lợi tức sau thuế / vốn chủ sở hữu thuần
Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của NHTW quy định theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng ?
e) Xử lý các khoản nợ khó đòi
Trong sử lý các khoản cho vay khó đòi thông thường các ngân hàng thương mại phải lựa chọn một trong hai hình thức là: Tổ chức khai thác hoặc thanh lý tài sản thế chấp. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi người vay hoàn trả được một phần hay toàn bộ số nợ mà không đưa vào các công cụ pháp lý để ép buộc. Thanh lý là ép người vay phải tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng, áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp lý có thể để đạt được mục đích.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà ngân hàng sẽ theo để sử lý các khoản cho vay, nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu nợ và tổn thất có thể xảy ra, trong trường hợp này ngân hàng phải áp dụng hình thức thu nợ bắt buộc theo luật. Bên cạnh đó các yếu tố như sự thật thà, thái độ của người vay đối với các khoản nợ tỏ ra có trách nhiệm, sức mạnh tài chính và khả năng trả nợ của người vay còn có nhiều khả quan thì ngân hàng áp dụng hình thức tổ chức khai thác, hình thức này vừa không nhẫn tâm với người vay mà còn tỏ ra có lợi cho ngân hàng.
Trong hoạt động thu nợ, ngân hàng cần phải có sự cộng tác chặt chẽ với người vay và tranh thủ sự cộng tác của các cơ quan hành chính và luật pháp ở địa phương nơi người vay hoạt động.
Một khoản vay có vấn đề, không có nghĩa là ngân hàng đã mất tất cả, rất có thể vào thời điểm ra hạn cuối cùng người vay sẽ hoàn trả được đầy đủ các khoản nợ của ngân hàng, mà không cần có sự can thiệp của các cơ quan chức trách và điều hành pháp luật. Hoặc phải áp dụng những hình thức cuối cùng như phát mại tài sản thế chấp. Những biện pháp cuối cùng chỉ nên áp dụng khi người vay cố tình lừa đảo hoặc mất hoàn toàn khả năng thanh toán. Vì nó sẽ gây ra rất nhiều phiền phức và tốn kém cho ngân hàng và cả người vay. Vì vậy, việc lựa chọn một trong hai hình thức trên đòi hỏi ngân hàng phải tính toán một cách thận trọng, với mục đích cuối cùng là giảm tối đa những thiệt hại do người vay mang lại.
f) một số giải pháp khác:
Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay
Phân chia giới hạn rủi ro: không tập trung vốn cho một số khách hàng mà cho nhiều người vay, nhiều ngân hàng cùng tài trợ cho một khách hàng, hoặc ngân hàng phân tán rủi ro theo từng ngành nghề hoạt động kinh doanh theo xu thế phát triển và mức độ tăng trưởng của từng ngành.
Dự đoán yếu tố môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh như lạm phát, chính trị, tỷ giá hối đoái
Nâng cao chất lượng công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng.
Tham gia trung tâm thông tin tín dụng.
3.2.2. Một số kiến nghị tới Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
a) Kiến nghị tới Ngân hàng Nhà nước
* Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu thành lập các tổ chức như:
+ Qũy bảo hiểm tiền gửi.
+ Ngân hàng bảo lãnh.
Để hỗ trợ hoạt động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nước, và tạo điều kiện cho một số tổ chức kinh tế có dự án kinh doanh khả thi, nhưng không đủ các điều kiện về tài sản thế chấp.
* Việc ngân hàng Nhà nước cho phép một đơn vị kinh tế vay vốn ở nhiều ngân hàng thương mại là hợp lý, nó sẽ tạo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhăm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước. Nhưng trong điều kiện hiện nay của Việt Nam về thông tin còn nhiều điểm yếu kém. Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả, thông tin cập nhật chưa chính xác và kịp thời. Nên việc cho một đơn vị kinh tế vay vốn ở nhiều ngân hàng trong điều kiện như vậy, sẽ có thể dẫn đến rủi ro cho nhiều ngân hàng cùng môt lúc, và tạo điều kiện cho người vay lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Vì vậy để áp dụng quy chế này, Ngân hàng Nhà nước cần phải nghiên cứu sửa đổi, và chấn chỉnh lại các hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng.
* Tăng cường công tác thanh tra và xử lý nghiêm minh việc thực hiện cơ chế tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhằm tránh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, phát hiện kịp thời những sai phạm của các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hiệt hại do rủi ro đem lại.
b) Kiến nghị tới chính phủ và các ngành
* Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng một tài sản đi thế chấp nhiều nơi để vay vốn, gây thất thoát tái sản của ngân hàng.
* Bộ Tài chính, bộ tư pháp và ngân hàng Nhà nước, cần phối hợp ban hành thông tư liên bộ để hướng dẫn một số thủ tục về thế chấp, cầm cố đối với doanh nghiệp Nhà nước và thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn.
* Các bộ: Nội vụ, giao thông vận tải và ngân hàng Nhà nước phối hợp ban hành thông tư liên bộ quy định về thủ tục cầm cố, thế chấp các phương tiện vận tải. Nhằm đảm bảo cho người cho phương tiện vừa có thể đem phương tiện của mình đi thế chấp, mà vẫn được điều hành phương tiện trong thời gian thế chấp.
- Chính phủ ban hành nghị định, quy định chi tiết việc thi hành luật doanh nghiệp Nhà nước công bố ngày 30/4/1995 trong đó cần quy định rõ giữa danh sách các tài sản doanh nghiệp Nhà nước được quyền cầm cố thế chấp và danh sách các tài sản khi đem đi thế chấp phải được phép của cơ quan có thẩm quyền (cụ thể là cơ quan nào?). Đồng thời cần quy việc sử lý tài sản thế chấp của doanh nghiệp Nhà nước khi doanh nghiệp này mất khả năng thanh toán công nợ của ngân hàng.
* Chính phủ cần ban hành nghị định hướng dãn về việc đăng ký tài sản thế chấp và tổ chức bán đấu giá tài sản thế chấp.
* Bộ Tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra, buộc các doanh nghiệp phải tiến hành hạch toán theo đúng chế độ “hạch toán kế toán và thống kê’, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp các ngân hàng có được các thông tin tài chính trung thực giúp cho việc phân tích tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn được chính xác.
* Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu tiến tới việc thành lập một cơ quan chuyên trách về việc thống kê tổng hợp các tỷ lệ tài chính của các ngành trong nước,nhằm rút ra hệ thống các tỷ lệ trung bình hàng năm, để ngân hàng dựa vào đó làm căn cứ phân tích kinh tế, só sánh đánh giá các doanh nghiệp hiện đang ở tình trạng nào.
* Cần đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu. Trước hết cầm đảm bảo cân đối, tránh hiện tượng nhập - xuất tràn lan, hoặc hạn chế quá mức dẫn đến những biến động vê thị trường như trong thời gian qua. Hai là chính sách xuất nhập khẩu phải ổn định tương đối lâu dài, tránh tình trạng khi vốn tín dụng vừa mới đầu tư cho các dự án xuất nhập khẩu - chưa kịp thu hồi thì đã có sự thay đổi chính sách, khiến nợ ngân hàng không quay trở về được.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7651.doc