Hệ thống 196 câu hỏi thi học phần đường lối đảng cộng sản việt namHọc phần: ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh lịch sử và phân tích các yếu tố đã góp phần để lãnh tụ Nguyễn ái Quốc tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm cho cách mạng Việt Nam một con đường đúng đắn?
Câu 2: Phân tích và chứng minh rằng: con đường cứu nước của Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn phù hợp với yêu cầu phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam?
Câu 3: Trình bày những yếu tố hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời?
Câu 4: Phân tích những yếu tố góp phần làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã có đường lối cách mạng đúng đắn?
Xem câu 3
Câu 5: Trình bày nội dung đường lối cách mạng Việt Nam thể hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930?
Câu 6: Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử?
Câu 7: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa lịch sử và hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930?
Câu 8: Căn cứ vào đâu để nói: Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930-1931? Vì sao Xô viết Nghệ Tĩnh đạt được đỉnh cao đó? Vì sao ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động được cao trào 1930-1931?
Câu 9: Trình bày vị trí, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam và nhận xét về phong trào công nhân Việt Nam trong những năm trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam?
Câu 10: Trình bày những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam?
Câu 11: Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng phục hồi được tổ chức đảng và phong trào cách mạng của quần chúng những năm 1932-1935? ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (3/1935)?
Câu 12: Căn cứ vào đâu để nói: Cao trào cách mạng 1930-1931 và Cao trào cách mạng 1936-1939 là những đợt tổng diễn tập của cách mạng tháng Tám năm 1945?
Câu 13: Trình bày thành quả về bài học kinh nghiệm của cách mạng thời kỳ 1936-1939?
Câu 14: Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng (5/1941)?
Câu 15: Phân tích những đặc trưng và phương hướng cơ bản của chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra ( thể hiện trong Cương lĩnh chính trị)? Xem câu 35
Câu 16: Trình bày hoàn cảnh lịch sử và những chủ trương lớn của Đảng trong Hội nghị Trung ương tháng 7/1936?
Câu 17: Trình bày bối cảnh, nội dung và ý nghĩa của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ?
Câu 18: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12/3/1945?
Câu 19: Trình bày bài học: Không ngừng củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?
Câu 20: Trình bày vai trò lãnh đạo và chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng trong tổng khởi nghĩa tháng Tám?
258 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thống 196 câu hỏi thi học phần đường lối Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ năm 1965, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam; đồng thời gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Âm mưu của đế quốc Mỹ là:
1. Chặn đứng sự phát triển của cách mạng miền Nam, cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, tìm diệt chủ lực Quân giải phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường;
2. Bình định lại miền Nam, củng cố hậu phương của chúng, ổn định nguỵ quyền, đồng thời phá hoại hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của dân tộc ta, buộc ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện của Mỹ.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 tháng 3 năm 1965, lần thứ 12 năm 1965 đã đề ra quyết tâm chiến lược đánh Mỹ và thắng Mỹ, phát động toàn dân tiến hành cuộc chống Mỹ, cứu nước.
Đảng đã chỉ đạo quân và dân miền Nam liên tiếp bẻ gãy các cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" của Mỹ - nguỵ. Sau trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với quân Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) tháng 5-1965, ở Vạn Tường (Quảng Ngãi) tháng 8-1965 thắng lợi, một cao trào đánh Mỹ diệt Nguỵ đã dấy lên mạnh mẽ khắp chiến trường miền Nam. Mọi cố gắng điên cuồng của đế quốc Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và thứ hai (1966-1967) đều lần lượt thất bại. Đến mùa mưa 1967 chúng phải chuyển sang chiến lược phòng ngự đề phòng các trận đánh lớn của ta. 80% đất đai miền Nam nằm dưới quyền kiểm soát của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển quyết liệt ở hầu khắp các thành thị.
Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới, tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra vào dịp Tết Mậu Thân (cuối tháng 1 đầu tháng 2-1968) ở Sài Gòn và 64 thành phố, thị xã, thị trấn khác trên toàn miền Nam. Cuộc tập kích chiến lược này đã làm cho thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, ý chí xâm lược của chúng bị lung lay, Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng miền Nam, song về sau ta cũng bị những tổn thất về địa bàn và lực lượng do có sai lầm trong đánh giá tình hình, chỉ đạo xác định mục tiêu và chỉ đạo thực hiện Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa ...
Thời kỳ 1969-1975
Đảng chỉ đạo đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Từ năm 1969, Mỹ thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Thực chất là sử dụng quân nguỵ với trang bị vũ khí và sự yểm trợ của không quân, hải quân Mỹ để tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân mới, rút dần quân Mỹ về nước.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 (1-1970) chủ trương kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công, đồng thời ra sức xây dựng mọi mặt, chú trọng công tác hậu cần, đánh bại âm mưu xuống thang từng bước và kéo dài chiến tranh của Mỹ, đề phòng việc "Đông Dương hoá chiến tranh" của chúng.
Đảng đã chỉ đạo cách mạng miền Nam trong hai năm 1970-1971 tiếp tục giữ vững và phát triển lực lượng, đồng thời từng bước đánh bại âm mưu "Đông Dương hoá chiến tranh" của chúng. Mùa xuân 1972, Đảng chỉ đạo thực hiện cuộc tiến công chiến lược, tiến công địch mạnh mẽ ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ để buộc địch phải chấm dứt chiến tranh, thương lượng ở thế thua, Mỹ phải "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh Việt Nam, ném bom trở lại miền Bắc, song không cứu vãn được tình thế. Ngày 27-1-1973, Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình
ở Việt Nam và rút quân về nước.
Sau Hiệp định Pari, do Mỹ và tay sai tiếp tục chiến tranh, phá hoại Hiệp định nên Đảng chủ trương nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công, phát triển thực lực, tiến tới giải phóng miền Nam. Nhận thấy thế và lực của ta đã hơn địch, ta có thời cơ chiến lược để giải phóng miền Nam. Hội nghị Bộ Chính trị 1-1975 đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc theo kế hoạch hai năm 1975-1976. Nếu thời cơ thuận lợi đến thì quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Đảng đã chỉ đạo chọn Tây Nguyên làm chiến trường trọng điểm và mở chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu bằng cuộc tấn công thị xã Buôn Ma Thuột (10-3-1975), tiến tới giải phóng Tây Nguyên gây sự hoảng loạn chiến lược cho địch. Tiếp đó đã mở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng giải phóng Huế (25-3-1975) và Đà Nẵng (29-3-1975). Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn trước tháng 5-1975, chỉ đạo tập trung mọi lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này. Ngày 9-4-1975, Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn và đến trưa ngày 30-4-1975 kết thúc thắng lợi. Đến ngày 2-5-1975, vùng Đồng bằng sông Cửu Long và địa phương cuối cùng của miền Nam là đảo Phú Quốc đã hoàn toàn được giải phóng, Tổ quốc ta được thống nhất.
Tóm lại, từ tháng 7-1954 đến tháng 4-1975, trên cơ sở phương hướng chiến lược, đường lối chung đúng đắn, Đảng ta đã nêu cao quyết tâm hành động, tìm tòi sáng tạo trong phương pháp cách mạng, chỉ đạo linh hoạt cuộc cách mạng miền Nam, đánh thắng địch từng bước, làm thất bại từng chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ, cuối cùng thực hiện cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn.
Câu 186: Đặc điểm tình hình và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đề ra (9-1960)?
1. Đặc điểm tình hình và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gồm:
Một là: Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ cá thể.
Hai là: Đất nước ta đang tạm thời chia cắt làm hai miền do âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai.
Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng.
Ba là: Các nước chủ nghĩa xã hội đang phát triển, sự hợp tác phân công trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành và phát triển, đồng thời cũng phát sinh những hiện tượng bất đồng phức tạp.
Trong ba đặc điểm ấy, đặc điểm to lớn của cách mạng nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2. Đại hội xác định đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để: thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thương nghiệp nhỏ, và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Xây dựng lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật.
Những mục tiêu phải đạt tới là: Đưa nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá, khoa học tiên tiến.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất, tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc, lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc mau chóng thành cơ sở ngày càng vững mạnh cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Câu 187: Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
1. Đặc điểm
a) Đây là cuộc chiến tranh lâu dài, quyết liệt được tiến hành trong hoàn cảnh:
- Ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân cũ của đế quốc Pháp, đã giành được thắng lợi oanh liệt ở Điện Biên Phủ. Đảng và nhân dân ta đã có những kinh nghiệm và có lực lượng vũ trang khá lớn mạnh.
- Tuy lúc đầu ở miền Nam, lực lượng của ta còn chưa mạnh, song ta có miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội làm hậu phương, căn cứ địa cho cả nước.
- Có sự giúp đỡ ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân thế giới.
b) Là cuộc chiến đấu không cân sức giữa hai quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự khác nhau
- Là tiêu điểm của cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai hệ thống xã hội, hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau không dễ thoả hiệp, không dễ chấp nhận thất bại, nên nó mang tính chất thời đại.
- Ta chống Mỹ trong hoàn cảnh đất nước bị chia làm hai miền, nên vừa phải giải quyết những vấn đề của chiến tranh lại vừa giải quyết những vấn đề về kinh tế, phải tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng nhằm vào một mục tiêu chung trước mắt là thống nhất Tổ quốc.
2. Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta: Đã quét sạch được quân xâm lược ra khỏi đất nước, kết thúc cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài gần một phần ba thế kỷ (1945-1975), đồng thời kết thúc hơn một thế kỷ (1858-1975) đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới của hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ; đưa lại độc lập, thống nhất, hòa bình cho dân tộc, kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; mở ra một thời kỳ mới: cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Đối với thế giới: Đã đánh bại một cuộc chiến tranh tàn bạo, ác liệt, có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai; làm phá sản liên tiếp nhiều học thuyết và thủ đoạn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, phá vỡ một mắt xích quan trọng và mạnh nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở Đông - Nam Á, góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ, mở ra sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình thế giới. Đây là một thắng lợi đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
3. Những nhân tố thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố tạo nên:
- Cuộc kháng chiến của ta vì chính nghĩa và có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của dân tộc.
- Quân dân cả nước với tinh thần yêu nước, bất khuất, chịu đựng mọi hy sinh, gian khổ, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, đặc biệt là sự đấu tranh quyết liệt một mất một còn của đồng chí, đồng bào miền Nam "Thành đồng của Tổ quốc".
- Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giành được nhiều thắng lợi làm cho miền Bắc giữ vững được vai trò căn cứ địa của cả nước, hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam, chi viện có hiệu quả cho quân dân miền Nam trực tiếp đánh bại giặc Mỹ và tay sai, đồng thời đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ tiến hành đối với miền Bắc.
- Sự đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự giúp đỡ, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân tiến bộ trên thế giới trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
4. Những bài học kinh nghiệm
- Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng hướng vào một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, hoàn thành thống nhất Tổ quốc, hướng cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hết sức coi trọng việt xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam, đồng thời ra sức tổ chức, xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước. Lực lượng cách mạng bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng, Mặt trận dân tộc với khối liên minh công - nông làm nền tảng, lực lượng vũ trang với ba thứ quân và đội quân chính trị quần chúng... Biết dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ mọi sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế.
- Phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo (đó là sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân...); nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo ra thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt, giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
- Có sự chỉ đạo và tổ chức chiến đấu tài giỏi của các cấp bộ đảng và các cấp chỉ huy quân đội.
Câu 188: Những thành quả và ý nghĩa của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 ?
Phân tích thành quả và những hạn chế của miền Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1954 đến năm 1975 không thể tách rời bối cảnh lịch sử của đất nước và quốc tế.
1. Thành quả và những hạn chế của miền Bắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1954 đến năm 1975
- Đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1975, trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố định đã thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955. Trong công nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như: điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện kim... Một số ngành công nghiệp nhẹ đã được xây dựng.
Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu cho hàng chục vạn héc-ta đất canh tác. Quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được trang bị máy móc nhỏ. Đã có những cố gắng bước đầu trong việc áp dụng một số thành tựu mới về khoa học - kỹ thuật. Những cố gắng nói trên đã tạo ra cho nông nghiệp những chuyển biến lớn: tăng năng suất và tăng vụ, đảm bảo lương thực, thực phẩm trong chiến tranh.
- Cơ cấu xã hội - giai cấp đã có sự thay đổi lớn. Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. Giai cấp công nhân đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp nông dân đã trở thành giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu - ruộng đất.
Khồi liên minh công nông được củng cố trên cơ sở mới. Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động bình đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội ngày càng được củng cố.
- Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh Tính đến đầu năm 1975, cứ 3 người, có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình độ trên đại học, đại học và trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960. Mạng lưới y tế được mở rộng. Số bác sĩ, y sĩ tăng 13,4 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung phong phú, góp phần xây dựng cuộc sống mới và con người mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục phát triển. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch bệnh không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy mức sống còn thấp và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin tưởng và tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Và còn thực hiện xuất sắc vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đóng góp sức người sức của cùng nhân dân miền
Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đánh giá: "Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội".
Đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, thì những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được là rất lớn.
Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, yếu kém. Sau hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã hội vẫn là lao động thủ công. Năng suất lao động rất thấp. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tình hình đó cộng với nhịp độ dân số tăng nhanh (gấp đôi so với 20 năm trước) làm cho nền kinh tế gặp khó khăn gay gắt.
Nguyên nhân khó khăn: xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt, quy mô lớn kéo dài.
Đảng ta đã phạm những thiếu sót, khuyết điểm bắt nguồn từ nhận thức còn giản đơn, nóng vội, duy ý chí, chịu ảnh hưởng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước khác, không tính toán đầy đủ đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế khác trong khi sản xuất còn thấp kém, ngăn chặn sự phát triển kinh tế hàng hoá.
Những thiếu sót, khuyết điểm trên còn bắt nguồn sâu xa từ những thiếu sót chung của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới thời chiến tranh lạnh với mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, phi thị trường.
2. Ý nghĩa của thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1954-1975
- Khẳng định chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng là phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng miền Bắc và yêu cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.
Câu 189: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu và thiếu sót, khuyết điểm của 10 năm (1975-1986) đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa như thế nào?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) là đại hội mở đầu quá trình đổi mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với thái độ khách quan khoa học, "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", Đại hội đã đánh giá đúng thực trạng của đất nước, từ đó xác định các mục tiêu, bước đi và nhiệm
vụ cách mạng trước mắt, tiếp tục đưa cách mạng nước ta tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Đánh giá thành tựu và thiếu sót:
1. Về thành tựu
Từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, lại chịu hậu quả chiến tranh lâu dài, nhân dân ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế. Trong hoàn cảnh đó nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu khắc phục khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã ngăn chặn được đà giảm sút của những năm 1979 - 1980. Từ năm 1981 đã đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm của thời kỳ 1976-1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981 - 1985. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4% so với 0,4% thời kỳ 1976-1980.
Về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật đã hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng ngàn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi-măng, cơ khí, thuỷ lợi, giao thông. Các công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An đã được xây dựng.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, đã áp dụng những thành tựu về khoa học, kỹ thuật, thực hiện rộng rãi phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động trong nông nghiệp, đã góp phần quan trọng tạo nên bước phát triển của nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc xây dựng quan hệ kinh tế ở nông thôn.
Các ngành kinh tế đã thu hút thêm 4 triệu lao động. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn học nghệ thuật phát triển và có đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Các hoạt động khoa học, kỹ thuật được triển khai góp phần thúc đẩy sản xuất. Nhanh chóng thực
hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa trong cả nước, tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế giành được những thắng lợi to lớn.
Công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân đã đạt được kết quả đáng kể. Sự tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa phát triển, quan hệ hữu nghị với các nước độc lập dân tộc, các lực lượng tiến bộ và hoà bình đã có bước phát triển mới.
2. Về khó khăn, khuyết điểm
Thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta đang đứng trước những khó khăn to lớn: sản xuất tăng chậm so với yêu cầu và khả năng vốn có của nền kinh tế, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.
Những mất cân đối lớn của nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng... giữa thu và chi, giữa sản xuất và nhập khẩu chậm được thu hẹp, có mặt còn gay gắt hơn trước.
- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được cải tạo và sử dụng tốt.
- Đời sống nhân dân, nhất là công nhân viên chức còn nhiều khó khăn. Nhiều người lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm.
- Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và của các cơ quan nhà nước. Trong các nghị quyết tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) Đảng ta đã chỉ rõ thêm thực trạng đất nước trong nhiều năm qua đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
3. Về nguyên nhân của tình hình nói trên
Đại hội chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước và phân tích những nguyên nhân dẫn đến sai lầm.
Những sai lầm, khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình, chưa nhận thức được đầy đủ thời kỳ quá độ là một quá trình lịch sử tương đối dài phải trải qua nhiều chặng đường. Còn chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Sai lầm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng. Biểu hiện nóng vội trong việc xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá. Còn nhiều sai lầm trên lĩnh vực phân phối, lưu thông. Còn sai lầm trong việc phát huy sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý đất nước...
Đại hội cũng chỉ ra rằng: "Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm nói trên là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội; là khuynh hướng buông lỏng quản lý kinh tế - xã hội. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh.
Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng ta".
Câu 190: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đã đánh giá về quá trình thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta trong những năm 1987 - 1991 như thế nào?
Từ năm 1987-1991 là thời gian có nhiều thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước và diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Đảng ta đã kiên trì đường lối đổi mới, đề ra và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện có kết quả một số chủ trương, chính sách lớn về đối nội và đối ngoại, mở ra hướng phát triển mới của đất nước.
1. Về đánh giá thành tựu
Đại hội đã nêu ra nhận định: "tổng quát lại, sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng".
Về kinh tế - xã hội: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện ba chương trình kinh tế (lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu). Về lương thực - thực phẩm: đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. Hàng tiêu dùng có bước phát triển mới cả về sản xuất và lưu thông. Hàng hoá đa dạng và lưu thông tương đối thuận tiện, có tiến bộ về chất lượng.
Kinh tế đối ngoại được mở rộng cả về quy mô và hình thức: Kim ngạch xuất khẩu tăng. Đã giảm được mức độ nhập siêu trước đây.
Có chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế. Nhiều công trình công nghiệp nặng quan trọng được khởi công từ những năm trước đã được đưa vào sử dụng. Đã hình thành một số ngành sản xuất mới có triển vọng tốt như dầu khí, công nghiệp lắp ráp hàng điện tử... Nhiều loại hình,
nhiều tổ chức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ mới ra đời và phát triển nhanh góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá và phục vụ đời sống nhân dân.
Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội. Đã kiềm chế được một bước đà lạm phát. Giá trị đồng tiền Việt Nam được tăng lên, sức mua của nhân dân được khôi phục dần.
Khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển và bước đầu phát huy được vai trò động lực trong việc phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường nghiên cứu ứng dụng, góp phần phát triển sản xuất.
Kết quả của quá trình đổi mới kinh tế nói trên đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mặc dầu còn nhiều khó khăn.
Về chính trị: "tình hình chính trị ổn định", tuy vậy, vẫn còn những nhân tố có thể gây mất ổn định không thể xem thường.
Sự ổn định chính trị nói trên bắt nguồn từ truyền thống yêu nước và kinh nghiệm lịch sử của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả tổng hợp của những tiến bộ bước đầu về kinh tế, đời sống, về thực hiện dân chủ hoá xã hội, cùng với những thành tựu trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại... đã góp phần quan trọng trong việc củng cố niềm tin của nhân dân ta vào tiền đồ của chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự ổn định chính trị trước những tác động phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước.
Tuy vậy, chúng ta phải đề cao cảnh giác không thể xem thường những nhân tố trong nước và ngoài nước có thể gây mất ổn định. Đảm bảo tình hình chính trị nước ta luôn ổn định, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về văn hoá, giáo dục và y tế: mặc dầu còn nhiều khó khăn, song đã đạt được một số tiến bộ đáng kể.
Các mặt quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt được những thành tựu quan trọng: Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu nói trên tuy là bước đầu nhưng rất quan trọng, bởi vì nhân dân ta đã đạt được các thành tựu nói trên trong điều kiện trong nước có những khó khăn gay gắt, quốc tế có những diễn biến phức tạp và chủ nghĩa đế quốc tiếp tục bao vây, cấm vận và chống phá cách mạng nước ta. Mặt khác, những thành tựu nói trên chứng tỏ rằng: đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Qua thực tiễn, chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên.
2. Về khó khăn, yếu kém và khuyết điểm
Đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; công cuộc đổi mới còn có những mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết. Đáng chú ý là những vấn đề lớn sau đây:
- Lạm phát còn ở mức cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tiếp tục tăng lên.
- Chế độ lương quá bất hợp lý, đời sống của người ăn lương hoặc trợ cấp xã hội và một bộ phận nhân dân bị giảm sút. Tốc độ tăng dân số còn cao.
- Sự nghiệp văn hoá, xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp.
- Tình trạng tham nhũng, bất công xã hội chưa giải quyết được nhiều; lối sống thực dụng, mê tín dị đoan phát triển.
- Tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều. Việc thực hiện kỷ cương, pháp luật chưa nghiêm.
- An ninh, trật tự và an toàn xã hội còn phức tạp. Vẫn có những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị không thể xem thường.
- Bộ máy đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân còn cồng kềnh, phong cách làm việc còn quan liêu, kém hiệu lực.
- Không ít cán bộ, đảng viên không đủ phẩm chất và năng lực đảm đương nhiệm vụ, thậm chí thoái hoá biến chất, không được quần chúng tín nhiệm.
Đại hội cũng chỉ ra rằng: nguyên nhân của những mặt khó khăn, yếu kém nói trên có phần là do hậu quả của nhiều năm trước đây để lại và là khó khăn của quá trình đi lên, vừa do những tác động bất lợi của tình hình thế giới. Song, cần nhấn mạnh những khuyết điểm chủ quan trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước: chưa kịp thời đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới; khuyết điểm về công tác tổ chức cán bộ, về nâng cao chất lượng đảng viên; thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý, còn nhiều thiếu sót, sơ hở trong quản lý, điều hành các mặt của đời sống kinh tế - xã hội...
Đánh giá đúng thành tựu và khó khăn, khuyết điểm, chỉ ra những bài học kinh nghiệm của hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới là cơ sở quan trọng để Đảng ta và nhân dân ta phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt những mục tiêu kinh tế - xã hội trong 5 năm tới do Đại hội VII đề ra.
Câu 191: Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và 10 năm đổi mới (1986-1996)
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 tức từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến năm 1995 là những năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII, đất nước ta đã đạt đượm những thành tựu quan trọng sau đây:
Một là, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991-1995).
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 8,2%; về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%; về kim ngạch xuất khẩu là 20%. Đầu tư cơ bản toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 là 27,4% GDP. Nước ta đã bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Lương thực không những đủ ăn mà mỗi năm còn xuất khẩu được bình quân 2 triệu tấn gạo. Lạm phát giảm từ 67,1% năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
Hai là, tạo ra được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu ngày một tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm có thêm một triệu lao động có việc làm.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ đất nước, vào Đảng và Nhà nước tăng thêm.
Ba là, giữ vững được chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được củng cố.
Đảng ta chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được tăng cường.
Bốn là, thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội. Đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992; sửa đổi bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể có những đổi mới và tiến bộ hơn.
Năm là, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, cấm vận; tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới: Nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước.
Như vậy, công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1995) đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII của Đảng đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã hoàn thành về cơ bản. Tuy một số mặt còn chưa vững chắc nhưng nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã hội đủ những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Câu 192: Những bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới là gì? Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986-1995), Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu những bài học chủ yếu sau đây:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhậy cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trí. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi thủ đoạn lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" nhằm gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại phải dựa trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng ta phải luôn luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đối với một Đảng cộng sản cầm quyền hoạt động trong nền kinh tế thị trường lại có sự tác động của những thủ đoạn diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch từ bên ngoài thì việc luôn luôn cảnh giác với hai nguy cơ là chệch hướng và tha hoá biến chất của đội ngũ dẫn đến xa dân phải được coi là một nhiệm vụ thường xuyên có ý nghĩa sống còn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng.
Câu 193: Những thành tựu và bài học sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1995-2000)
Trong 5 năm - từ 1995 đến 2000 - sự nghiệp đổi mới được tiếp tục triển khai mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu và cũng đã thu được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v.. Nhìn chung cả thế và lực của cách mạng nước ta vẫn không ngừng được củng cố và tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế vẫn được nâng cao, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng vẫn được giữ vững. Mặc dù đã phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức của thiên tai, của tác động khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và của cả những nhược điểm và thiếu sót chủ quan v.v. dẫn đến giảm nhịp độ tăng trưởng về kinh tế.
Những thành tựu và bài học của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII (1995-2000) cũng như những thành tựu và bài học của 15 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI, lần thứ VII đến Đại hội lần thứ VIII, đang được Đảng ta tổng kết một cách đầy đủ và toàn diện để chuẩn bị cho Đại hội IX khi đất nước bước vào thiên niên kỷ mới.
Câu 194: Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của bài học kinh nghiệm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội?
1. Nội dung của bài học kinh nghiệm:
a) Bài học kinh nghiệm nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một bài học quan trọng mà Đảng ta giải quyết đúng đắn, sáng tạo phù hợp với những điều kiện lịch sử của thời đại mới về mối quan hệ:
- Giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp;
- Giữa con đường giải phóng dân tộc với con đường giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động bị áp bức, bóc lột.
b) Đường lối đó đã được Đảng ta thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng
- Thời kỳ Bác Hồ tìm đường cứu nước và chuẩn bị vận động thành lập Đảng:
+ Trong thời đại mới, sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc chỉ có thể gắn liền với cuộc cách mạng vô sản vai trò lãnh đạo là giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ".
+ Trong "Chính cương vắn tắt", "Sách lược vắn tắt", "Luận cương chính trị" đều xác định: cách mạng Việt Nam, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục đích cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
- Thời kỳ cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930-1945):
Trong thời kỳ này, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là mục tiêu trực tiếp, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa mới chỉ là phương hướng, là triển vọng tiến lên của cách mạng Việt Nam.
Đặt cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong phương hướng, triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ quy định tính triệt để của cuộc cách mạng đó, vì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng ta tiến hành là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Đó là điều kiện cơ bản để thực hiện cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1945-1975):
+ Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là một hình thái độc đáo, sáng tạo của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có tác dụng quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp đánh đuổi đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam.
+ Nhờ kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và xác định đúng vị trí và nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và miền Nam để đánh Mỹ và thắng Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho phép Đảng ta kết hợp được sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
- Thời kỳ cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa (từ 1975 đến nay):
+ Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ này vẫn là đường lối chiến lược cơ bản của Đảng ta. Vì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải tiếp tục giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với dân tộc...
+ Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội từ đây gắn chặt với nhau. Độc lập dân tộc là điều kiện để nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại đời sống ngày càng tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh, là điều kiện để bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm
- Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một bài học kinh nghiệm lớn, có tính chất bao trùm của Đảng ta vì:
+ Từ khi có Đảng, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam.
+ Là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam.
+ Với đường lối cơ bản này, Đảng ta đã giải quyết thắng lợi một loạt vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Cho phép Đảng ta khơi dậy được sức mạnh của quá khứ, của hiện tại, của tương lai, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh.
Câu 195: Nội dung và ý nghĩa của bài học kinh nghiệm tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế ?
1. Nội dung của bài học kinh nghiệm:
- Cơ sở lý luận của bài học này là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ gắn bó giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng mở ra khả năng thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
- Đây là một vấn đề chiến lược, là một nhân tố quan trọng quyết định thành công của cách mạng nước ta. Vì vậy, trong mọi thời kỳ vận động cách mạng, Đảng ta đã nhận thức và quán triệt tư tưởng đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong đường lối chiến lược và sách lược của mình.
+ Trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng ta đã chỉ rõ: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, ủng hộ Liên bang Xôviết, liên kết với giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp và đoàn kết với phong trào cách mạng thuộc địa, và nửa thuộc địa nhất là Trung Quốc và Ấn Độ...
+ Trong thời kỳ 1930 đến 1945, Đảng ta không ngừng xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc qua các mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở khối liên minh công nông vững chắc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của đường lối đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của Đảng.
+ Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng ta đã huy động được sức mạnh to lớn của khối đoàn kết toàn dân với khẩu hiệu "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" và khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa hai cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
+ Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay của nhân dân ta, vấn đề tăng cường đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế vẫn luôn luôn là một nhân tố cực kỳ quan trọng tác động đến tiến trình phát triển của cách mạng nước ta, nhất là trong tình hình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô khủng hoảng và sụp đổ, nước ta cũng có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội thì hơn lúc nào hết cần phải tăng cường khối đoàn kết dân tộc và đoàn kết hợp tác với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giúp đỡ nhau, cùng có lợi. Có như vậy, thì nước ta mới vượt qua được thách thức, tận dụng được thời cơ phát triển.
2. Để tăng cường đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kinh nghiệm lịch sử cho thấy
- Muốn thực hiện đoàn kết dân tộc phải luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân — giai cấp tiêu biểu cho lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp.
- Phải luôn luôn tôn trọng nguyên tắc "lấy dân làm gốc", coi sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, xem đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết dân tộc, tạo tiền đề cho việc đoàn kết quốc tế.
- Phải luôn luôn nêu cao ý thức tự lực tự cường, tinh thần độc lập tự chủ của nhân dân ta, đồng thời ra sức tranh thủ sự đoàn kết và hợp tác, giúp đỡ quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
- Phải thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả, coi việc tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế vừa là vì lợi ích dân tộc, vừa là nghĩa vụ của nhân dân ta đối với nhân dân các nước khác.
- Trong khi tăng cường và mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, chúng ta không được lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu chống phá cách mạng thế giới và cách mạng nước ta từ phía chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.
Câu 196: Phân tích hoàn cảnh lịch sử ra đời và nội dung cơ bản của "Luận cương chính trị" tháng 10-1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương?
1. Hoàn cảnh lịch sử
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930 thông qua mới chỉ phác ra những nét cơ bản nhất về đường lối cách mạng Việt Nam. Yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng phải có một cương lĩnh đầy đủ, toàn diện hơn.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, một cao trào cách mạng rộng lớn của quần chúng diễn ra ngày càng sôi nổi và đang trên đà phát triển mạnh.
Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú sau một thời gian học ở Liên Xô, được Quốc tế cộng sản cử về nước hoạt động và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được giao nhiệm vụ soạn thảo "Luận cương chính trị".
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 10-1930, Hội nghị quyết định đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí Trần Phú được cử làm Tổng bí thư. Hội nghị đã thông qua "Luận cương chính trị".
2. Nội dung cơ bản
"Luận cương chính trị" gồm 13 mục, trong đó, tập trung những vấn đề lớn:
Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, trước hết làm cách mạng tư sản dân quyền, bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng tư sản dân quyền có nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Luận cương cũng phân tích rõ thái độ đối với cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng bạo lực, con đường khởi nghĩa vũ trang. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền "không phải là một việc thường", mà là một nghệ thuật "phải theo khuôn phép nhà binh".
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp vô sản, là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng; phải liên hệ mật thiết với quần chúng, với vô sản và các dân tộc thuộc địa, với các lực lượng cách mạng thế giới.
Nối tiếp và kế thừa những định hướng lớn được vạch rõ từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ai Quốc khởi thảo, "Luận cương chính trị" tháng 10-1930 đã xác định những vấn đề rất cơ bản trong đường lối chiến lược của Đảng ta.
Tư tưởng lớn bao trùm của Cương lĩnh chính trị tháng 10-1930 vẫn là quán triệt định hướng gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Song bên cạnh đó, Cương lĩnh này vẫn còn những hạn chế như chưa chỉ ra được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa, chưa xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Trong khi nhấn mạnh vai trò của công nông, chưa chú ý đúng mức đến vai trò, vị trí và khả năng cách mạng của các giai cấp và tầng lớp khác. Nói một cách cụ thể là đã nhấn mạnh một chiều đến đấu tranh giai cấp, chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề dân tộc. Khơi dậy tinh thần yêu nước vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc ta; sách lược và phương pháp cách mạng chừng nào đã còn thiếu linh hoạt, mềm dẻo.
Những hạn chế nói trên, sau đó ít lâu, đã được các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp theo khắc phục.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cau Hoi Lich Su Dang Cong San Viet Nam.doc