Hệ giá trị bền vững cho phát triển nông thôn Việt Nam

Hệ giá trị phát triển bền vững cho nông thôn Việt Nam đòi hỏi người nông dân phải phát huy tính năng động nhiều hơn nữa, nhận thức của họ cần phải vươn xa hơn phạm vi làng xã của mình, sản phẩm của họ phải hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thị trường. Có thể nói tính năng động và sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp là một điều kiện sống còn của người nông dân hiện nay. Kết quả cuối cùng của hệ giá trị bao gồm các yếu tố truyền thống và hiện đại là người nông dân làm giàu bền vững và sống trong môi trường văn hóa lành mạnh trên quê hương của họ. Từ đó các tiêu chí hiện đại được hình thành trong hệ giá trị của nông thôn Việt Nam, văn hóa truyền thống luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong đời sống tinh thần của các vùng nông thôn Việt Nam. Do đó, hệ giá trị bền vững cần phải kết hợp những giá trị chung của quốc gia và giá trị riêng liên quan đến đặc thù văn hóa của từng địa phương. Đạt được một điều kiện sống của người nông dân đầy đủ bao gồm cả về vật chất và tinh thần chính là thành tựu mang tính giá trị cho xu hướng phát triển bền vững cho nông thôn Việt Nam. Hiện nay việc xây dựng và đánh giá tầm quan trọng của hệ giá trị bền vững từ lý luận đến thực tiễn vẫn còn nhiều hạn chế. Các giá trị nhân văn trong xây dựng nông thôn trong giai đoạn vừa qua vẫn chưa được đánh giá cao. Giá trị nhân văn được hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người hướng đến xây dựng một xã hội nông thôn tốt đẹp thể hiện qua những khát vọng, tinh thần yêu quê hương đất nước, các nỗ lực đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, và khoan dung, tự lực và tinh thần trượng nghĩa. Từ đó có thể thấy muốn xây dựng một mô hình hệ giá trị phát triển bền vững cần phát huy những giá trị ưu việt sẵn có của người nông dân là những giá trị nhân văn, đồng thời phải tuyệt đối khắc phục những hạn chế do thói quen, lối sống, hành động và suy nghĩ theo kiểu xã hội tiểu nông trước đây nhưng lại đang được “nâng cấp” trong xã hội hiện đại. Khắc phục được những vấn nạn này, chúng ta mới có thể hướng đến một xã hội nông thôn mới thịnh vượng trong tương lai. Trong quá trình phát triển đó, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã góp phần tạo ra những nội hàm mới của hệ giá trị truyền thống. Nổi bật hơn hết là tinh thần hợp tác, tinh thần tự lực, sự sáng tạo và năng động.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ giá trị bền vững cho phát triển nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33 1. DẪN NHẬP Xây dựng hệ giá trị bền vững cho quá trình phát triển nông thôn ở Việt Nam là vấn đề trọng yếu đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Các chính sách và chiến lược phát triển nông thôn đòi hỏi phải đạt hiệu quả ở hai lĩnh vực quan trọng là văn hóa và kinh tế nông nghiệp. Ở nông thôn từ lâu văn hóa được đánh giá như một hệ giá trị kiến tạo nên bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc hình quốc gia, dân tộc, sự cố kết giữa các làng với nhau tạo nên một sức mạnh tổng hợp nhằm bảo vệ tổ quốc, xây dựng bản sắc văn hóa và phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay cho dù xã hội đang phát triển theo hướng văn minh đô thị và công nghiệp hóa trên mọi phương diện thì văn hóa vẫn chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Việt Nam. Do vậy, hệ giá trị bền vững cho phát triển thôn nông phải bao hàm cả hai loại hình giá trị, truyền thống và hiện đại. Giá trị truyền thống là sản phẩm văn hóa được kết tinh qua quá trình lịch sử phát triển của dân tộc; giá trị hiện đại là những tiêu chuẩn cần phải có của một xã hội văn minh. Bối cảnh của nông thôn Việt Nam hiện nay luôn cần lưu giữ những giá trị truyền thống nhưng phải khuyến khích người nông dân phát huy các giá trị hiện đại để có thể xây dựng được một xã hội nông thôn phát triển bền vững. HỆ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CHO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM PGS.TS NGÔ THỊ PHƯƠNG LAN Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh 34 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM 2. HỆ GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG KHÁI NIỆM “Hệ giá trị” hay “hệ thống giá trị” (a value system) là khái niệm đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến trong thời gian gần đây nhưng số người quan tâm đến định nghĩa về nó thì không nhiều (Trần Ngọc Thêm 2016, tr.50). Đây là một vấn đề có tính hấp dẫn trong các cuộc nghị luận nhưng khó có thể đưa ra một kết luận chính xác thế nào là một hệ giá trị. Vì một định nghĩa thường mang yếu tố cơ sở lý luận của riêng một nhà nghiên cứu nên nội dung của nó khó có thể thích ứng với thực tiễn của xã hội Việt Nam hiện nay. Ở phương Tây có thể thấy định nghĩa của Milton Rokeach cho rằng: “Hệ thống giá trị là một tổ chức bền vững (an enduring organization) của những niềm tin liên quan đến những kiểu đạo đức hoặc trạng thái tồn tại cơ bản được ưa thích theo một miền liên tục những điều tương đối quan trọng (Rokeach M. 1973, tr. 5). Ở một chỗ khác ông bổ sung thêm rằng “Hệ thống giá trị là một tổ chức được học hỏi (a learned organization) của các nguyên tắc và quy tắc giúp một người lựa chọn, giải quyết mâu thuẫn và đưa ra quyết định” (Rokeach M. 1973, tr. 14). Nhận định của Milton Rokeach cho thấy ông chú trọng đến chức năng của hệ giá trị là giúp lựa chọn cái ưa thích để giải quyết mâu thuẫn để đưa ra quyết định. Song, tác giả Phạm Minh Hạc lại xem hệ giá trị là khái niệm công cụ với định nghĩa khá đơn giản: “Hệ giá trị là các giá trị của một tập hợp người như dân tộc, thể giới, vùng, gia đình, bản thân (Phạm Minh Hạc 2004, tr. 30). Tác giả không quan tâm nhiều đến mối quan hệ giữa các thành tố của trong hệ thống giá trị hay văn hóa. Trần Ngọc Thêm có quan điểm xem việc sử dụng thuật ngữ “hệ giá trị” là hướng tiếp cận thiên về cách tổ chức, quan hệ giữa các giá trị với nhau, xem trọng vị trí của từng giá trị trong một hệ thống. Cho nên khái niệm hệ giá trị đã được ông định nghĩa như sau: “Hệ giá trị là toàn bộ các giá trị của một khách thể trong một bối cảnh không gian - thời gian xác định cùng với mạng lưới các mối quan hệ của chúng” (Trần Ngọc Thêm 2016, tr. 51). Cũng theo nhận định của tác giả, hệ giá trị phải luôn gắn với một chủ sở hữu cụ thể, thể hiện dưới dạng một tính từ hoặc một cụm từ chỉ mối quan hệ sở hữu đi kèm như: hệ giá trị Việt Nam. Không có hệ giá trị nói chung (Trần Ngọc Thêm 2016, tr. 51) Bên cạnh hệ giá trị tập thể, hoàn toàn có thể có hệ giá trị cá nhân, các hệ giá trị cá nhân giao nhau với hệ giá trị tập thể dựa trên những giá trị cốt lõi của một nền văn hóa. Tuy nhiên cho đến nay các khái niệm hay định nghĩa về hệ giá trị thường chỉ được nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đến văn hóa, kinh tế, xã hội, tộc người và tôn giáo. Phần nhiều là những giá trị được lượng định theo xu hướng cảm tính như tốt hay xấu, có giá trị hay không có giá trị, được chấp nhận hay không chấp nhận. Từ góc độ tiếp cận của mình, chúng tôi cho rằng hệ giá trị là một chuỗi các thành tố văn hóa, xã hội mang tính giá trị riêng được kết nối lại với nhau theo tiêu chí của một quốc gia, một cộng đồng hay một cá nhân phù hợp với nhận thức và quy chuẩn ở nơi đó. Chuỗi giá trị đó được kết nối lại thành một hệ thống có tính bền vững nên có thể được xem là một hệ giá trị trong một xã hội hay một cộng đồng. Xét trong phạm vi nông thôn, hệ giá trị phải bao gồm nhiều tiêu chí liên quan đến các phương diện như kinh tế nông nghiệp, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, cơ sở hạ 35 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM tầng nông thôn, xu hướng tiếp cận văn minh của người dân, chính sách của nhà nước và cả hệ thống chính trị được quy động để triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước đến với người nông dân một cách thấu đáo. Tất cả những tiêu chí giá trị thiết lập thành hệ giá trị cho khu vực nông thôn phải có mối quan hệ mật thiết với nhau, gắn kết với nhau để tạo thành một sức mạnh thúc đẩy xu hướng phát triển bền vững về mọi mặt mà người nông dân chính là chủ thể thừa hưởng những giá trị đó. Việc thiết lập hệ giá trị cho khu vực nông thôn luôn xuất phát từ hai phía, giá trị theo quy chuẩn của cộng đồng địa phương và giá trị theo định hướng phát triển của quốc gia. Điều này cho thấy là hệ giá trị dành cho khu vực nông thôn bao gồm giá trị riêng và giá trị chung. Dưới góc độ của giá trị riêng, chúng ta có thể nhận ra là những giá trị của cộng đồng nông dân ở địa phương, sự thích ứng của người dân trong quá trình sinh tồn ở các vùng miền dựa vào điều kiện tự nhiên, môi cảnh để tiến hành hoạt động mưu sinh, sinh hoạt văn hóa và thiết lập kết cấu tổ chức xóm làng. Song để thúc đẩy một cộng đồng đi vào hướng phát triển bền vững và hội nhập thì những giá trị riêng đó cần phải kết hợp, lồng ghép, hòa nhập vào những giá trị chung của quốc gia và quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này, với quan điểm nhìn nhận con người là chủ thể của quá trình xây dựng và phát triển nông thôn, chúng tôi quan tâm đến hệ giá trị là những kết tinh về đức tính của con người ở nông thôn Việt Nam thể hiện trong các mặt của đời sống nông thôn. Hệ giá trị này là sự kết hợp những giá trị truyền thống và những giá trị mới được hình thành trong quá trình phát triển vừa qua đặc biệt dưới sự tác động của Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới. 2. HỆ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG NHÌN TỪ TRUYỀN THỐNG Văn hóa bao hàm những hệ giá dung hợp truyền thống và hiện đại. Truyền thống là những giá trị văn hóa có tính lịch sử trải qua nhiều thời đại còn lưu truyền đến ngày nay, hiện đại là yếu tố văn hóa kết tinh từ quá trình giao lưu tiếp biến với bên ngoài nhưng lại được biến đổi theo chiều hướng Việt Nam cộng với những sáng tạo nội sinh trong quá trình phát triển. Những giá trị truyền thống luôn được ca ngợi như một hình thái bản sắc văn hóa giúp nhận diện được quá trình sinh tồn bền vững của cư dân nông thôn. Trong đời sống nông thôn, hệ giá trị truyền thống nổi bật bao gồm nhiều thành tố của văn hóa vật chất và tinh thần nhưng trong đó tính cộng đồng được xem là nổi bật hơn cả. Vì sao tính cộng đồng lại được xem là một thành tố quan trọng quyết định sự tồn tại của làng xã Việt Nam. Trước hết đặc điểm của xã hội nông nghiệp buộc con người phài đoàn kết với nhau, để hỗ trợ nhau trong lao động sản xuất. Công việc trồng lúa nước và canh tác các loại hoa màu buộc một cá nhân phải nương tựa vào tập thể và tập thể chi phối đời sống cá nhân. Vì vậy tính giá trị trong cuộc sống của người nông dân là luôn thắt chặt mối quan hệ cộng đồng, giá trị tình cảm được tính theo khoảng cách gần và xa. Sống càng gần nhau thì càng phải gắn bó với nhau hơn, bởi khi “tối lửa tắt đèn” phải có nhau, có nghĩa là con người cần nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn gian khổ. Vì vậy, giá trị quan trọng nhất trong mối quan hệ gắn kết này trước hết có thể thấy chính là người láng giềng, “bán bà con xa mua láng giềng gần”. 36 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM Bởi bà con xa tuy cùng chung huyết thống nhưng khoảng cách sống quá xa thì làm gì có thể đảm bảo họ giúp mình kịp thời mỗi khi minh cần đến sự hỗ trợ của họ. Trong tiêu chí văn hóa truyền thống của xã hội nông thôn Việt Nam, chúng ta thấy mối quan hệ giữa các thành viên, tổ chức xã hội cũng như quy định trong hương ước đều nhắm đến mục tiêu duy trì sự tồn tại bền vững của cộng đồng. Tính chất của hoạt động sản xuất nông nghiệp luôn đòi hỏi người nông dân phải “làm đồng bộ và quyết định đồng lòng”. Cụ thể như quy định về sản xuất nông nghiệp là đến thời điểm cụ thể tất cả nông dân sống trong khu vực phải xuống giống gieo sạ một lượt, làng không cho phép xuống giống trước hoặc sau thời điểm đó. Mọi quy định đều có nguyên nhân của nó chứ không phải chỉ là quyền lực ép buộc con người mất đi yếu tố tự do trong cuộc sống. Thứ nhất, khi một cánh đồng chưa đến thời hạn xuống giống mà có người lại tự ý gieo sạ trước thì chim muông sẽ tập trung về phần ruộng của anh ta để nhặt thóc. Kết quả anh ta sẽ bị thiệt hại về sản phẩm thu hoạch, điều này không những làm ảnh hưởng đến chính cuộc sống của gia đình anh ta mà còn ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Bởi việc thất thu sẽ làm cho anh ra rơi vào những khoản nợ lẽ ra không đáng có như tiền thuế nông nghiệp, tiền xâu cho làng và những khoản đóng góp để tạo quỹ phúc lợi cho cộng đồng. Do thời điểm gieo sạ trước nên việc thu hoạch của anh ta cũng sẽ làm ảnh hưởng đến công việc sản xuất nông nghiệp của người khác như việc anh ta quy động phương tiện và nhân lực để thu hoạch lúa chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các mảnh ruộng xunh quanh. Nếu một người nông dân lại gieo sạ muộn, tức là khi anh ta xuống giống thì những cánh đồng xung quanh đã lên mạ non thì sẽ dẫn đến việc anh ta thu hoạch muộn. Khi toàn bộ cánh đồng đã thu hoạch mà chỉ còn lại mảng ruộng duy nhất của anh ta thì kết quả là anh ta sẽ hứng chịu những vấn đề “vệ sinh đồng ruộng” như sâu rầy, chim muông, chuột bọ sẽ tập trung về mảng ruộng chưa gặt này. Ngoài việc thất thu, ruộng đất cũng sẽ bị ảnh hưởng tình trạng sâu bệnh, di chứng đến cho cả những vụ mùa sau. Điều này cho thấy tính đồng cộng như một hệ giá trị quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam. Ngoài việc xây dựng tình cảm, mối quan hệ tương thân tương ái, tinh thần tự nguyện gắn kết với nhau thì hệ thống tổ chức và hương ước đã buột người nông dân phải sống theo nguyên tắc để không phá vỡ tính cộng đồng đó. Xây dựng mối quan hệ cộng đồng là một giá trị nhân văn của người Việt Nam. Nó tác động đến lối suy nghĩ và nền tảng tinh thần của người dân như một hệ quả tác động từ hệ giá trị văn hóa nông thôn. Tiêu chí tồn tại của con người là phải gắn kết với cộng đồng, đồng thời tuân thủ những quy định của tập thể đã làm cho con người phải tự nhận thấy vai trò và trách nhiệm của mình đối với mọi người. Như vậy, giá trị của tính cộng đồng tập trung ở ba thành tố: tình cảm, trách nhiệm và bổn phận. Đây chính là nền tảng giá trị không chí cho nông thôn Việt Nam hiện nay mà còn cho cả vùng đô thị. Tinh thần cộng đồng giúp người Việt Nam nuôi dưỡng trong mình một tinh thần hướng về cộng đồng bản quán, dù phải sống xa làng quê. Trong thời chiến tranh tinh thần đó đã được nâng lên sẽ thành tình yêu quê hương, đất nước, trách nhiệm vì đồng bào để người Việt Nam sẵn sàng hy sinh bản thân cho những lý tưởng cao đẹp. Ngày nay tính cộng đồng được thể hiện qua tinh thần 37 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM học tập, làm việc, lao động sản xuất, tinh thần sáng tạo ra những cái mới tiến bộ hơn. Tất cả đều này cũng sẽ nhằm tạo ra những thành quả kinh tế to lớn trong xây dựng quê hương đất nước. Trong phạm vi của vùng nông thôn, tính cộng đồng luôn song hành cùng với tính tự trị. Đó là ý thức xác nhận bản quán, xác định nguồn gốc, dòng tộc, gia phả của mỗi con người. Có thể nói đó chính là một xu hướng tâm lý xác định giới hạn hay khu biệt tầm ảnh hưởng của một cá nhân sống trong một cộng đồng địa phương. Tính tự trị hay tính khu biệt có giá trị nhất định của nó, chứ không phải hoàn toàn là vô giá trị, là tác nhân kềm hãm sự phát triển của xã hội nông thôn Việt Nam. Nhận thức về tính tự trị hay khu biệt sẽ làm cho cá nhân gắn kết nhiều hơn với bản quán của mình, có tinh thần giúp đỡ những người đồng hương và luôn nuôi dưỡng cho mình một tinh thần phấn đấu để bản thân và quê hương được phát triển giàu đẹp sánh bằng hoặc cao hơn các địa phương khác. Hệ giá trị truyền thống của nông thôn Việt Nam nếu xét dưới góc độ của tính cộng đồng và tính tự trị (hay khu biệt) có thể thấy rõ qua năm biểu tượng văn hóa của làng xã, bao gồm: cây đa, bến nước, sân đình, cổng làng và lũy tre. Tuy nhiên, nói đến hệ giá trị của làng quê thì người ta thường hay ca ngợi những biểu tượng mang tính cộng đồng, nơi gắn bó tình cảm chôn nhau cắt rốn của mỗi thân phận con người đã đi xa quê hương. “Cây đa, bến nước, sân đình”, sự ảnh hưởng sâu đậm của bộ ba biểu tượng này không chỉ ở góc độ của tính cộng đồng mà còn ở lĩnh vực văn hóa tâm linh của dân làng nên chúng sẽ được lưu giữ trong tâm thức của mỗi con người Việt Nam như một loại di sản kí ức không thể phai mờ. Trái lại, biểu tượng cổng làng và lũy tre lại mang yếu tố khu biệt, phần nhiều bị ảnh hưởng bởi chính sách cai trị dân chúng của các “quan làng” thời xưa nên mặc dù nó tồn tại nhưng không lại được nhiều tình cảm như những biểu tượng mang tính cộng đồng. Ngoài tính cộng đồng, tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã được thực tiễn chứng minh trong lịch sử là một giá trị được hình thành qua sự hợp tác chống giặc ngoại xâm xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, tự do và hạnh phúc như ngày hôm nay. Trong bối cảnh mới, giá trị bền vững này có nội hàm mới đó là sự nỗ lực xây dựng địa phương và đất nước ngày càng giàu đẹp. Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, giá trị yêu nước này được thể hiện đó là quyết tâm xây dựng nông thôn giàu đẹp thành nơi đáng sống. Ngoài những giá trị thể hiện tình thần đoàn kết cộng đồng, tinh thần yêu nước, ý thức khu biệt để xác nhận nguồn gốc bản quán, người nông dân luôn có những nỗ lực rất lớn trong quá trình sinh tồn của mình. Để tồn tại trong điều kiện sống khó khăn của cuộc sống, khi nền văn minh vật chất chưa phát triển và khoa học kỹ thuật chưa được áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp thì họ luôn phải tự thân vận động về mọi phương diện của cuộc sống. Có thể nói tính cần cù là một đặc trưng giá trị của người nông dân Việt Nam. Cần cù và sáng tạo là đức tính luôn hát triển song hành nhau, bởi trong môi trường sống khó khăn, con người phải luôn nhẫn nại, chịu khó lao động và từ đó họ sáng tạo ra phương tiện để phục vụ cho công việc sản xuất của mình. Tính cần cù luôn được động viên bằng tinh thần lạc quan về một tương lai tương sáng trong cuộc sống tương lại, ước vọng về những vụ mùa bội thu để 38 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM người nông dân có thể sống sung túc hơn. Có thể từ tính cần cù của người Việt Nam, đã sản sinh ra tính sáng tạo, chúng được thúc đẩy bởi một động lực quan trọng là tinh thần lạc quan. Tất cả hình thành nên một hệ giá trị tổng hợp của người nông dân Việt Nam trong xây dựng cuộc sống nông thôn. 3. HỆ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG NHÌN TỪ HIỆN ĐẠI Hiện đại ở đây mang ý nghĩa là những giá trị mới được ứng dụng vào đời sống của người nông dân nhằm nâng cao giá trị tinh thần và phát triển bền vững về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp cho nông thôn Việt Nam. Giá trị mới hoàn toàn không phải là những tiêu chuẩn của phương Tây được du nhập vào Việt Nam mà là một sự kết hợp giữa những yếu tố mới hình thành với văn hóa truyền thống hoặc biến đổi, nâng cao những giá trị truyền thống cho phù hợp với xã hội nông thôn đương đại. Giá trị truyền thống thường mang yếu tố của một xã hội nông nghiệp thuần túy, điểm nổi bật là khuyến khích con người lấy xóm làng, ruộng nương làm nền tảng ổn định cuộc sống. Hệ quả của nó thường mang ý nghĩa sắp đặt cho người nông dân một không gian sinh tồn trong phạm vi của lũy tre làng. Tục lệ ràng buộc thân phận con người được xác định qua các tiêu chí trong hương ước về nông nghiệp, quy định về sở hữu ruộng đất, lễ hội và vai trò thứ bậc trong cộng đồng. Theo đà phát triển của xã hội, một số giá trị cổ truyền thống cũng dần thay đổi theo hướng thích ứng với các tiêu chí hiện đại, mặc dù nền tảng cốt lõi của nó mang tính đặc thù Việt Nam vẫn luôn được bảo lưu. Trong đó giá trị quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam là tình đoàn kết hay tính cộng đồng, xã hội ngày nay cần nâng cao tính cộng đồng trở thành một động lực phát triển cho các vùng nông thôn. Việc nâng cao tính cộng đồng sẽ làm cho con người khẳng định được tầm vóc vượt ra khỏi phạm vị khu biệt của địa phương biến nó thành sức mạnh của cộng đồng chung của cả một vùng hay cả nước. Hiệu quả của tính cộng đồng ngày nay trước hết là có thể giúp người nông dân chia sẻ với nhau những kinh nghiệm quý báu trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau sẽ xóa bỏ được thói phân biệt đặc trưng văn hóa, con người các vùng miền, giúp đỡ nhau tìm hiểu và chia sẻ thông tin về thị trường sản phẩm nông nghiệp, liên kết hợp tác với nhau trong sản xuất và định hướng đầu ra cho các loại hình sản phầm. Nâng cao tính cộng đồng sẽ tạo nên sức mạnh của một khối đại đoàn kết dân tộc trong thực hiện đồng bộ chủ trương, chính sách của nhà nước về xây dựng nông thôn. Bên cạnh đó với điều kiện phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp như hiện nay, tính cần cù cần được phát huy, bở vì khi có nhiều phương tiện trong tay, con người dễ sinh ra lười biếng và lệ thuộc vào máy móc. Trong khi đó thành quả lao động luôn phải dựa vào yếu tố con người. Vì vậy tính cần cù kết hợp với thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ tạo ra được những giá trị lao động mới, đạt tiêu chuẩn cả lượng và chất. Tuy nhiên tính cần cù phải đi kèm với tính sáng tạo bởi muốn phát huy hết công năng của máy móc thì cần phải đánh giá được công năng, địa hình, môi trường ở nơi phương tiện được sử dụng. Tính sáng tạo luôn phải đi theo xu hướng ứng dụng mới có thể phát huy hết công năng và hiệu suất của các loại phương tiện, hiệu quả của đất 39 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM đai thổ nhưỡng đối với các giống cây trồng, vật nuôi. Như vậy tính cần cù và tính sáng tạo thật sự rất cần thiết trong lao động sản xuất ở nông thôn hiện nay. Nếu như xã hội nông thôn cổ truyền chỉ chú trọng đến tầm vóc kinh tế nông nghiệp cấp làng xã thì trong xã hội hiện nay, sản phẩm nông nghiệp phải vượt ra khỏi vùng thôn quê tiến vào thị trường đô thị và thậm chí là thị trường quốc tế. Kinh tế nông nghiệp ngày xưa là tự cung tự cấp, đời sống của người nông dân chỉ chú trọng đến mục tiêu no cơm ấm áo là mãn nguyện. Ngày nay tiêu chuẩn truyền thống này không còn phù hợp nữa, bối cảnh xã hội phát triển, dân số gia tăng, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dần, mức độ cạnh tranh của thị trường ngày càng quyết liệt, tiêu chí sống của người nông dân thay đổi, quan điểm kinh tế hiện nay không còn là no cơm ấm áo mà làm giàu ngay trên mảnh đất của mình. Chính vì vậy, bối cảnh xã hội đã không cho phép người dân nông sống thụ động trong ngôi làng của mình, mà điều này đòi hỏi họ phải có được tính năng động và tinh thần tự lực, tự cường trong cuộc sống. Có thể thấy tính năng động đã bổ sung cho nhiều phương diện của hệ giá trị nông thôn Việt Nam bởi người nông dân đã có tính cộng đồng, tính cần cù, tính sáng tạo nhưng chưa đủ. Để tồn tại và nổ lực hơn nữa trong cuộc sống đòi hỏi người nông dân phải phát huy tính năng động của mình. Tính năng động cho họ độ nhạy bén với thị trường sản phẩm nông nghiệp, cho phép họ đứg vững trước áp lực cạnh tranh về sản phẩm, cho phép họ sáng tạo được những loại nông sản đặc thù riêng của từng địa phương. Sự kết hợp của tính cần cù, sáng tạo cùng với tính năng động của người nông dân miền Tây đã tạo ra một lượng lực lao động đặc thù là những anh “kỹ sư hai lúa” chế tạo được nhiều loại máy móc có giá trị trong sản xuất nông nghiêp, tiết kiệm được giá thành khi mua máy ngoại nhập mà công năng chưa chắc có thể sánh được các loại máy nội địa này. Chính vì tính năng động mà nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả được hình thành ở các vùng miền Tây Nam Bộ trở thành mô hình được nhân rộng cho nhiều địa phương. Tính động cộng và tính năng động cùng phối hợp phát huy tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ chính là sự ra đời của mô hình tổ chức cộng đồng nông dân gọi là “bang hội”. Về mặt tên gọi và hình thái tổ chức có phần ảnh hưởng từ mẫu hình phát triển cộng đồng của người Hoa ở các đô thị miền Nam nhưng mục tiêu của những “bang hội” nông dân này là thể hiện tính thần đoàn kết trong sản xuất nông nghiệp, đồng thờ phát huy tính năng động trong tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Các thành viên tham gia là người địa phương hướng mục tiêu phát triển kinh tế tại địa phương, xây dựng một cộng đồng kinh tế làng xã với các quy ước về nông nghiệp, bảo vệ thành quả lao động sản xuất, dùng miếu Bà Chúa Xứ làm nơi sinh hoạt của tổ chức. Trong quá trình xây dựng nông thôn mới với quan điểm và cách thức triển khai, người dân khu vực nông thôn đã hình thành tinh thần tự lực. Đây là một giá trị được đề cao và phát triển để mang một nội hàm mới đó là sự tự lực để vươn lên trong cuộc sống, xây dựng gia đình và nông thôn giàu đẹp. Mỗi giá trị cần có thời gian đúc kết và vận dụng qua thực tiễn của quy luật phát triển xã hội cho nên tiêu chí để xác định hệ 40 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM giá trị thì quan trọng nhất vẫn là vấn đề sự thích hợp của nó với thời gian tồn tại mới xác định được nó có tính bền vững hay không. Trong quá trình xây dựng hệ giá trị phát triển của nông thôn hiện nay, cần tránh vận dụng những giá trị tạm thời để xây dựng một phong trào nông thôn rồi bỏ mặc cho nó chìm lắng theo thời gian. Hệ giá trị bền vững cần phải chứng minh qua thời gian tồn tại của mình, luôn chịu sự tác động khách quan từ bối cảnh xã hội, những chiến lược phát triển kinh tế và công nghiệp của các quốc gia láng giềng có nhiều ưu thế cạnh tranh hơn Việt Nam. Những tác động đó có thể ít nhiều làm thay đổi một số thành tố văn hóa, thói quen ứng xử trong xã hội nông thôn truyền thống của Việt Nam như một hệ quả từ nhận thức tiêu cực của con người. Nhận thức tiêu cực sẽ dẫn đến những hành động cục bộ trong cuộc sống như vấn nạn địa phương chủ nghĩa trong sử dụng nguồn nhân lực và áp dụng chính sách đối với các vùng nông thôn; người dân theo thói quen dựa dẫm người thân quen, ỷ lại, trông chờ vào các chính sách của nhà nước làm mất đi tính năng động lẽ ra phải có được trong xã hội ngày nay. Thói ích kỷ theo kiểu “ruộng ai người ấy đắp bờ” vẫn hiện diện trong xã hội Việt Nam khi con người chỉ đến làm giàu, chăm lo cho riêng bản thân mình hoặc chỉ giúp đỡ những người đồng tộc, đồng hương tức là người cùng bản quán với mình. Lòng tốt đó không được mở rộng hơn cho phạm vị quốc gia là đồng bào của mình. Áp lực của tập thể, của hình thức lãnh đạo kiểu gia trường thường triệt tiêu ý chí cá nhân, buột người dân quay về với lối sống tự ty, mặc cảm, mất đi ý chí tranh đấu và tính năng động cần phải phát huy hiện nay. Giải pháp cuối cùng họ thường chọn sự “im lặng” để cho qua chuyện. Tính ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa cùng với tập tục bố cáo sự thành công, thành đạt, hiển vinh của cá nhân, dòng tộc theo quan niệm “vinh quy bái tổ”, “áo gấm về làng” đã tạo nên một lối sống và làm giàu ích kỷ, khoe khoang tài sản, bô trương sức mạnh kinh tế thể hiện qua những loại hình đám ma triệu đô, đám cưới bạc tỷ, nhà đát vàng, lăng mộ, biệt phủ, nhà thờ họ mọc lên như như nấm sau cơn mưa tại các vùng nông thôn Việt Nam. Những hình ảnh giàu có, thành đạt ấy hoàn toàn đối nghịch lại với khung cảnh nghèo khó của đại bộ phân nông dân tại các miền quê sẽ làm mất giá trị chính sách phát triển nông thôn của nhà nước, triệt tiêu ý chí phấn đấu của người nông dân và gia tăng xu hướng phân hóa giàu nghèo tại các địa phương. Do vậy, hệ giá trị bền vững cần kết hợp của yếu tố truyền thống và hiện đại. Trong phạm vi truyền thống, nông thôn giữ được đặc điểm văn hóa tình thần là sự đoàn kết nhất trì, đồng lòng chung sức của cả một tập thể con người, hiện đại giúp nông dân phát huy những tiềm năng mà họ hiện có, đặc biệt là phát huy tính sáng tạo và tính năng động trong lao động sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Hệ giá trị nông thôn trong xã hội hiện đại được hình thành khi con người đã vượt ra khỏi phạm vi của vùng nông thôn, khi lũy tre làng không còn là rào cản cho bước tiến vươn xa lập nghiệp của người nông dân thì mọi định kiến cá nhân, lối sống ích kỷ cần bị triệt tiêu để những giá trị tốt đẹp nhất sẽ được phát huy như một động lực phát triển toàn diện về mọi của công cuộc xây dựng nông thôn hiện nay. 41 HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM 4. KẾT LUẬN Hệ giá trị phát triển bền vững cho nông thôn Việt Nam đòi hỏi người nông dân phải phát huy tính năng động nhiều hơn nữa, nhận thức của họ cần phải vươn xa hơn phạm vi làng xã của mình, sản phẩm của họ phải hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thị trường. Có thể nói tính năng động và sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp là một điều kiện sống còn của người nông dân hiện nay. Kết quả cuối cùng của hệ giá trị bao gồm các yếu tố truyền thống và hiện đại là người nông dân làm giàu bền vững và sống trong môi trường văn hóa lành mạnh trên quê hương của họ. Từ đó các tiêu chí hiện đại được hình thành trong hệ giá trị của nông thôn Việt Nam, văn hóa truyền thống luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong đời sống tinh thần của các vùng nông thôn Việt Nam. Do đó, hệ giá trị bền vững cần phải kết hợp những giá trị chung của quốc gia và giá trị riêng liên quan đến đặc thù văn hóa của từng địa phương. Đạt được một điều kiện sống của người nông dân đầy đủ bao gồm cả về vật chất và tinh thần chính là thành tựu mang tính giá trị cho xu hướng phát triển bền vững cho nông thôn Việt Nam. Hiện nay việc xây dựng và đánh giá tầm quan trọng của hệ giá trị bền vững từ lý luận đến thực tiễn vẫn còn nhiều hạn chế. Các giá trị nhân văn trong xây dựng nông thôn trong giai đoạn vừa qua vẫn chưa được đánh giá cao. Giá trị nhân văn được hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người hướng đến xây dựng một xã hội nông thôn tốt đẹp thể hiện qua những khát vọng, tinh thần yêu quê hương đất nước, các nỗ lực đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, và khoan dung, tự lực và tinh thần trượng nghĩa. Từ đó có thể thấy muốn xây dựng một mô hình hệ giá trị phát triển bền vững cần phát huy những giá trị ưu việt sẵn có của người nông dân là những giá trị nhân văn, đồng thời phải tuyệt đối khắc phục những hạn chế do thói quen, lối sống, hành động và suy nghĩ theo kiểu xã hội tiểu nông trước đây nhưng lại đang được “nâng cấp” trong xã hội hiện đại. Khắc phục được những vấn nạn này, chúng ta mới có thể hướng đến một xã hội nông thôn mới thịnh vượng trong tương lai. Trong quá trình phát triển đó, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã góp phần tạo ra những nội hàm mới của hệ giá trị truyền thống. Nổi bật hơn hết là tinh thần hợp tác, tinh thần tự lực, sự sáng tạo và năng động. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Milton Rokeach (1973), The nature of human values, published by Free Press in New York 2. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Ngô Thị Phương Lan (chủ biên) (2018), Xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long qua việc thực hiện tiêu chí văn hóa - xã hội - môi trường và bài học kinh nghiệm từ SAEMAUL của Hàn Quốc, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM. 4. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2007), Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, NXB Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhe_gia_tri_ben_vung_cho_phat_trien_nong_thon_viet_nam.pdf