Một khía cạnh quản trị đáng quan tâm là
tình cảm tích cực dường như đóng vai trò
trung gian giữa chất lượng dịch vụ và hành vi
truyền miệng. Do đó, cải thiện chất lượng
dịch vụ là hoạt động có vai trò cốt yếu. Bên
cạnh đó, mặc dù tình cảm tiêu cực không có
tác động trực tiếp đến truyền miệng, biến số
này có tác động đến hài lòng và do đó sẽ ảnh
hưởng đến hành vi truyền miệng. Từ kết quả
này, nghiên cứu đưa ra khuyến nghị các nhà
quản lý không chỉ quan tâm đến tình cảm tích
cực mà cần có chính sách quan trị chất lượng
nhằm hạn chế tình cảm tiêu cực của du
khách. Hơn nữa, tình cảm tiêu cực có thể
không thể phát hiện thông qua những nghiên
cứu thực nghiệm (Jang & Namkung, 2009),
các nghiên cứu trong tương lai cần tập trung
vào tình cảm tiêu cực và mối liên hệ giữa
biến số này và chất lượng cũng như hành vi
của người tiêu dùng.
Dù rằng tác động của hài lòng không
mạnh như tác động của tình cảm tích cực đến
hành vi truyền miệng của du khách, đây cũng
là biến số mà các nhà quản lý cần quan tâm
trong bối cảnh dịch vụ. Lý do là vì bên cạnh
việc tác động đến truyền miệng, hài lòng còn
tác động đến hành vi sau mua hàng như trung
thành, mua hàng lặp lại (Baker & Crompton,
2000; Orel & Kara, 2014). Cũng như tình
cảm, hài lòng chịu tác động của chất lượng
dịch vụ, và do đó kết quả một lần nữa khẳng
định tính chất quan trọng của việc nâng cao
chất lượng trong hoạt động của đại lý lữ
hành. Theo đó, chất lượng dịch vụ cần được
đánh giá định kì và những gì làm du khách
than phiền và bất mãn cần được giải quyết
kịp thời.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hành vi truyền miệng của du khách: Vai trò của chất lượng dịch vụ, tình cảm và hài lòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
80
HÀNH VI TRUYỀN MIỆNG CỦA DU KHÁCH: VAI TRÒ CỦA CHẤT
LƯỢNG DỊCH VỤ, TÌNH CẢM VÀ HÀI LÒNG
TOURISTS’ WORD-OF-MOUTH: THE ROLE OF SERVICE QUALITY, AFFECT AND
SATISFACTION
Ngày nhận bài: 05/11/2018
Ngày chấp nhận đăng: 05/03/2019
Nguyễn Hữu Khôi, Lê Nhật Hạnh
TÓM TẮT
Nghiên cứu này thực hiện nhằm điền vào khoảng trống trong việc ứng dụng mô hình kích thích –
cá thể – phản hồi vào việc giải thích hành vi truyền miệng của du khách. Theo đó, chất lượng dịch
vụ được giả thuyết là tác nhân kích thích làm hình thành phản ứng không chỉ về mặt nhận thức mà
còn về mặt tình cảm trong bản thân du khách. Tiếp đó, phản ứng về mặt nhận thức và tình cảm sẽ
có tác động đến hành vi truyền miệng. Để kiểm định giả thuyết, mô hình cấu trúc bình phương bé
nhất riêng phần được áp dụng trên một mẫu 460 du khách nội địa. Kết quả kiểm định cho thấy các
thang đo đều đạt độ tin cậy và độ giá trị. Hơn nữa hầu hết các giả thuyết đề ra đều được ủng hộ
về mặt dữ liệu. Do đó, nghiên cứu có những đóng góp quan trọng về mặt học thuật và thực tiễn.
Từ khóa: hành vi truyền miệng, chất lượng dịch vụ, tình cảm tích cực và tiêu cực, hài lòng.
ABSTRACT
This study aims at filling the gap in applying stimulus – organism – response to explain tourists’
word-of-mouth. Accordingly, service quality is hypothesized as a stimulus that generates not only
tourists’ cognitive but also affective responses. In turn, cognitive and affective responses will have
influence on tourists’ word-of-mouth. To test the hypotheses, partial least squares structural
equation modeling is applied on a sample of 460 domestic tourists. The results indicate that
construct measurements are reliable and valid. Furthermore, most of proposed hypotheses are
supported by data. Thus, this study has significant contributions in both academic and practical
perspectives.
Keywords: word-of-mouth, service quality, positive and negative affect, satisfaction.
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh dịch vụ, truyền miệng là
hình thức giao tiếp thân mật giữa những
người tiêu dùng về một sản phẩm hoặc dịch
vụ và được xem là có tác động mạnh mẽ đến
hành vi mua hàng của người tiêu dùng (Jeong
& Jang, 2011; Thompson, 2018). Trong bối
cảnh du lịch, truyền miệng là một trong
những nguồn thông tin tác động mạnh mẽ
đến hành vi và quyết định sử dụng dịch vụ
của du khách (Alves, 2016). Gần đây, với sự
phát triển của truyền thông xã hội, truyền
miệng càng có tác động sâu rộng tới suy
nghĩ, tình cảm và nhận thức của du khách
(Filieri & McLeay, 2014). Với vai trò quan
trọng ngày càng gia tăng của truyền miệng,
việc hiểu được hành vi truyền miệng, đặc
biệt là các tiền đề của hành vi này, là rất cần
thiết đối với nhà quản lý dịch vụ và người
phát triển chiến lược marketing.
Đặc trưng của dịch vụ du lịch là thường
mang đến cho du khách sự kích thích, mới lạ
(Alves, 2016), từ đó tác động đến cảm xúc
(tình cảm tích cực và tiêu cực) và đánh giá
(sự hài lòng) và các biến số này sẽ ảnh hưởng
đến hành vi người tiêu dùng (Bagozzi, 1999;
Erevelles, 1998). Vì vậy, mô hình kích thích
– cá thể – phản hồi (SOR; Mehrabian &
Russell, 1974) có thể được áp dụng để giải
thích một hành vi cụ thể du khách dưới tác
Nguyễn Hữu Khôi, Trường Đại học Nha Trang
Lê Nhật Hạnh, Trường Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
81
động của bối cảnh du lịch. Kết quả là, các
nghiên cứu trước đây sử dụng SOR để giải
thích hành vi người tiêu dùng dưới tác động
của các kích thích khác nhau đến hành vi
khách du lịch (Jang & Namkung, 2009;
Jiang, 2016; Lee, 2014; Loureiro, 2013; Siu,
2012). Vì vậy, SOR được kì vọng có thể giải
thích hành vi truyền miệng của du khách.
Tuy vậy, mô hình này hầu như không được
sử dụng để giải thích hành vi truyền miệng
của du khách. Vì vậy nghiên cứu này đóng
góp vào kiến thức chung bằng việc áp dụng
SOR nhằm giải thích quá trình du khách thực
hiện hành vi truyền miệng.
Các nghiên trong quá khứ thừa nhận rằng
tình cảm và nhận thức là hai thành phần quan
trọng bên trong mỗi cá nhân có tác động đến
hành vi người tiêu dùng (Bagozzi, 1999;
Erevelles, 1998). Đối với tình cảm, Watson
(1988) chia tình cảm của thành hai loại là
tình cảm tích cực và tình cảm tiêu cực. Đối
với nhận thức, Eusébio & Vieira (2013) cho
rằng sự hài lòng là thành phần quan trọng cần
đo lường và đánh giá trọng hoạt động đại lý
lữ hành. Vì vậy, kế thừa các nghiên cứu
trước đây, nghiên cứu này giả thuyết rằng
tình cảm (tích cực và tiêu cực) và hài lòng
đóng vai trò là những sự thay đổi bên trong
cá thể, tác động đến hành vi truyền miệng
của du khách. Việc xem xét cả tình cảm và
nhận thức là tiền đề của truyền miệng giúp
mang lại một bức tranh toàn diện hơn so với
những nghiên cứu chỉ quan tâm đến tình cảm
hoặc nhận thức (Berger & Schwartz, 2011).
Các học giả đều đồng thuận rằng chất
lượng dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong
bối cảnh dịch vụ nói chung (Brady &
Robertson, 2001; Parasuraman, 1988) và du
lịch nói riêng (González, 2007; Ruiqi &
Adrian, 2009). Hầu hết các nghiên cứu trước
đây cho rằng chất lượng dịch vụ là tác nhân
tác động đến hài lòng và từ đó, tác động đến
hành vi (Brady & Robertson, 2001;
González, 2007). Tuy nhiên, theo Berkowitz
(1993), khi một kích thích tác động cá thể thì
bên trong cá thể không chỉ nảy sinh phản ứng
thuộc về nhận thức (ví dụ, hài lòng) mà còn
phát sinh những phản ứng thuộc về tình cảm
(ví dụ, tích cực và tiêu cực). Vì vậy, nghiên
cứu này mở rộng các nghiên cứu trước đây
thông qua việc xem chất lượng dịch vụ là
kích thích tác động đến tình cảm (tích cực và
tiêu cực) và nhận thức (hài lòng).
Tựu trung lại, nghiên cứu này đóng góp
vào kiến thức chung theo hai khía cạnh. Thứ
nhất, nghiên cứu áp dụng mô hình SOR vào
việc giải thích hành vi truyền miệng của du
khách. Thứ hai, nghiên cứu này giả thuyết
chất lượng dịch vụ là tác nhân tác động đến
sự thay đổi bên trong du khách, không những
nhận thức mà còn tác động tới tình cảm và
cuối cùng, các biến số này tác động đến hành
vi truyền miệng.
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1. Mô hình kích thích – cá thể – phản hồi
Mô hình SOR (Mehrabian & Russell,
1974) được xây dựng dựa trên lý thuyết về
tâm lý học môi trường cho rằng các yếu tố
môi trường (S) tạo ra những thay đổi đến
những trạng thái tình cảm hay những đánh
giá bên trong mỗi cá thể (O), từ đó tác động
đến hành vi (R). Mô hình SOR được chứng
minh có thể giải thích tác động những phản
ứng tình cảm được tạo ra bởi những kích
thích môi trường đến hành vi con người
(Donovan & Rossiter, 1982; Mehrabian &
Russell, 1974).
Các nghiên cứu trong lĩnh vực dịch vụ
cũng xác nhận vai trò của mô hình SOR
trong việc dự báo và giải thích phản ứng của
khách du lịch đối với tác động của hình ảnh,
giọng nói và sự nổi tiếng (Rajaguru, 2013),
chất lượng dịch vụ nhà hàng (Jang &
Namkung, 2009), môi trường lễ hội (Lee,
2014). Trong lĩnh vực du lịch, SOR được sử
dụng để khám phá tác động tác động của
niềm vui, đồ ăn, sự thoải mái (Mason &
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
82
Paggiaro, 2012), môi trường/bầu không khí
lễ hội (Lee, 2014), chất lượng dịch vụ cảm
nhận (Jang & Namkung, 2009; Siu, 2012),
thành phần của môi trường (Loureiro, 2013),
hình ảnh điểm đến (Jiang, 2016) đến hành vi
khách du lịch thông qua tình cảm cá nhân.
Dù vậy, SOR lại hiếm khi được sử dụng để
nghiên cứu tình cảm và hành vi của khách du
lịch dưới tác động của chất lượng dịch vụ.
Áp dụng lý thuyết SOR vào trong bối
cảnh nghiên cứu, tác giả kì vọng rằng chất
lượng dịch vụ sẽ đóng vai trò tác nhân kích
thích tình cảm (tích cực và tiêu cực) (Brady
& Robertson, 2001; Westbrook & Oliver,
1991) và đánh giá (sự hài lòng) của du khách
(Baker & Crompton, 2000; González, 2007;
Hutchinson, 2009). Tiếp nữa, tình cảm và sự
hài lòng với vai trò là những thay đổi trong
cá thể sẽ có tác động đến hành vi (truyền
miệng) của du khách (Bagozzi, 1999;
Erevelles, 1998; Nyer, 1997).
2.2. Chất lượng dịch vụ, tình cảm và sự hài lòng
Theo mô hình SOR, kích thích là các tác
nhân bên ngoài cá nhân và bao gồm các
thành phần khác nhau của môi trường dịch
vụ (ví dụ, cơ sở vật chất) trong khi cá thể
hàm ý các cấu trúc và tiến trình bên trong cá
nhân, đóng vai trò cầu nối giữa kích thích
bên ngoài và phản hồi (Bagozzi, 1986). Phản
hồi là kết quả cuối cùng như sự hài lòng hay
hành vi truyền miệng (Hsu, 2011). Trong bối
cảnh dịch vụ du lịch, tác nhân là chất lượng
dịch vụ, vì biến số này tác động đến du khách
và hình thành các trạng thái tình cảm bên
trong họ (Ha & Im, 2012; Hsu, 2011; Jang &
Namkung, 2009; Kim & Lennon, 2013). Hơn
nữa, trạng thái tình cảm sẽ có tác động đến
phản hồi của du khách như sự hài lòng và
truyền miệng (Ha & Im, 2012; Hsu, 2011;
Jang & Namkung, 2009; Kim & Lennon,
2013). Như vậy, nghiên cứu này kì vọng rằng
cảm xúc du khách sẽ đóng vai trò cầu nối tác
động của chất lượng dịch vụ lên hài lòng và
hành vi truyền miệng.
Parasuraman (1988) định nghĩa chất
lượng dịch vụ là sự khác biệt giữa kì vọng và
cảm nhận thực tế khi sử dụng dịch vụ của
người tiêu dùng. Dựa trên định nghĩa này, họ
đã xây dựng thang đo SERVQUAL gồm năm
thành phần (tin cậy, nhiệt tình, đảm bảo, thấu
hiểu và vật chất) nhằm đo lường chất lượng
dịch vụ. Mặc dù có nhiều tranh luận liên
quan đến SERVQUAL (ví dụ, Cronin &
Taylor, 1992), đây là một trong những mô
hình phổ biến nhất dùng để đo lường chất
lượng dịch vụ nói chung (Seth, 2005) và đo
lường chất lượng dịch vụ đại lý lữ hành nói
riêng (Johns, 2004; Lam & Zhang, 1999;
Ruiqi & Adrian, 2009). Vì vậy, nghiên cứu
này sử dụng SERVQUAL để khám phá vai
trò của chất lượng dịch vụ trong việc giải
thích tình cảm và sự hài lòng của du khách.
Tình cảm hay cảm xúc tiêu dùng hàm ý
một tập các phản hồi cảm xúc sinh ra trong
suốt quá trình tiêu dùng (Westbrook &
Oliver, 1991) và có đặc trưng là các giai
đoạn cảm xúc mãnh liệt gắn liền với hành vi
phản hồi cụ thể (Bagozzi, 1999; Hosany &
Prayag, 2013). Theo Li (2014), một trong
những cách tiếp cận mô hình hóa tình cảm
của người tiêu dùng được sử dụng phổ biến
là thang đo PANAS (Watson, 1988). Theo
cách tiếp cận này, tình cảm của người tiêu
dùng gồm hai thành phần đối lập nhau là tích
cực và tiêu cực.
Westbrook & Oliver (1991) phát biểu
rằng chất lượng dịch vụ là tiền đề của các
đánh giá của người tiêu dùng. Các nghiên
cứu trước đây cho thấy các đặc điểm sản
phẩm và dịch vụ, dù hữu hình hay vô hình,
đều là tác nhân kích thích cảm xúc hay tình
cảm (tiêu cực hoặc tích cực) của người tiêu
dùng (ví dụ, Carroll & Ahuvia, 2006). Hơn
nữa, với đặc trưng là người tiêu dùng giao
tiếp trực tiếp với nhà cung cấp trong bối cảnh
dịch vụ, sự tin cậy và nhiệt tình của nhà cung
cấp dịch vụ cũng như sự nhiệt tình và thấu
hiểu của đội ngũ nhân viên chính là những
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
83
tác nhân tạo ra những cảm xúc và đánh giá
đối với dịch vụ (Brady & Robertson, 2001).
Vì vậy, nghiên cứu đưa ra giả thuyết sau:
H1a: Chất lượng dịch vụ tác động cùng
chiều đến tình cảm tích cực và H1b: ngược
chiều đến tình cảm tiêu cực
Oliver (1980) định nghĩa hài lòng là đánh
giá của người tiêu dùng liên quan đến khả
năng sản phẩm hay dịch vụ mang lại sự vui
vẻ khi đáp ứng mong muốn của họ. Định
nghĩa này gợi ý rằng chất lượng dịch vụ đáp
ứng được kì vọng của du khách sẽ hình thành
sự thỏa mãn bên trong họ. Một vài nghiên
cứu cho rằng chất lượng là tác nhân quan
trọng hình thành sự hài lòng của người tiêu
dùng (Orel & Kara, 2014). Tương tự, các
nghiên cứu trước đây các bối cảnh liên quan
đến du lịch như du lịch trên biển, dịch vụ nhà
hàng khẳng định rằng chất lượng dịch vụ tác
động đến sự hài lòng (Baker & Crompton,
2000; González, 2007; Hutchinson, 2009). Vì
vậy, nghiên cứu này giả thuyết:
H2: Chất lượng dịch vụ tác động cùng
chiều đến sự hài lòng của du khách
2.3. Tình cảm, sự hài lòng và hành vi
truyền miệng
Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng
người tiêu dùng thường đưa ra các đánh giá
(ví dụ, hài lòng) về đối tượng dựa trên những
cảm xúc xuất hiện vào lúc đánh giá (ví dụ,
Schwarz & Clore, 1983) và rằng tình cảm
xuất hiện trong quá trình tiêu dùng sẽ tác
động đến sự hài lòng (Mano & Oliver, 1993).
Brady & Robertson (2001) tìm ra rằng tình
cảm của người tiêu dùng có mối liên hệ chặt
chẽ với mức độ hài lòng, thậm chí mối liên
hệ này còn lớn hơn mối liên kết giữa các biến
số nhận thức và hài lòng. Tương tự, Liljander
& Strandvik (1997) thừa nhận rằng cảm xúc
tiêu dùng là một trong các biến số tác động
đến sự hài lòng. Trong bối cảnh dịch vụ,
Mattila & Enz (2002) cũng như Alford &
Sherrell (1996) chứng minh rằng biến số tình
cảm có tác động đến đánh giá tổng thể dịch
vụ cung cấp. Vì vậy, nghiên cứu này đưa ra
giả thuyết:
H3a: Tình cảm tích cực có tác động cùng
chiều trong khi H3b: tình cảm tiêu cực có tác
động ngược chiều đến sự hài lòng.
Vai trò của tình cảm trong marketing, đặc
biệt là tác động của biến số này đến hành vi
sau mua hàng (ví dụ, truyền miệng) đã được
thừa nhận trong các nghiên cứu trước đây
(Bagozzi, 1999; Erevelles, 1998). Westbrook
(1987) xác định rằng tình cảm tích cực và
tiêu cực có tác động đến hài lòng, than phiền
và truyền miệng. Tương tự, Nyer (1997) tìm
ra rằng các hoạt động sau tiêu dùng như
truyền miệng có thể được dự báo chính xác
nhất thông qua sự hài lòng và tình cảm. Dựa
trên các lập luận trên, nghiên cứu này đưa ra
giả thuyết:
H4a: Tình cảm tích cực có tác động cùng
chiều trong khi H4b: tình cảm tiêu cực có tác
động ngược chiều đến truyền miệng.
H5: Hài lòng có tác động cùng chiều đến
truyền miệng.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
Ghi chú: SQ: Chất lượng dịch vụ; SAT: Hài lòng;
PA: Tình cảm tích cực; NA: Tình cảm tiêu cực;
WOM: Hành vi truyền miệng.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
84
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thang đo lường
Thang đo lường sử dụng trong nghiên cứu
này được kế thừa từ các nghiên cứu trước
đây. Cụ thể, thang đo chất lượng dịch vụ
được kế thừa từ nghiên cứu của Parasuraman
(1988), thang đo tình cảm tích cực và tiêu
cực được kế thừa từ nghiên cứu của Watson
(1988). thang đo hài lòng và truyền miệng
được kế thừa từ nghiên cứu của Maxham &
Netemeyer (2002) (xem bảng 2).
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Bảng câu hỏi phỏng vấn được xây dựng
dựa trên các mục hỏi trên và được bổ sung
các thông tin về nhân khẩu học. Bảng câu hỏi
được xây dựng ban đầu bằng tiếng Anh và
được chuyển qua tiếng Việt. Công việc thu
mẫu được thực hiện bởi một công ty nghiên
cứu thị trường trên có văn phòng đại diện tại
thành phố Hồ Chí Minh. Việc thu thập mẫu
được tiến hành bởi các nhân với chi phí thu
mẫu là 20.000 VNĐ/bảng hỏi. Chi tiết bảng
câu hỏi được trình bày tại phụ lục 01 của
nghiên cứu.
Khách hàng của các đại lý lữ hành có uy
tín tại thành phố Hồ Chí Minh như Vietravel,
SaigonTourist, Fiditour, Benthanh Tourist,
Asia Lotus Travel được chọn làm đối tượng
khảo sát. Mẫu được thu thập thông qua khảo
sát tự quản lý. Dữ liệu được thu thập trong
khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10
năm 2016.
3.3. Quy trình phân tích
Các bước kiểm định trong nghiên cứu này
gồm kiểm định độ nhất quán nội tại, độ giá
trị hội tụ và độ giá trị phân biệt của thang đo.
Tiếp theo mô hình cấu trúc tuyến tính (PLS-
SEM) được sử dụng để kiểm định giả thuyết
nghiên cứu (Hair, 2016).
4. Kết quả phân tích
4.1. Độ tin cậy và độ giá trị
Kết quả kiểm định thang đo cho thấy các
thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha đều
> 0,7. Độ tin cậy tổng hợp của các thang đo
đều > 0,7 và phương sai trích đều lớn hơn
0,5. Do đó, các thang đo đề xuất đạt được độ
giá trị hội tụ (xem bảng 2).
Kết quả phân tích cho thấy giá trị nhỏ nhất
của căn bậc hai của AVE (0,71) lớn hơn giá trị
lớn nhất của tương quan giữa các cặp khái
niệm (0,60). Do đó, các cấu trúc khái niệm đạt
được độ giá trị phân biệt (xem bảng 3)
4.2. Kiểm định giả thuyết
Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy
chất lượng dịch vụ có tác động mạnh đến
tình cảm tích cực (ß = 0,62) và tình cảm tiêu
cực (ß = -0,47). Chất lượng dịch vụ cũng có
tác động có ý nghĩa đến hài lòng của du
khách (ß = 0,20). Bên cạnh đó, tình cảm tích
cực và tình cảm tiêu cực đều có tác động có ý
nghĩa đến hài lòng (ß lần lượt là 0,34 và -
0.18). Cuối cùng, các biến số tình cảm tích
cực (ß = 0,32) và hài lòng (ß = 0,25) có tác
động có ý nghĩa đến truyền miệng trong khi
tác động của tình cảm tiêu cực đến biến số
này không được ủng hộ về mặt dữ liệu. Kết
quả phân tích cũng cho thấy mô hình nghiên
cứu giải thích được 39% biến thiên của tình
cảm tích cực, 22% biến thiên tình cảm tiêu
cực, 37% biến thiên của sự hài lòng và 29%
biến thiên của hành vi truyền miệng.
Hệ số VIF đều < 3 cho thấy kết quả kiểm
định đáng tin cậy. Hơn nữa, chỉ số R2 và Q2
trong Bảng 4 cho thấy mô hình cấu trúc có
chất lượng tốt. Các hệ số đường dẫn có ý
nghĩa với p = 5% và kiểm định bootstrap cho
thấy các hệ số này đều khác 0 (xem bảng 4).
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
85
5. Kết luận và đề xuất
5.1. Kết luận
Nghiên cứu này nhằm áp dụng mô hình
SOR vào việc giải thích vai trò của chất
lượng dịch vụ đại lý lữ hành trong việc hình
thành tình cảm và đánh giá của du khách, từ
đó tác động đến hành vi của truyền miệng du
khách. Các mối quan hệ giữa các biến số
được thể hiện thông qua tám giả thuyết
nghiên cứu. Để kiểm định các giả thuyết,
nghiên cứu này sử dụng mô hình cấu trúc
(PLS-SEM) trên một mẫu gồm 400 du khách
nội địa tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả
phân tích cho thấy bảy trên tám giả thuyết
được ủng hộ bởi dữ liệu, xác nhận các mối
quan hệ giữa các biến số quan trọng này
trong bối cảnh dịch vụ du lịch. Do đó, nghiên
cứu này có một số hàm ý quan trọng cả về
mặt lý thuyết cho các học giả và thực tiễn
cho các đại lý lữ hành.
5.2. Hàm ý lý thuyết
Trước tiên, kết quả nghiên cứu cho thấy
mô hình chất lượng dịch vụ SERVQUAL
(Parasuraman, 1988) gồm năm thành phần có
thể được áp dụng để đo lường chất lượng
dịch vụ đại lý lữ hành. Mặc dù mô hình này
bị nhiều học giả phê phán vì những khuyết
điểm liên quan đến vấn đề học thuật và thực
nghiệm (Cronin & Taylor, 1992), đây là một
trong những mô hình phổ biến nhất (Seth,
2005) trong việc đo lường chất lượng dịch vụ
đại lý lữ hành (Johns, 2004; Lam & Zhang,
1999; Ruiqi & Adrian, 2009). Do đó, kết quả
nghiên cứu này một lần nữa khẳng định vai
trò quan trọng của SERVQUAL đối với việc
lượng hóa chất lượng dịch vụ mà đại lý lữ
hành cung cấp.
Thứ hai, nghiên cứu khẳng định vai trò
quan trọng của chất lượng dịch vụ đối với
tình cảm và đánh giá của người tiêu dùng.
Theo đó, chất lượng dịch vụ càng cao sẽ gia
tăng tình cảm tích cực, hạn chế tình cảm tiêu
cực cũng như cải thiện mức độ hài lòng của
người tiêu dùng. Kết quả cho thấy sự tương
đồng với các nghiên cứu trước đây trong bối
cảnh dịch vụ nói chung (Brady & Robertson,
2001; Westbrook & Oliver, 1991). Tuy
nhiên, trong khi mối quan hệ giữa chất lượng
dịch vụ và hài lòng được xem xét trong nhiều
nghiên cứu trước đây (Brady & Robertson,
2001; González, 2007; Hutchinson, 2009),
mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và tình
cảm hiếm khi được nghiên cứu (Jang &
Namkung, 2009), đặc biệt là chất lượng dịch
vụ của đại lý lữ hành. Do đó, nghiên cứu
đóng góp vào kiến thức chung thông qua việc
khẳng định mối tương quan mạnh mẽ giữa
hai biến số trên.
Thứ ba, các nghiên cứu trước đây cho
thấy rằng tình cảm và nhận thức có vai trò
quan trọng đối với tiến trình ra quyết định
của người tiêu dùng (Bagozzi, 1999;
Erevelles, 1998). Do đó, tác động của biến số
cảm xúc và hài lòng đến hành vi truyền
miệng của du khách thể hiện sự phù hợp với
các nghiên cứu trong quá khứ. Hơn nữa, các
nghiên cứu cũng cho rằng tình cảm có tác
động mạnh mẽ đến hành vi hơn là nhận thức
(Bagozzi, 1999; Berkowitz, 1993). Kết quả
này được khẳng định khi tác động của tình
cảm tích cực đến truyền miệng lớn hơn từ hài
lòng đến truyền miệng. Đáng quan tâm, tình
cảm tiêu cực không có tác động trực tiếp đến
truyền miệng, cho thấy khả năng tình cảm
tích cực sẽ dự báo tốt hơn hành vi người tiêu
dùng so với tình cảm tiêu cực trong lĩnh vực
dịch vụ. Điều này cũng có thể được giải thích
là do người tiêu dùng thường né tránh việc đề
cập đến tình cảm tiêu cực khi sử dụng dịch
vụ (Jang & Namkung, 2009). Vì vậy, các nhà
nghiên cứu cần tập trung làm rõ mối quan hệ
của chất lượng dịch vụ trong việc hình thành
tình cảm tiêu cực và hành vi người tiêu dùng.
Cuối cùng, mô hình SOR được áp dụng
trong nghiên cứu này có thể giải thích tốt mối
quan hệ giữa chất lượng dịch vụ, tình cảm và
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
86
hài lòng và hành vi truyền miệng của du
khách. Vì vậy, đây có thể xem là một nền
tảng ký thuyết vững chắc trong việc giải
thích mối quan hệ giữa các tác nhân kích
thích, cảm xúc và hành vi của người tiêu
dùng trong các bối cảnh dịch vụ khác nhau
(Jang & Namkung, 2009; Jiang, 2016; Lee,
2014; Loureiro, 2013; Mason & Paggiaro,
2012; Siu, 2012).
5.3. Hàm ý quản trị
Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng
dịch vụ có vai trò quan trọng trong việc hành
thành cảm xúc và đánh giá của người tiêu
dùng, từ đó tác động đến hành vi truyền miệng
của người họ. Nói cách khác, khi chất lượng
dịch vụ tốt, họ sẽ có tình cảm tích cực, từ đó
dẫn đến hài lòng và sẽ truyền miệng tốt cho
đại lý lữ hành. Ngược lại, khi chất lượng dịch
vụ không đủ tốt, tình cảm tiêu cực sẽ hình
thành, từ đó làm giảm sự hài lòng và truyền
miệng tích cực. Do đó, các nhà quản lý cần
quan tâm tới xây dựng và cũng cố chất lượng
dịch vụ đáp ứng được các tiêu chuẩn theo yêu
cầu của du khách. Hơn nữa, để có chất lượng
dịch vụ tổng thể tốt, nhà quản lý cần lưu ý đến
cả năm thành phần gồm tin cậy, nhiệt tình,
đảm bảo, thấu hiểu và vật chất hữu hình, các
thành phần cấu thành chất lượng dịch vụ theo
mô hình SERVQUAL. Rõ ràng, chất lượng
dịch vụ sẽ bị suy giảm khi một trong các thành
phần không đạt yêu cầu.
Một khía cạnh quản trị đáng quan tâm là
tình cảm tích cực dường như đóng vai trò
trung gian giữa chất lượng dịch vụ và hành vi
truyền miệng. Do đó, cải thiện chất lượng
dịch vụ là hoạt động có vai trò cốt yếu. Bên
cạnh đó, mặc dù tình cảm tiêu cực không có
tác động trực tiếp đến truyền miệng, biến số
này có tác động đến hài lòng và do đó sẽ ảnh
hưởng đến hành vi truyền miệng. Từ kết quả
này, nghiên cứu đưa ra khuyến nghị các nhà
quản lý không chỉ quan tâm đến tình cảm tích
cực mà cần có chính sách quan trị chất lượng
nhằm hạn chế tình cảm tiêu cực của du
khách. Hơn nữa, tình cảm tiêu cực có thể
không thể phát hiện thông qua những nghiên
cứu thực nghiệm (Jang & Namkung, 2009),
các nghiên cứu trong tương lai cần tập trung
vào tình cảm tiêu cực và mối liên hệ giữa
biến số này và chất lượng cũng như hành vi
của người tiêu dùng.
Dù rằng tác động của hài lòng không
mạnh như tác động của tình cảm tích cực đến
hành vi truyền miệng của du khách, đây cũng
là biến số mà các nhà quản lý cần quan tâm
trong bối cảnh dịch vụ. Lý do là vì bên cạnh
việc tác động đến truyền miệng, hài lòng còn
tác động đến hành vi sau mua hàng như trung
thành, mua hàng lặp lại (Baker & Crompton,
2000; Orel & Kara, 2014). Cũng như tình
cảm, hài lòng chịu tác động của chất lượng
dịch vụ, và do đó kết quả một lần nữa khẳng
định tính chất quan trọng của việc nâng cao
chất lượng trong hoạt động của đại lý lữ
hành. Theo đó, chất lượng dịch vụ cần được
đánh giá định kì và những gì làm du khách
than phiền và bất mãn cần được giải quyết
kịp thời.
Bảng 1: Đặc điểm mẫu thu thập
Đặc điểm Số lượng Phần
trăm (%)
Giới tính
Nam 220 47,8
Nữ 240 52,2
Tuổi
15 – 29 367 79,8
30 - 44 79 17,2
45 – 59 12 2,6
>= 60 2 0,4
Nghề nghiệp
Học sinh, sinh viên 42 9,1
Nhân viên văn phòng 345 75,0
Nội trợ 8 1,7
Công nhân 10 2,2
Giáo viên 14 3,0
Doanh nhân 12 2,6
Bác sĩ 7 1,5
Khác 22 4,8
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
87
Bảng 2: Thang đo, độ tin cậy và độ giá trị
Cấu trúc khái niệm và mục hỏi
Hệ số tải
nhân tố
Cronbach’s
Alpha
CR AVE
Vật chất hữu hình (TAN)
Đại lý lữ hành có
0,81 0,88 0,64
... thiết bị hiện đại. 0,80
... phòng ốc trang trí bắt mắt. 0,75
... nhân viên mặc đồ gọn gàng, lịch sự 0,87
... trang thiết bị phù hợp. 0,79
Sự tin cậy (REL)
Đại lý lữ hành
0,82 0,87 0,58
... giữ lời hứa. 0,74
... cảm thông và động viên du khách. 0,77
... có thể tin tưởng được. 0,81
... cung cấp dịch vụ như lời hứa 0,81
... ghi nhận chính xác thông tin. 0,68
Sự nhiệt tình (RES)
Đại lý lữ hành ...
0,86 0,90 0,70
thông tin chính xác về dịch vụ 0,77
cho nhân viên nhắc nhở về dịch vụ 0,87
cho nhân viên giúp đỡ du khách 0,90
phản hồi nhanh chóng với yêu cầu của du
khách 0,82
Sự đảm bảo (ASR) 0,77 0,85 0,59
Tôi tin tưởng đại lý lữ hành. 0,72
Tôi thấy an toàn khi giao dịch với đại lý lữ
hành này 0,74
Nhân viên lịch sự 0,85
Nhân viên được hỗ trợ đầy đủ để làm việc. 0,77
Sự thấu hiểu (EMP)
Đại lý lữ hành ...
0,81 0,87 0,57
quan tâm đến từng du khách. 0,72
yêu cầu nhân viên quan tâm đến từng du
khách. 0,78
hiểu rõ về kì vọng của du khách. 0,81
quan tâm chân thành đến du khách. 0,80
có thể liên hệ bất kì lúc nào 0,67
Tình cảm tích cực (PA) 0,91 0,92 0,55
Say mê 0,71
Quan tâm 0,71
Được thúc đẩy 0,77
Hào hứng 0,77
Truyền cảm hứng 0,73
Chủ động 0,73
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
88
Tích cực 0,77
Mạnh mẽ 0,74
Tự hào 0,76
Lưu tâm 0,70
Tình cảm tiêu cực (NA) 0,89 0,91 0,50
Hoảng sợ 0,73
Sợ hãi 0,78
Bực tức 0,77
Mệt mỏi 0,80
Bồn chồn 0,64
Căng thẳng 0,69
Xấu hổ 0,71
Sai trái 0,69
Cáu kỉnh 0,63
Chán ghét 0,63
Hài lòng (SAT) 0,83 0,90 0,74
Tôi hài lòng với trải nghiệm cùng với đại lý lữ
hành
0,86
Một cách tổng thể, tôi thỏa mãn với đại lý lữ
hành
0,89
Cho biết mức độ hài lòng của bạn với đại lý lữ
hành
0,83
Hành vi truyền miệng (WOM) 0,82 0,92 0,85
Cho biết ý định nói tích cực về đại lý lữ hành
cho bạn bè
0,93
Tôi sẽ khuyến nghị bạn bè giao dịch với đại lý
lữ hành này
0,91
Cấu trúc bậc hai
Chất lượng dịch vụ (SQ) 0,77 0,85 0,52
Bảng 3: Tương quan giữa các cấu trúc khái niệm
TB S.D 1 2 3 4 5 6 7 8 9
01.TAN 5,21 0,96 0,80
02.REL 4,93 0,87 0,52 0,76
03.RES 5,29 1,07 0,31 0,25 0,84
04.ASR 5,14 0,84 0,38 0,31 0,32 0,77
05.EMP 4,85 0,82 0,46 0,49 0,50 0,48 0,76
06.PA 4,70 0,80 0,37 0,44 0,39 0,43 0,60 0,74
07.NA 2,92 0,91 -0,30 -0,29 -0,28 -0,33 -0,46 -0,60 0,71
08.SAT 4,55 1,03 0,37 0,41 0,23 0,27 0,45 0,57 -0,47 0,86
09.WOM 5,02 0,94 0,28 0,38 0,20 0,35 0,38 0,49 -0,36 0,46 0,92
Ghi chú: TB: trung bình; S.D: Độ lệch chuẩn; căn bậc hai của AVE nằm trên đường chéo chính
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
89
Bảng 4: Kết quả kiểm định mô hình
Giả thuyết
Mô hình nghiên cứu
VIF Kết luận
Std. ß t–value Bootstrap
SQ PA H1a 0,62 16,59 *** [0,54; 0,69] 1,00 Ủng hộ
SQ NA H1b -0,47 11,00 *** [-0,54; -0,37] 1,00 Ủng hộ
SQ SAT H2 0,20 3,67 *** [0,08; 0,29] 1,67 Ủng hộ
PA SAT H3a 0,34 5,82 *** [0,22; 0,45] 2,05 Ủng hộ
NA SAT H3b -0,18 2,97 ** [-0,29; -0,06] 1,60 Ủng hộ
PA WOM H4a 0,32 5,00 *** [0,20; 0,45] 1,87 Ủng hộ
NA WOM H4b -0,05 0,83 ns [-0,15; 0,07] 1,63 Không ủng hộ
SAT WOM H5 0,25 4,89 *** [0,16; 0,36] 1,54 Ủng hộ
R2 R2PA = 0,39; R2NA = 0,22, R2SAT = 0,37; R2WOM = 0,29
Độ lớn tác động
(f2)
f2SQ PA = 0,63; f2SQ NA = 0,27;
f2SQ SAT = 0,04; f2PA SAT = 0,09;
f2NA SAT = 0,03; f2PA WOM = 0,08
f2SAT WOM = 0,06
Mức độ thích hợp
của dự báo (Q2)
Q2PA = 0,20; Q2NA = 0,09; Q2SAT = 0,26; Q2WOM = 0,23
Ghi chú: *** p < 0,001; ** p < 0,01; * p < 0,05
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alford, B. L., Sherrell, D. L., (1996), The role of affect in consumer satisfaction judgments
of credence-based services. Journal of Business Research, 37 (1), 71-84
Alves, S., Abrantes, J. L., Antunes, M. J., Seabra, C., Herstein, R., (2016), WOM
antecedents in backpacker travelers. Journal of Business Research, 69 (5), 1851-1856
Bagozzi, R. P., Principles of marketing management (Science Research Associates,
Chicago, IL, 1986).
Bagozzi, R. P., Gopinath, M., Nyer, P. U., (1999), The role of emotions in marketing.
Journal of the Academy of Marketing Science, 27 (2), 184-206
Baker, D. A., Crompton, J. L., (2000), Quality, satisfaction and behavioral intentions.
Annals of Tourism Research, 27 (3), 785-804
Berger, J., Schwartz, E. M., (2011), What drives immediate and ongoing word of mouth?
Journal of Marketing Research, 48 (5), 869-880
Berkowitz, L., in Advances in social cognition, Vol. 6. Perspectives on anger and emotion,
R. S. Wyer, T. K. Srull, Eds. (Lawrence Erlbaum Associates., Hillsdale, NJ, 1993), vol.
6, pp. 1-46.
Brady, M. K., Robertson, C. J., (2001), Searching for a consensus on the antecedent role of
service quality and satisfaction: an exploratory cross-national study. Journal of
Business Research, 51 (1), 53-60
Carroll, B. A., Ahuvia, A. C., (2006), Some antecedents and outcomes of brand love.
Marketing Letters, 17 (2), 79-89
Cronin, J. J., Taylor, S. A., (1992), Measuring service quality: a reexamination and
extension. Journal of Marketing, 56 (3), 55-68
Donovan, R., Rossiter, J., (1982), Store atmosphere: an environmental psychology
approach. Journal of Retailing, 58 (1), 34-57
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hanh_vi_truyen_mieng_cua_du_khach_vai_tro_cua_chat_luong_dic.pdf