Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan
tiến hành tố tụng với các cơ quan chuyên môn
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm tham ô tài sản cho thấy, sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng và cơ quan chuyên môn là điều kiện
tiên quyết bảo đảm chất lượng và hiệu quả
của công tác này. Vì vậy, để tăng cường hơn
nữa sự phối hợp giữa các cơ quan nói trên
trong phòng, chống tội phạm tham ô tài sản
cần thực hiện các giải pháp:
- Liên ngành các cơ quan tố tụng trung
ương cần thiết lập cơ chế phối hợp trong việc
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các
vụ án tham ô tài sản, tạo cơ sở cần thiết để
liên ngành tố tụng địa phương thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc
phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản.
- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan tố tụng với các cơ quan chuyên môn
trong việc thu thập các tài liệu, chứng cứ cấn
thiết, cũng như đưa ra các kết luận đối với
từng lĩnh vực chuyên môn, nhằm đảm bảo
việc xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra
người có hành vi tham ô tài sản được kịp
thời, chính xác, hiệu quả.
- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan tố tụng với các cơ quan giám định tư
pháp trong một số lĩnh vực cần thiết như tài
chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đấu giá,
đấu thầu nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính
xác của kết luận giám định
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản: Thực trạng và giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT HIỆN, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ, BẤT CẬP
Tóm tắt:
Thực tiễn hoạt động phòng, chống tội phạm tham ô tài sản cho
thấy, những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản là một trong những yếu tố
góp phần làm phát sinh, gia tăng số vụ và số người phạm tội tham
ô tài sản trên thực tế. Chính vì vậy, việc chỉ ra những tồn tại, hạn
chế trong hoạt động phát hiện, xử lý tội tham ô tài sản là cơ sở cần
thiết để các chủ thể phòng ngừa tội phạm đưa ra được những giải
pháp căn cơ, hiệu quả, góp phần làm giảm đáng kể tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
* ThS. Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Nguyễn Thị Hương*
Abstract
Prevention, fighting of the corruption related crimes in practice
show a number of shortcomings, limitations in recognizing,
prosecuting, investigating, prosecuting and adjudicating corruption
cases. These shortcoming can be seen as crucial causes leading
to the large number of of corruption cases and the number of
offenders of actual embezzlement of property. Therefore, pointing
out the shortcomings and limitations in recognization and handling
of corruption crimes is a necessary ground for crime prevention
subjects to come up with basic and effective solutions, which might
provide contribution to significant reduction of the corruption
crimes in Vietnam in the coming time.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tham nhũng, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, tội tham ô tài sản
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/10/2018
Biên tập : 07/12/2018
Duyệt bài : 09/01/2019
Article Infomation:
Keywords: prosecution, investigation,
prosecution, trial; act of embezzlement
of property
Article History:
Received : 30 Oct. 2018
Edited : 07 Dec. 2018
Approved : 09 Jan. 2019
Phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản là những hoạt động cơ bản nhằm
kịp thời xử lý người có hành vi phạm tội, thu
hồi tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, đảm
bảo hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị kinh tế nhà nước. Đây là các
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước,
không chỉ trực tiếp chống lại những người
thực hiện hành vi tham ô tài sản, mà còn
có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với các
thành viên khác trong xã hội. Chính vì vậy,
khi các hoạt động này được thực hiện chất
lượng, hiệu quả, đáp ứng được những yêu
cầu thực tiễn đặt ra, sẽ góp phần tạo thêm
một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu
quả phòng ngừa đối với loại tội phạm này.
Ngược lại, khi hoạt động phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội tham
ô tài sản còn có những tồn tại, hạn chế nhất
định thì không chỉ là lực cản làm giảm hiệu
quả của hoạt động phòng ngừa đối với loại
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 5(381) T3/2019
tội này, mà ở mức độ nhất định nó còn là
yếu tố tiêu cực có vai trò làm phát sinh, gia
tăng tội tham ô tài sản. Thực tế hoạt động
phòng, chống tội tham ô tài sản ở nước ta
trong những năm vừa qua cho thấy, một số
tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài
sản đã góp phần làm phát sinh, gia tăng loại
tội phạm này.
1. Những bất cập, hạn chế trong việc phát
hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản
Thứ nhất, việc phát hiện các vụ án
tham ô tài sản còn chưa kịp thời
Trong hoạt động phòng, chống tội
tham ô tài sản, phát hiện kịp thời hành vi
tham ô tài sản của người có chức vụ quyền
hạn là việc làm có ý nghĩa quyết định đối
với việc ngăn chặn tội phạm. Bởi lẽ, thực
tiễn tố tụng các vụ án tham ô tài sản cho
thấy: trong hầu hết các vụ án tham ô tài sản,
các bị can, bị cáo đều nhiều lần thực hiện
hành vi phạm tội, có không ít vụ án kéo dài
trong nhiều năm với số tiền chiếm đoạt là
đặc biệt lớn mới bị phát hiện, xử lý. Trên cơ
sở nghiên cứu 585 bản án hình sự xét xử sơ
thẩm các vụ án tham ô tài sản trong khoảng
thời gian từ năm 2008 - 2017, thời gian phát
hiện các vụ án tham ô tài sản được xác định
ở các mức như sau: 6 tháng kể từ khi xảy ra
tội phạm: 58 vụ, chiếm 10%; 12 tháng kể từ
khi xảy ra tội phạm: 97 vụ, chiếm 16,5%;
24 tháng kể từ khi xảy ra tội phạm: 125
vụ, chiếm 21,3%; 36 tháng kể từ khi xảy
ra tội phạm: 196 vụ, chiếm 33,5%; trên 36
tháng kể từ khi xảy tội phạm: 109 vụ, chiếm
18,7%1. Từ các tỷ trọng này cho thấy, không
có vụ án nào được phát hiện ngay sau khi tội
phạm xảy ra; hầu hết các vụ án tham ô tài
sản thường được thực hiện trong một thời
gian dài, hoặc đã thực hiện nhưng sau một
thời gian dài mới bị phát hiện.
Việc phát hiện các vụ án tham ô tài sản
chưa kịp thời là do sự tác động của nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu
là do những hạn chế, bất cập của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng. Cụ thể như sau:
1 Nguồn: Từ 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản.
- Quy định về công khai, minh bạch
tài sản mang tính liệt kê, thiếu tính bao quát
cả về phạm vi, đối tượng dẫn đến tình trạng,
một số chủ thể cần phải công khai, minh
bạch tài sản nhưng lại không thực hiện nên
không kịp thời phát hiện được sự biến động
bất thường về tài sản;
- Quy định về xử lý trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra tham ô trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị mình còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa
khuyến khích được tính chủ động của người
đứng đầu trong việc phát hiện, phòng ngừa
tham ô tài sản;
- Quy định về cơ chế phát hiện tham
ô tài sản thông qua các hoạt động chính như
kiểm tra, thanh tra nhà nước, kiểm toán nhà
nước và giám sát chưa phù hợp, chưa phát
huy được vai trò, chức năng của mỗi cơ
quan trong việc kịp thời phát hiện các vụ án
tham ô tài sản;
- Quy định về tố cáo và giải quyết tố
cáo còn chưa đầy đủ, chưa có cơ chế để phát
huy được sự tham gia của người dân trong
việc phát hiện hành vi tham ô tài sản của
người có chức vụ, quyền hạn.
Thứ hai, tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị
can còn thấp so với số lượng tin báo, tố giác
tội phạm, kiến nghị khởi tố
Theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự, tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị
khởi tố là một trong những căn cứ để xem
xét việc khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can về tội tham ô tài
sản là kết quả của việc giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố không
chỉ phản ánh độ chính xác của các căn cứ
khởi tố, mà còn là yếu tố trực tiếp tác động
đến mức độ ẩn của loại tội phạm này. Thực
tiễn hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm, kiến nghị khởi tố và khởi tố vụ án,
khởi tố bị can về tội tham ô tài sản trong
những năm qua cho thấy, trong khoảng thời
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 5(381) T3/2019
gian 10 năm từ năm 2008 đến năm 2017, số
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố
phải giải quyết là 4.505 việc/ 8.276 người;
trong khi đó số vụ án, số bị can khởi tố trong
cùng thời điểm là 2.796 vụ, chiếm 62% và
5.030 bị can, chiếm 60,7%2 so với số việc và
số người bị tố giác, kiến nghị khởi tố. Con
số trên cho thấy có sự chênh lệch đáng kể
kể giữa tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị can về
tội tham ô tài sản so với số lượng tin báo, tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố. Điều này
có thể dẫn đến nguy cơ bỏ lọt người có hành
vi tham ô tài sản, gây những tác động tiêu
cực đến hiệu quả phòng, chống loại tội này
ở nước ta hiện nay.
Tình trạng này diễn ra bởi các nguyên
nhân sau:
- Do chủ thể của tội phạm là người có
chức vụ, quyền hạn, việc thực hiện hành vi
tham ô tài sản thường liên quan đến nhiều
người, nhiều bộ phận, khâu hoạt động khác
nhau và thường được che đậy bằng những
thủ đoạn hết sức tinh vi, khó phát hiện.
- Để xác minh được một tin báo, tố
giác hoặc kiến nghị khởi tố có đủ căn cứ để
khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội tham ô
tài sản hay không, cơ quan tiến hành tố tụng
phải có một khoảng thời gian cần thiết để
xác minh làm rõ.
- Việc tiến hành xác minh tin báo, tố
giác, kiến nghị khởi tố đòi hỏi phải có sự
phối hợp của các cơ quan chuyên môn ở các
lĩnh vực khác nhau, hoặc sự hỗ trợ của các
trang, thiết bị hiện đại. Trong khi đó điều
kiện thực tế về thiết bị, phương tiện kỹ thuật
hỗ trợ cho hoạt động này còn hạn chế;
- Quan hệ phối hợp giữa cơ quan tố
tụng với các cơ quan chuyên môn còn mang
tính tự phát, chưa được điều chỉnh bởi những
quy định của pháp luật nên cơ quan tố tụng
2 Báo cáo tổng kết công tác năm của ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2008 đến năm 2017, trang 6. Nguồn: Cục Thống
kê tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3 Chẳng hạn như vụ án Đặng Ngọc Thành và đồng phạm tham ô tài sản tại Tổng công ty Xây dựng Miền Trung, vụ án
được khởi tố năm 2008, sau nhiều lần điều tra bổ sung, hủy án để điều tra lại đến năm 2016 vụ án mới được đưa ra xét
xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
còn có phần bị động.
Thứ ba, việc giải quyết vụ án còn kéo
dài do quan điểm của các cơ quan tố tụng
không thống nhất trong việc xác định tội
danh, hoặc phải chờ kết quả giám định tư
pháp, hoặc do việc thu thập chứng cứ còn
gặp nhiều khó khăn
Tiến độ giải quyết các vụ án tham ô tài
sản là một trong những yếu tố tác động trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động chống tội phạm
và tác dụng răn đe phòng ngừa đối với các
thành viên khác trong xã hội. Thực tiễn hoạt
động chống tội tham ô tài sản trong những
năm qua cho thấy, việc điều tra, truy tố, xét
xử hầu hết các vụ án tham ô tài sản còn kéo
dài trong nhiều năm, không chỉ làm mất đi
tính kịp thời của yêu cầu phòng, chống tội
phạm, mà còn tạo ra sự hoài nghi của dư
luận xã hội và các tầng lớp nhân dân đối với
các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Việc
giải quyết các vụ án tham ô tài sản kéo dài
là do sự tác động của nhiều yếu tố; trong đó,
một số yếu tố có tính phổ biến là:
- Sự thiếu thống nhất trong việc xác
định tội danh giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng dẫn đến phải kéo dài thời gian giải
quyết vụ án. Đó là việc không chứng minh
hoặc chưa đủ cơ sở để chứng minh dấu hiệu
người có chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài
sản mà họ được giao quản lý, nên đã dẫn đến
tình trạng tranh chấp giữa tội tham ô tài sản
và cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Đây là một trong lý do của việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ
án trong nhiều năm3.
Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, trong thời gian 10 năm từ năm
2008 đến năm 2017, số vụ án tham ô tài sản
phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung do việc
xác định tội danh chưa đảm bảo căn cứ vững
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 5(381) T3/2019
chắc là 453 vụ/801 bị can, trong đó Viện
kiểm sát trả là 258 vụ/496 bị can, chiếm 9%
về số vụ và 9,8% số bị can so với số vụ án
và số bị can Cơ quan điều tra đề nghị Viện
kiểm sát truy tố; Tòa án trả là 195 vụ/305 bị
can, chiếm 7,6% về số vụ và 6,4% số bị can
mà Viện kiểm sát đã truy tố; trong đó không
ít vụ án phải sử dụng hết số lần trả hồ sơ điều
tra bổ sung theo luật định4. Thực trạng này
cho thấy, việc xác định tội danh và thu thập
chứng cứ vững chắc đảm bảo việc xác định
chính xác tội danh là một trong những vấn
đề phức tạp, khó thống nhất trong quá trình
giải quyết các vụ án tham ô tài sản, là một
trong những nguyên nhân làm kéo dài thời
gian giải quyết vụ án, tạo ra những tác động
thiếu phần tích cực đến hiệu quả hoạt động
chống, phòng ngừa loại tội phạm này, cũng
như những phản ánh mang tính tiêu cực đối
với dư luận xã hội.
- Cho đến thời điểm hiện nay, đối với
không ít vụ án tham ô tài sản, việc giám định
tư pháp còn gặp những khó khăn nhất định
như thời gian chờ kết quả giám định kéo
dài, có những nội dung giám định phải được
thực hiện bởi nhiều cơ quan chuyên môn,
kết luận giám định về cùng nội dung giữa
các cơ quan giám định không có sự thống
nhất dẫn đến việc phải giám định lại, hoặc
giám định bổ sung. Thực tế hoạt động giám
định tư pháp trong tố tụng hình sự cho thấy,
các vấn đề cần giám định trong các vụ án
tham ô tài sản có tính chất phức tạp, nhiều
nội dung mới phát sinh, trong khi điều kiện
kỹ thuật, công nghệ phục vụ cho hoạt động
giám định còn hạn chế, chưa đáp ứng được
hết những yêu cầu của thực tiễn, có những
vụ án phải trưng cầu giám định nhiều nội
dung mới có cơ sở để làm rõ hành vi tham ô.
- Thực tiễn hoạt động giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi
tố, điều tra các vụ án tham ô tài sản cho thấy,
việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các
hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức
vụ, quyền hạn thường gặp nhiều khó khăn do
4 Báo cáo công tác năm của ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2008 đến năm 2017, trang 8, tlđd.
5 Nguồn: Từ 585 Bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản.
đã bị tiêu hủy, che giấu, hoặc hợp thức hóa
bằng các thủ tục thanh, quyết toán. Việc đấu
tranh khai thác thông tin từ các đối tượng liên
quan đến hành vi tham ô thường mất nhiều
thời gian, trí tuệ do hành vi phạm tội thường
được thực hiện theo một vòng tròn kép kín
để bảo vệ, che giấu cho nhau nên không có
tinh thần hợp tác với cơ quan điều tra. Các
thủ đoạn phạm tội thường được thực hiện tinh
vi thông qua việc sử dụng các chứng từ giả
để thanh, quyết toán hoặc sử dụng công nghệ
hiện đại để tất toán các khoản tiền bị chiếm
đoạt. Đây là những trở ngại ảnh hưởng trực
tiếp đến tiến độ điều tra vụ án, làm cho thời
gian giải quyết vụ án bị kéo dài hơn nhiều so
với thời hạn luật định.
Thứ tư, việc thu hồi tài sản tham ô còn
nhiều bất cập, hiệu quả thấp, chưa thực sự
có tác dụng đối với việc phòng ngừa loại tội
phạm này trên thực tế
Thực tiễn quá trình giải quyết các vụ
án tham ô tài sản trong những năm qua cho
thấy, việc thu hồi tài sản còn rất hạn chế,
số tài sản thu hồi được chỉ chiếm tỷ lệ rất
nhỏ về số vụ án và lượng tài sản chiếm đoạt.
Đối với những vụ án có thu hồi được tài
sản tham ô, thì số lượng tài sản thu được
chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với số tài sản
bị chiếm đoạt trong vụ án, trong khi yêu
cầu của chống, phòng ngừa tham nhũng nói
chung và tham ô tài sản nói riêng là phải làm
triệt để việc thu hồi tài sản. Trên cơ sở thống
kê từ 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các
bị cáo về tội tham ô tài sản cho thấy, trong số
585 vụ án tham ô tài sản thì có 115 vụ án thu
hồi được tài sản tham ô, trong đó có 87 vụ
án thu hồi được toàn bộ tài sản tham ô (giá
trị tài sản bị chiếm đoạt là đến 1 tỷ đồng), 28
vụ thu hồi được một phần tài sản tham ô (giá
trị tài sản bị chiếm đoạt là đến 50 tỷ đồng)5.
Việc thu hồi tài sản tham ô thấp do
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
cơ bản là việc điều tra các vụ án tham ô rất
phức tạp và khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều
thời gian để tổ chức, xác minh, thu thập
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 5(381) T3/2019
chứng cứ, giám định và các hoạt động tố
tụng cần thiết khác. Nhiều trường hợp hành
vi phạm tội xảy ra trong thời gian dài mới bị
phát hiện, đối tượng đã cất giấu, tẩu tán, hợp
pháp hóa tài sản, hoặc đã sử dụng phần lớn
tài sản chiếm đoạt được để đánh bạc, mua
cổ phiếu, đưa cho người khác kinh doanh
bất động sản và thua lỗ nên khi bị phát hiện
không còn khả năng khắc phục hậu quả. Bên
cạnh đó, nhiều trường hợp trong quá trình
giải quyết vụ án tham ô tài sản, đặc biệt là
sau khi khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng
chưa quyết liệt, triệt để trong việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế cần thiết nên người
thân của bị can, bị cáo vẫn có điều kiện để
tẩu tán tài sản; mặt khác, không ít trường
hợp tài sản tham ô đang tồn tại ở nước ngoài
nên việc thu hồi càng gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, trong một số trường hợp,
việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự
(TNHS) của bị can, bị cáo còn chưa tương
xứng với tính chất của hành vi, mức độ hậu
quả gây ra, chưa đảm bảo tính răn đe và
phòng ngừa chung
Xác định mức độ TNHS đối với bị
can, bị cáo trong các vụ án tham ô tài sản
là vấn đề hết sức quan trọng, thể hiện rõ
sự trừng phạt, sự lên án của Nhà nước, sự
nghiêm minh của pháp luật đối với người
phạm tội. Thực tiễn hoạt động truy tố, xét
xử các vụ án tham ô tài sản trong những năm
qua cho thấy: việc Viện kiểm sát nhân dân,
Tòa án nhân dân các cấp xác định mức độ
TNHS đối với bị can, bị cáo trong các vụ
án tham ô tài sản còn có phần chưa đảm bảo
tương xứng với tính chất của hành vi, mức
độ hậu quả do bị can, bị cáo gây ra. Đó là
do pháp luật quy định còn có phần chung
chung, thiếu cụ thể nên khi xác định khung
hình phạt để truy tố, Viện kiểm sát gặp phải
những khó khăn nhất định, dẫn đến việc truy
tố các bị can theo khung của điều luật có
phần nhẹ hơn so với hậu quả xảy ra, chưa
đảm bảo sự tương xứng với tính chất của
hành vi phạm tội. Mặt khác, theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa
án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác nhẹ
hơn trong cùng điều luật mà Viện kiểm sát
đã truy tố. Chính vì vậy, trong quá trình xét
xử các vụ án tham ô tài sản, một số trường
hợp, Tòa án có thể chuyển sang khung hình
phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng loại hình phạt
nhẹ hơn đối với bị cáo. Điều này không chỉ
làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của
pháp luật đối với bản thân bị cáo, mà còn tạo
ra những tác động thiếu tích cực trong việc
phòng ngừa chung, nhất là đối với những vụ
án được dư luận xã hội quan tâm thì tình
trạng này đã tạo ra những phản ứng, bức xúc
hoặc sự hoài nghi trong dư luận quần chúng
nhân dân, làm giảm mục đích răn đe, phòng
ngừa chung của pháp luật, góp phần thúc
đẩy sự phát sinh tham ô tài sản trên thực tế.
2. Giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập
trong phát hiện, xử lý các vụ án tham ô
tài sản
2.1. Hoàn thiện quy định Luật Phòng,
chống tham nhũng và các văn bản luật
chuyên ngành
Hoạt động phát hiện, xử lý người có
chức vụ, quyền hạn tham ô tài sản là đối
tượng điều chỉnh trực tiếp của Luật Phòng,
chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2018 được Quốc hội khóa XIV
tại kỳ họp thứ 6 đã khắc phục được những
hạn chế, bất cập của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2005 (sửa đổi năm 2012),
góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm
về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài
sản tài sản nói riêng. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của việc đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về tham nhũng nói chung và tội tham
ô tài sản nói riêng, góp phần nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động phát hiện, xử lý các
vụ án tham ô tài sản, cần tiếp tục hoàn thiện
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018
theo hướng sau:
- Mở rộng một cách hợp lý phạm vi
đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu
nhập sang cả lĩnh vực tư cho phù hợp với
quy định của Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017. Bởi lẽ, theo quy
định của Điều 34 Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2018, người có chức vụ, quyền
hạn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước
chưa được đưa vào để thực hiện nghĩa vụ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 5(381) T3/2019
kê khai tài sản, thu nhập. Trong khi đó, theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 thì những người này
cũng là chủ thể của tội tham ô tài sản.
- Mở rộng phạm vi nghĩa vụ của người
kê khai tài sản, thu nhập nhằm kiểm soát một
cách chặt chẽ tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn. Bởi lẽ, theo quy định
của khoản 1 Điều 33 Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018, người có nghĩa vụ
kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và biến
động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ
hoặc chồng, con chưa thành niên là chưa đủ;
cần phải bổ sung thêm các đối tượng là cha,
mẹ, con đã thành niên, ông nội, bà nội của
người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
- Quy định cụ thể về hình thức xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Theo quy định của khoản 1 Điều 73 Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2018, người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm trực
tiếp khi để xảy ra tham nhũng quy định tại
Điều 72 của Luật này thì bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc
quy định này, một mặt gây khó khăn cho
cơ quan, người có thẩm quyền trong việc
lựa chọn hình thức để xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu trong cơ quan, đơn vị
để xảy ra tham nhũng do họ phụ trách; mặt
khác, chưa đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật đối với việc xem xét trách nhiệm
của người đứng đầu. Do vậy, Luật Phòng,
chống tham nhũng cần quy định rõ trường
hợp nào thì xử lý lỷ luật, trường hợp nào thì
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy
ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị do họ quản lý, phụ trách.
Đối với các văn bản luật chuyên
ngành:
- Hoàn thiện quy định của Luật Báo
chí nhằm tích cực phát huy vai trò của báo
chí trong phát hiện tham nhũng, gắn với
trách nhiệm của cơ quan báo chí trong việc
phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ
quan chức năng để phục vụ việc xem xét, xử
lý vụ việc tham nhũng mà báo chí đã phát
hiện, đăng tải.
- Hoàn thiện quy định của luật hình
sự theo hướng quy định hợp lý về giá trị tài
sản bị chiếm đoạt trong các khung hình phạt
nhằm cá thể hóa TNHS của các bị cáo trong
vụ án tham ô tài sản.
- Hoàn thiện quy định của Luật Giám
định tư pháp nhằm đảm bảo tính kịp thời và
chính xác của kết luận giám định, tạo cơ sở
cần thiết để đảm bảo tiến độ giải quyết vụ án
tham ô tài sản.
2.2. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan
tiến hành tố tụng với các cơ quan chuyên môn
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm tham ô tài sản cho thấy, sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng và cơ quan chuyên môn là điều kiện
tiên quyết bảo đảm chất lượng và hiệu quả
của công tác này. Vì vậy, để tăng cường hơn
nữa sự phối hợp giữa các cơ quan nói trên
trong phòng, chống tội phạm tham ô tài sản
cần thực hiện các giải pháp:
- Liên ngành các cơ quan tố tụng trung
ương cần thiết lập cơ chế phối hợp trong việc
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các
vụ án tham ô tài sản, tạo cơ sở cần thiết để
liên ngành tố tụng địa phương thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc
phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản.
- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan tố tụng với các cơ quan chuyên môn
trong việc thu thập các tài liệu, chứng cứ cấn
thiết, cũng như đưa ra các kết luận đối với
từng lĩnh vực chuyên môn, nhằm đảm bảo
việc xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra
người có hành vi tham ô tài sản được kịp
thời, chính xác, hiệu quả.
- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan tố tụng với các cơ quan giám định tư
pháp trong một số lĩnh vực cần thiết như tài
chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đấu giá,
đấu thầu nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính
xác của kết luận giám định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hat_hien_xu_ly_cac_vu_an_tham_o_tai_san_thuc_trang_va_giai_p.pdf