Bước 1: Xác định chỉ tiêu liên quan. Trên cơ
sở tham khảo bộ chỉ tiêu của các tổ chức tài
chính uy tín và các quốc gia đi trước, lựa chọn
các chỉ tiêu liên quan đến ổn định tài chính cho
Việt Nam. Các chỉ tiêu đề xuất sẽ được nhóm tác
giả làm rõ ở phần sau.
Bước 2: Khảo sát chuyên gia. Mục đích của
bước này là để đánh giá mức độ phù hợp của các
chỉ tiêu lựa chọn dựa trên ý kiến của chuyên gia
về dữ liệu quá khứ. Có thể thiết kế bảng hỏi để
các chuyên gia xếp hạng mức độ ảnh hưởng của
các chỉ tiêu dựa trên các sự kiện tài chính kinh tế
của Việt Nam trong quá khứ đến mức độ ổn định
của hệ thống tài chính theo thang điểm từ 0 đến 5.
Bước 3: Lựa chọn chỉ tiêu phù hợp. Trên cơ
sở các chỉ tiêu đã lựa chọn và điểm của các chỉ
tiêu theo xếp hạng của chuyên gia, chọn lọc ra
các chỉ tiêu có ảnh hưởng nhất. Với thang điểm
khảo sát từ 0 đến 5, nhóm nghiên cứu đề xuất các
chỉ tiêu được chọn nên là các chỉ tiêu có điểm
xếp hạng trên trung b nh (trên 2.5 điểm). Các chỉ
tiêu nên được nhóm lại theo cụm giúp phản mức
độ ổn định theo từng khu vực.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 517 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống đo lường ổn định tài chính ở Việt Nam thực trạng và đề xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
90 
HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT 
Nguyễn Quỳnh Thơ1, Nguyễn Thị Lâm Anh2 
Tóm tắt 
Sự ổn định tài chính là điều kiện để hệ thống tài chính hoàn thành tốt các chức năng của nó. Trạng thái 
này chỉ có thể đạt được khi các thành phần của nó, bao gồm các thị trường tài chính quan trọng và hệ 
thống tổ chức tài chính, đặc biệt là ngân hàng, cũng như cơ sở hạ tầng tài chính đạt được sự ổn định và 
lành mạnh. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, các nhà điều hành nhận thức được 
những tác động tiêu cực của khủng hoảng, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện đo lường mức độ 
ổn định tài chính dưới dạng các chỉ tiêu hoặc bộ chỉ số. Hiện nay Việt Nam mới đang bước đầu xây 
dựng báo cáo ổn định tài chính, sử dụng hệ thống chỉ tiêu riêng rẽ theo từng khu vực. Tuy nhiên, các bộ 
chỉ số còn cồng kềnh và khó đánh giá được thực trạng ổn định tài chính một cách đơn giản và bao quát. 
Bài viết dưới đây sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống tài chính Việt Nam, đặc biệt là hệ thống hóa các 
công cụ đo lường ổn định tài chính Việt Nam, từ đó đề xuất xây dựng chỉ tiêu ổn định tài chính tổng hợp 
để đánh giá khái quát mức độ ổn định của hệ thống tài chính qua một chỉ tiêu duy nhất. 
Từ khóa: Ổn định tài chính, chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất, công cụ đo lường ổn định tài chính. 
MEASURING FINANCIAL STABILITY IN VIETNAM 
CURRENT SITUATION AND RECOMMENDATIONS 
Abstract 
Financial stability is a condition in which the financial system smoothly fulfil its functions. This state 
can only be reached when its components including the key financial markets and the financial 
institutional system, especially banking sector, as well as financial infrastructure achieve stability and 
soundness. Since the 2008 global financial crisis, policy makers have recognized the negative effects of 
crisis and emphasised the importance of financial stability measurement in the form of quantitative 
indicators or set of indicators. Currently, Vietnam has started to construct financial stability reports, 
using separate indicators for selected sectors. However, the set of indicators are cumbersome and 
difficult to assess the actual financial stability in a simple and comprehensive way. This article will 
focus on the actual performance of Vietnam's financial system, especially the current measures of 
financial stability in Vietnam, thereby proposing to develop an aggregate financial stability index to 
assess financial stability of Vietnam easilier by a single indicator. 
Keywords: Financial stability, single aggregate financial stability index, measures of financial stability. 
JEL classification: G; G17 
1. Giới thiệu hệ thống tài chính Việt Nam 
Nhìn chung, quy mô hệ thống tài chính Việt 
Nam hiện nay vẫn còn ở mức khiêm tốn so với 
các nước trong khu vực. Thị trường tài chính 
trong những năm qua chưa phát triển đúng theo 
mong muốn của nhà điều hành. Mặc dù thị 
trường chứng khoán và tiền tệ vẫn phát triển 
mạnh mẽ trong thời gian qua, nguồn vốn cung 
ứng chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Tỉ trọng 
nguồn vốn ngắn hạn cao trong khi tỉ trọng nguồn 
vốn trung và dài hạn thấp khiến nền kinh tế 
không đủ nguồn lực đảm bảo phát triển bền 
vững. Hệ thống luân chuyển dòng vốn cũng chưa 
hiệu quả, thể hiện qua sự bất hợp lý trong việc 
phân bổ nguồn lực giữa các ngành kinh tế. 
1.1. Thị trường tài chính Việt Nam 
Thị trường tài chính Việt Nam bao gồm hai 
cấu phần là thị trường tiền tệ và thị trường vốn, 
trong đó tín dụng ngân hàng giữ vai trò chủ đạo 
và đảm bảo việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. 
Cụ thể, cung ứng vốn từ các tổ chức tín dụng 
(TCTD) chiếm tới 60% - 80% trong giai đoạn 
2012 - 2018. Mặc dù tỷ trọng có xu hướng giảm 
dần, năm 2012 tỷ trọng cung ứng vốn từ các 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
91 
TCTD là 78,4%, năm 2018 tỷ trọng cung ứng 
vốn của khu vực này vẫn chiếm đến 63,1%. Bên 
cạnh đó, cơ cấu thị trường tài chính có sự chuyển 
biến tích cực theo xu hướng giảm bớt sự phụ 
thuộc vào các TCTD, tăng cường vai trò của thị 
trường vốn trong việc huy động vốn cho toàn bộ 
nền kinh tế. 
Hình 1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế 2012 - 2018 
Nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính Quốc Gia năm 2017- 2018 
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Giám 
sát tài chính Quốc Gia (UBGSTCQG) năm 2017, 
năng lực cung ứng vốn của thị trường tài chính 
của Việt Nam còn rất hạn chế so với các nước 
trong khu vực [8]. Trong giai đoạn 2012 - 2017, 
độ sâu tài chính (Độ sâu tài chính cho biết quy 
mô của khu vực trung gian tài chính so với nền 
kinh tế, được tính theo công thức 
[M2(M3)/GDP]) Việt Nam chỉ đạt dưới 
200%/GDP trong khi Indonesia và Thái Lan đạt 
trên 500%, Philippin và Malaysia đạt trên dưới 
400%. Tỷ lệ vốn hoá trên GDP của thị trường 
chứng khoán (TTCK) Việt Nam cũng đạt rất thấp 
- ở mức 70% cuối năm 2017, trong khi ở 
Singapore là 227%, Hồng Kông là 1036%, và 
Thái Lan là 104%. 
Về cấu trúc của thị trường tài chính (TTTC), 
thị trường tiền tệ Việt Nam được hình thành từ 
những năm 1990, đã dần phát triển và hoàn thiện 
các cấu phần bao gồm thị trường tín dụng ngắn 
hạn, thị trường hối đoái, thị trường liên ngân 
hàng, và thị trường mở. Từ năm 2015 - 2017, 
thanh khoản của hệ thống TCTD đạt mức ổn 
định, nguồn vốn huy động tăng từ 17 – 19%, tín 
dụng toàn hệ thống tăng gần 20%, lãi suất trên 
thị trường ổn định (lãi suất huy động VND kỳ 
hạn trên 12 tháng giao động ở mức 6,4% - 7,2%; 
lãi suất cho vay ở mức 6,8 – 11%/ năm) [7]. 
Về thị trường vốn Việt Nam, TTCK Việt 
Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000 
với hai sàn giao dịch chứng khoán là HOSE và 
HNX, đóng vai trò mở ra kênh dẫn vốn trung và 
dài hạn trong nền kinh tế. Tới tháng 6/2009, thị 
trường Upcom (thị trường dành cho các công ty 
đại chúng chưa đủ điều kiện niêm yết trên HOSE 
và HNX) được khai trương với trị giá vốn hoá ban 
đầu 4.260 tỷ đồng, tới tháng 6/2018 đạt 656.436 
tỷ đồng. Cùng với thị trường niêm yết, thị trường 
trái phiếu Việt Nam cũng được hình thành và triển 
khai chủ yếu trên sàn HNX từ năm 2006. Thị 
trường trái phiếu Việt Nam cũng đã phát triển 
vượt bậc với quy mô dư nợ trái phiếu chính phủ 
(TPCP) đạt hơn 1.000 tỷ đồng vào thời điểm 
2005, tăng lên 900.000 tỷ đồng sau 10 năm hoạt 
động với tốc độ tăng trưởng trung b nh đạt 23%. 
Tới tháng 8/2017, thị trường chứng khoán phái 
sinh Việt Nam chính thức đi vào hoạt động, đánh 
dấu bước phát triển mới của TTCK Việt Nam, đưa 
Việt Nam trở thành quốc gia thứ 5 trong khu vực 
ASEAN và là quốc gia thứ 42 trên thế giới có thị 
trường tài chính bậc cao này. 
Tuy nhiên, nếu so với khung cấu trúc hiện 
đại của TTTC, cấu trúc của TTTC Việt Nam cần 
được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Cụ thể, thị 
trường tín dụng trung và dài hạn chủ yếu tập 
78.4% 76.7% 75.5% 76.2% 72.0% 
64.6% 63.1% 
21.6% 23.3% 24.5% 23.8% 28.0% 
35.4% 36.9% 
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Cung ứng vốn từ TCTD Cung ứng vốn từ thị trường vốn 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
92 
trung ở mảng TPCP và vay NHTM dài hạn, quy 
mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn rất 
thấp (4%/GPD trong năm 2017), thanh khoản 
k m, chưa có tổ chức định mức tín nhiệm trái 
phiếu. Thị trường cho thuê tài chính còn quá nhỏ 
với mức dư nợ 8.700 tỷ đồng trong năm 2017, 
chiếm 0,16% tổng dư nợ của các TCTD [1]. 
Hình 2. Khung cấu trúc thị trường tài chính 
Nguồn: Tổng hợp của tác giả 
Hình 3. Cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam 
Nguồn: Tổng hợp của tác giả 
1.2. Tổ chức tài chính 
Số lượng, loại hình và quy mô của các tổ 
chức tài chính trong hệ thống tài chính Việt Nam 
ngày càng tăng và đa dạng, đáp ứng nhu cầu vốn 
ngày càng lớn của nền kinh tế. 
Đối với các tổ chức tín dụng, các NHTM 
Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc. Trong 
những năm đầu mới thành lập, hệ thống ngân 
hàng chỉ có 4 NHTM nhà nước, 4 NHTM cổ 
phần, một số ít HTX tín dụng, chưa có chi nhánh 
ngân hàng nước ngoài và ngân hàng nước ngoài. 
Đến năm 2018, hệ thống NHTM đã phát triển 
mạnh mẽ với 4 NHTM nhà nước, 31 NHTM cổ 
phần, đặc biệt có 9 ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài. Để củng cố chất lượng của các NHTM, 
NHNN đã triển khai các đề án “Cơ cấu lại hệ 
Thị trường tài 
chính 
Thị trường tiền tệ 
TT tín dụng ngắn TT hối đoái 
TT liên ngân hàng Thị trường mở 
Thị trường vốn 
TT chứng khoán 
TT tín dụng trung 
và dài hạn 
TT cho thuê tài 
chính 
TT cầm cố bất 
động sản 
2000 - 
Thị 
trường 
chứng 
khoán 
1900s - 
Thị 
trường 
tiền tệ 
Thị 
trường 
tài 
chính 
2006 - Thị 
trường 
trái phiếu 
chính phủ 
2009 - 
Thị 
trường 
upcom 
2017 - 
Thị 
trường 
CK phái 
sinh 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
93 
thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 
2015” và “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với 
xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020”. Tuy nhiên, 
theo đánh giá của UBGSTCQG (2017), tỷ lệ nợ 
xấu của toàn hệ thống vẫn còn ở mức cao mặc dù 
có xu hướng giảm [7]. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống 
TCTD đạt khoảng 9,5% vào cuối năm 2017, 
giảm mạnh so với mức cuối năm 2016, chủ yếu 
là do các khoản nợ xấu tiềm ẩn trong nợ cơ cấu 
lại, trái phiếu doanh nghiệp, và các khoản thu 
bên ngoài khó thu hồi giảm [6]. Ngoài ra, khi so 
sánh với một số quốc gia châu Á, mặc dù hiệu 
suất sinh lời của hệ thống TCTD Việt Nam đã có 
sự cải thiện mạnh trong giai đoạn 2012 – 2017, 
ROE của các TCTD Việt Nam vẫn ở mức thấp so 
với một số quốc gia như Indonesia, Malaysia, 
Thailand và Singapore. 
Hình 4. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam 
Nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính Quốc Gia năm 2017 
Hình 5. ROE của các tổ chức tín dụng Việt Nam so với một số quốc gia 
 Nguồn: IMF năm 2018 
Đối với các tổ chức hoạt động trên thị 
trường chứng khoán, số lượng, quy mô vốn, 
nghiệp vụ và công nghệ của các tổ chức này 
cũng có sự phát triển nhanh chóng. Năm 2000, 
chỉ có 7 công ty chứng khoán hoạt động, đến 
năm 2017, toàn thị trường có khoảng 79 công ty 
chứng khoán (CTCK) và 46 công ty quản lý quỹ 
với tổng số vốn điều lệ là 3.785 tỷ đồng. Tuy 
nhiên số lượng của các CTCK này được coi là 
quá nhiều so với quy mô và nhu cầu của TTCK. 
2.6% 
9.5% 
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
 -
 50,000
 100,000
 150,000
 200,000
2013 2014 2015 2016 2017
Giá trị nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu báo cáo Tỷ lệ nợ xấu đánh giá lại 
0
10
20
30
2012 2013 2014 2015 2016 2017
Indonesia Thái Lan Singapore Việt Nam 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
94 
Cụ thể, so với các nước trong khu vực như Trung 
Quốc với khoản trên 100 triệu tài khoản giao 
dịch (chiếm 8% dân số) cũng chí có số lượng 
CTCK tương đương Việt Nam trong khi tổng số 
tài khoản trên TTCK Việt Nam mới đạt mức 
0,7% dân số; hay trong trường hợp của Thái Lan, 
Singapore, và Malaysia chỉ có 40, 26, và 33 
CTCK trong khi quy mô giao dịch lớn hơn Việt 
Nam rất nhiều. Hơn nữa, tiềm lực tài chính của 
các CTCK Việt Nam còn khá thấp, quy mô vốn 
điều lệ rất nhỏ so với các NHTM. 
Các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cũng 
tăng nhanh cả về quy mô và chất lượng. Tính tới 
cuối năm 2017, toàn thị trường có 64 doanh 
nghiệp bảo hiểm, bao gồm 29 DNBH phi nhân 
thọ, 18 DNBH nhân thọ, 14 doanh nghiệp môi 
giới bảo hiểm, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 1 
chi nhánh DNBH phi nhân tho nước ngoài. Đến 
hết năm 2017, tổng tài sản toàn thị trường bảo 
hiểm đạt 302.935 tỷ đồng, tăng 23,44% so với 
năm 2016; với tổng số tiền đầu tư trở lại nền 
kinh tế khoản 247.801 tỷ đồng, tăng 26,74% so 
với năm 2016. Tuy nhiên các DNBH Việt Nam 
được đánh giá là có năng lực cạnh tranh thấp, 
dịch vụ chưa đa dạng, mạng lưới không ổn định, 
tr nh độ nghiệp vụ chưa chuyên nghiệp. Vốn 
pháp định hiện nay đối với DNBH phi nhân thọ 
là 300 tỷ đồng do đó quy mô và khả năng cạnh 
tranh của các DNBH Việt Nam với DNBH nước 
ngoài là rất khó khăn. 
1.3. Công cụ tài chính 
Các công cụ tài chính ngày càng được đa 
hạng hoá và có giá trị gia tăng cao dựa trên nền 
tảng công nghệ hiện đại. Trên thị trường tín dụng 
– ngân hàng, sản phẩm và dịch vụ của các 
NHTM trong nước đã được đa dạng hoá, nâng 
cao chất lượng và tiện ích cho khách hàng như: 
tiện ích tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, 
dịch ngân hàng hiện đại như phone banking, 
internet banking, và mobile banking. 
Trên thị trường chứng khoán, tính từ khi 
TTCK Việt Nam bắt đầu giao dịch vào năm 2000 
đến cuối năm 2017, số lượng doanh nghiệp niêm 
yết đã tăng từ 2 lên gần 800 doanh nghiệp. Các 
sản phẩm chứng khoán cũng trở nên đa dạng 
hơn, ngoài những sản phẩm truyền thống như cổ 
phiếu, trái phiếu, còn có hệ thống các sản phẩm 
chỉ số đa dạng như: HNX index, HNX 30, Bộ chỉ 
số quy mô, Bộ chỉ số ngành, Upcom Index, 
Upcom Premium, Hệ thống chỉ số trái phiếu 
Ngoài ra, với sự ra đời của TTCK phái sinh trong 
tháng 8/2017, các nhà đầu tư cũng đã có thêm 
các sản phẩm mới để thực hiện đầu tư cũng như 
phòng hộ rủi ro. 
Trên thị trường bảo hiểm, ngoài các sản 
phẩm truyền thống, sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự 
nguyện được triển khai từ năm 2013. Tới năm 
2017, đã có 6 doanh nghiệp triển khai dịch vụ 
bảo hiểm hưu trí là AIA, Bảo Việt Nhân Thọ, 
Dai-ichi, Manulife và Prudential [4]. 
1.4. Cơ sở hạ t ng tài chính 
Đối với thị trường tín dụng – ngân hàng, 
khung pháp lý về thanh tra, giám sát ngày càng 
được hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế. 
Mô h nh giám sát ngân hàng đã chuyển từ mô 
hình giám sát tại chỗ sang giám sát từ xa gắn với 
thanh tra trực tiếp để đảm bảo giám sát thường 
xuyên, liên tục đối với các TCTD. Hơn nữa, hoạt 
động giám sát đã mở rộng từ hình thức giám sát 
tuân thủ sang xây dựng hệ thống giám sát mang 
tính cảnh bảo rủi ro cho hoạt động của từng ngân 
hàng cũng như toàn hệ thống, như áp dụng các 
tiêu chuẩn CAMELS, Basel I, Basel II. Ngoài ra, 
NHNN thường xuyên ban hành, cập nhật các quy 
định về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong 
hoạt động của TCTD giúp cho ngành NH phát 
triển ổn định. 
Đối với TTCK, hệ thống văn bản pháp quy 
đã được hoàn thiện và ban hành, bao gồm luật, 
nghị định, thông tư liên quan đến phát hành, giao 
dịch cổ phiếu, trái phiếu, các đề án tái cấu trúc 
TTCK, lộ trình phát triển thị trường trái phiếu 
đến năm 2020 , tạo điều kiện cho TTCK hoạt 
động ổn định và phát triển. Cơ chế giám sát được 
thực hiện theo hai cấp là cấp giám sát của Uỷ ban 
Chứng khoán Nhà nước và cấp giám sát của các 
Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký 
chứng khoán nhằm nâng cao hiệu quả của thị 
trường chứng khoán. 
Đối với thị trường bảo hiểm, các quy định 
về hoạt động quản lý, giám sát thị trường đã 
ngày càng hoàn thiện góp phần hỗ trợ thị trường 
và đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia 
bảo hiểm, ví dụ như các quy định về chế độ tài 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
95 
chính của DNBH, chế độ kế toán áp dụng cho 
các DHNH phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc 
tế và chuẩn mực tế toán Việt Nam, hay khung 
pháp lý cho việc thành lập chi nhánh DNBH phi 
nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam và việc cung 
cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới. 
2. Thực trạng hệ thống đo lường ổn định 
tài chính của Việt Nam 
Khi đánh giá mức độ ổn định của hệ thống 
tài chính, các cơ quan điều hành ở các quốc gia 
sử dụng các công cụ hoặc các bộ công cụ khác 
nhau. Ở cấp độ sơ khai, công cụ mà các nhà điều 
hành sử dụng là các chỉ tiêu riêng lẻ giúp đánh 
giá mức độ ổn định trong từng khu vực. Các chỉ 
tiêu này được các ngân hàng trung ương trên thế 
giới lựa chọn trên cơ sở sự phù hợp và sẵn có để 
đánh giá mức độ ổn định tài chính của quốc gia 
họ, và được tổng hợp trong báo cáo ổn định tài 
chính (Financial Stability Reports) của mình. 
Ở cấp độ cao hơn, các nhà nghiên cứu kết 
hợp từ nhiều chỉ tiêu riêng lẻ và phát triển thành 
chỉ số tổng hợp. Đây là bộ chỉ số giúp đo lường và 
đánh giá sự ổn định, lành mạnh của hệ thống tài 
chính theo từng khu vực kinh tế. Các bộ chỉ số 
này được xây dựng bởi các tổ chức quốc tế và 
ngân hàng trung ương một số quốc gia với mục 
tiêu gợi ý cho các nước trong việc tự đánh giá, đo 
lường mức độ lành mạnh và ổn định của hệ thống 
tài chính. Các bộ chỉ số phổ biến có thể kể đến 
như bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF (IMF 
Financial Soundness Indicators-FSIs), bộ chỉ số 
an toàn vĩ mô của ECB (ECB Macroprudential 
Indicators-MPIs), bộ chỉ số an toàn vĩ mô của 
ADB (ADB Macroprudential Indicators). 
Không dừng lại ở đó, những năm gần đây, 
công cụ đánh giá mức độ ổn định tài chính được 
tiến hóa thêm một bước nữa. Theo đó, thay v sử 
dụng bộ chỉ số để đánh giá, các nhà nghiên cứu 
đã và đang nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm 
chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất 
(Single Aggregate Index of Financial Stability – 
AIFS) ở một số quốc gia. Chỉ số tổng hợp duy 
nhất cho ph p đánh giá một cách tổng quát mức 
độ ổn định của cả hệ thống tài chính thông qua 
một chỉ số duy nhất. 
Ở Việt Nam, ba bộ công cụ đang được sử 
dụng là (i) Chỉ số lành mạnh tài chính của IMF; 
(ii) Bộ chỉ số sử dụng trong báo cáo tổng quan 
thị trường tài chính của Ủy ban Giám sát tài 
chính Quốc Gia; (iii) Bộ chỉ số sử dụng trong 
Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước. 
Hiện Việt Nam chưa có chỉ số ổn định tài chính 
tổng hợp duy nhất. Các bộ công cụ đo lường mức 
độ ổn định tài chính mà Việt Nam đang sử dụng 
sẽ được tr nh bày dưới đây. 
2.1. Chỉ số lành mạnh tài chính (Financial 
Soundness Indicators – FSI) của IMF 
Việt Nam là một trong 11 quốc gia Châu Á 
thực hiện công bố Bộ chỉ số lành mạnh tai chính 
trên website của IMF. Bộ chỉ số lành mạnh tài 
chính bao gồm 40 chỉ số tài chính, bao gồm: (i) 25 
chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ 
chức nhận tiền gửi (12 chỉ số lõi và 13 chỉ số 
khuyến khích); (ii) 2 chỉ số phản ánh tình hình tài 
chính của khu vực tổ chức tài chính khác; (iii) 5 chỉ 
số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức 
phi tài chính; (iv) 2 chỉ số phản ánh tài chính của 
khu vực hộ gia đ nh; (v) 2 chỉ số phản ánh tình hình 
thanh khoản của thị trường; (vi) 4 chỉ số phản ánh 
tình hình của thị trường bất động sản [2]. 
Giống như trường hợp của các quốc gia 
đang phát triển khác, Việt Nam chưa thực hiện 
công bố đầy đủ 40 chỉ tiêu, mà chủ yếu tập trung 
công bố bộ chỉ số thứ (i) 25 chỉ số phản ánh tình 
hình tài chính của khu vực tổ chức nhận tiền gửi. 
Việt Nam chưa thực hiện công bố với 5 bộ chỉ số 
còn lại, duy nhất công bố chỉ số “Dư nợ tín dụng 
đối với lĩnh vực bất động sản dành cho khu 
thương mại so với tổng dư nợ” trong nhóm chỉ số 
phản ánh tình hình của thị trường bất động sản. 
Do đó bộ chỉ số lành mạnh tài chính do Việt 
Nam công bố trên website của IMF chủ yếu tập 
trung đánh giá chỉ số lành mạnh của các tổ chức 
tín dụng thay vì mức độ ổn định và lành mạnh 
của toàn bộ hệ thống tài chính. 
2.2. Bộ chỉ số sử dụng trong Báo cáo tổng quan 
thị trường tài chính của Ủy ban Giám sát tài 
chính Quốc Gia 
Báo cáo Tổng quan thị trường tài chính 
được UBGSTCQG tiến hành nghiên cứu và xây 
dựng từ năm 2013 và kể từ năm 2015 chính thức 
nằm trong danh mục báo cáo định kỳ (thường 
niên) của Uỷ ban [6]. Trước khi đi vào đánh giá 
về khu vực tài chính, báo cáo khái quát bối cảnh 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
96 
kinh tế tài chính thế giới và bối cảnh kinh tế vĩ 
mô ở Việt Nam trong năm báo cáo. 
Để đánh giá mức độ ổn định của khu vực tài 
chính, báo cáo sử dụng các tiêu chí và chỉ số để 
đánh giá 4 khu vực sau: (i) Đánh giá chung khu 
vực tài chính; (ii) Thị trường tài chính; (iii) Định 
chế tài chính; và (iv) Khu vực phi tài chính (bao 
gồm khu vực doanh nghiệp và thị trường bất 
động sản). 
Thứ nhất, báo cáo thực hiện đánh giá chung 
về khu vực tài chính thông qua các nhóm chỉ số 
lớn sau: (1) Quy mô và hoạt động của hoạt động 
hệ thống tài chính Việt Nam; (2) Khả năng cung 
ứng vốn cho nền kinh tế; (3) Xử lý nợ xấu; (4) 
Cơ cấu tín dụng theo ngành nghề; (5) Tăng 
trưởng tín dụng tiêu dùng; (6) Tăng trưởng chỉ số 
chứng khoán. 
Thứ hai, khi đánh giá về thị trường tài 
chính, báo cáo tập trung vào ba thị trường chính 
là thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối và thị 
trường vốn. Thị trường tiền tệ được xem xét 
thông qua các chỉ số về thanh khoản của hệ 
thống TCTD và lãi suất thị trường. Thị trường 
ngoại hối được đánh giá thông qua hai chỉ số là 
chênh lệch giữa lãi suất VND và USD và tăng 
trưởng huy động ngoại tệ. Đối với thị trường 
vốn, báo cáo đánh giá thị trường trái phiếu (trái 
phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp), thị 
trường cổ phiếu, và dòng vốn đầu tư nước ngoài. 
Thứ ba, khi đánh giá về các định chế tài 
chính, báo cáo tập trung vào đánh giá hoạt động 
của hệ thống các TCTD, của hệ thống CTCK, và 
các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó, định chế 
tài chính được đánh giá chi tiết nhất là hệ thống 
các tổ chức tín dụng, sau đó đến các CTCK và 
cuối cùng là các doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt 
động của hệ thống các TCTD được đánh giá toàn 
diện thông qua các nhóm chỉ số về cơ cấu tài sản, 
cơ cấu nguồn vốn, thị phần tín dụng và huy 
động; chất lượng tín dụng, thanh khoản tín dụng, 
khả năng sinh lời và mức đủ vốn. Hoạt động của 
hệ thống CTCK và các doanh nghiệp bảo hiểm 
được đánh giá thông qua các chỉ tiêu cơ bản như 
tăng trưởng tài sản, tăng trưởng quy mô vốn chủ 
sở hữu, cơ cấu danh mục đầu tư, tỷ lệ vốn khả 
dụng b nh quân và tăng trưởng lợi nhuận. 
Thứ tư, báo cáo thực hiện đánh giá khu vực 
doanh nghiệp phi tài chính và trường hợp đặc 
biệt của khu vực bất động sản. Báo cáo đánh giá 
chung về khu vực doanh nghiệp phi tài chính 
thông qua các chỉ số về quy mô; hiệu quả sản 
xuất; cơ cấu vốn, tài sản và khả năng thanh toán; 
và cơ cấu tín dụng. Đối với riêng khu vực bất 
động sản, báo cáo xem xét về biến động trong 
giao dịch, giá và cung cầu thị trường đồng thời 
ước tính nguồn vốn chảy vào lĩnh vực bất động 
sản (vốn FDI và vốn trong nước). 
2.3. Bộ chỉ số sử dụng trong Báo cáo thường 
niên của Ng n hàng Nhà nước 
 Ngoài bộ chỉ số lành mạnh tài chính của 
IMF và các chỉ tiêu đánh giá mức độ ổn định tài 
chính của UBGSTCQG, Ngân hàng Nhà nước 
(NHNN) trong báo cáo thường niên của mình 
cũng đưa ra hệ thống chỉ số để đánh giá thị 
trường và các định chế tài chính. Tuy nhiên, bộ 
chỉ số của NHNN sử dụng chủ yếu dùng để đánh 
giá mức độ ổn định của thị trường tiền tệ và hoạt 
động của các TCTD [3]. 
 Để đánh giá diễn biến thị trường tiền tệ, 
NHNN thực hiện đánh giá diễn biến tiền tệ, diễn 
biến lãi suất, thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị 
trường ngoại tệ, diễn biến giá vàng và thị trường 
chứng khoán. Để đánh giá hoạt động của các tổ 
chức tín dụng, NHNN tập trung đánh giá tài sản 
và vốn của các TCTD, hiệu quả hoạt động của 
TCTD, và chất lượng tín dụng. 
 Bộ chỉ số của NHNN có phạm vi giống như 
phạm vi của bộ chỉ số lành mạnh tài chính của 
IMF tuy nhiên không chi tiết bằng. So với bộ chỉ 
số của UBGSTCQG, phạm vi của bộ chỉ số của 
NHNN hẹp hơn nhưng lại có ưu điểm về tính hệ 
thống hoá cao, giúp cho việc so sánh và đánh giá 
mức độ ổn định của thị trường tiền tệ và hoạt 
động của các TCTD hiệu quả hơn. Như vậy, nhìn 
chung hệ thống công cụ đo lường ổn định tài 
chính của Việt Nam hiện nay tương đối đồ sộ. 
Mỗi bộ chỉ số bao gồm từ vài chục đến hơn 100 
chỉ tiêu. Số lượng lớn các chỉ tiêu như vậy một 
mặt giúp các nhà điều hành có cái nhìn chi tiết về 
hệ thống tài chính. Tuy nhiên, lại chỉ cho phép 
đánh giá mức độ ổn định tài chính trong từng 
khu vực hoặc lĩnh vực mà không có khả năng 
bao quát thực trạng ổn định tài chính của cả hệ 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
97 
thống. Việc này gây khó khăn cho các nhà điều 
hành trong việc đánh giá mức độ ổn định tài 
chính của cả hệ thống. Khả năng phân tích để 
đánh giá mức độ ổn định tài chính của cả hệ 
thống theo đó cũng bị hạn chế. Đặc biệt, điều này 
còn làm hạn chế khả năng cảnh báo khủng hoảng 
cho hệ thống tài chính Việt Nam. Thực tế, Việt 
Nam vẫn chưa có một chỉ số nào có khả năng 
phản ảnh mức độ ổn định tài chính qua một chỉ 
số duy nhất. Chính vì vậy, việc xây dựng một chỉ 
số bao quát, chỉ số ổn định tài chính tổng hợp 
duy nhất là điều cần thiết. Đây cũng là xu hướng 
thế giới hiện nay hướng tới. Rất nhiều các quốc 
gia đã bắt đầu tập trung xây dựng và thử nghiệm 
sử dụng chỉ số này trong việc đánh giá mức độ 
ổn định của hệ thống tài chính như chỉ số ổn định 
tài chính FSI của Hàn Quốc, chỉ số ổn định tài 
chính tổng hợp Composite Financial Stability 
Index của châu Âu, chỉ số tình trạng ổn định tài 
chính của Hà Lan (Financial Stability 
Conditional Index – FSCI), chỉ số ổn định tài 
chính tổng hợp (AFSI) của Jamaica, chỉ số 
BAFSI (Balkans Aggregate Financial Stability 
Index) của khu vực Balkans 
3. Đề xuất chỉ số ổn định tài chính tổng 
hợp duy nhất và phương pháp tính chỉ số 
cho Việt Nam 
Tham khảo kinh nghiệm xây dựng chỉ số ổn 
định tài chính tổng hợp duy nhất của nhiều quốc 
gia, nhóm nghiên cứu mạnh dạn đề xuất quy trình 
thiết lập chỉ số tổng hợp gồm 5 bước như sau: 
Hình 6. Đề xuất quy trình thiết lập chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất cho Việt Nam 
Nguồn: Nhóm tác giả xây dựng và đề xuất 
Bước 1: Xác định chỉ tiêu liên quan. Trên cơ 
sở tham khảo bộ chỉ tiêu của các tổ chức tài 
chính uy tín và các quốc gia đi trước, lựa chọn 
các chỉ tiêu liên quan đến ổn định tài chính cho 
Việt Nam. Các chỉ tiêu đề xuất sẽ được nhóm tác 
giả làm rõ ở phần sau. 
Bước 2: Khảo sát chuyên gia. Mục đích của 
bước này là để đánh giá mức độ phù hợp của các 
chỉ tiêu lựa chọn dựa trên ý kiến của chuyên gia 
về dữ liệu quá khứ. Có thể thiết kế bảng hỏi để 
các chuyên gia xếp hạng mức độ ảnh hưởng của 
các chỉ tiêu dựa trên các sự kiện tài chính kinh tế 
của Việt Nam trong quá khứ đến mức độ ổn định 
của hệ thống tài chính theo thang điểm từ 0 đến 5. 
Bước 3: Lựa chọn chỉ tiêu phù hợp. Trên cơ 
sở các chỉ tiêu đã lựa chọn và điểm của các chỉ 
tiêu theo xếp hạng của chuyên gia, chọn lọc ra 
các chỉ tiêu có ảnh hưởng nhất. Với thang điểm 
khảo sát từ 0 đến 5, nhóm nghiên cứu đề xuất các 
chỉ tiêu được chọn nên là các chỉ tiêu có điểm 
xếp hạng trên trung b nh (trên 2.5 điểm). Các chỉ 
tiêu nên được nhóm lại theo cụm giúp phản mức 
độ ổn định theo từng khu vực. 
Kinh nghiệm chia nhóm các chỉ tiêu ở các 
quốc gia rất khác nhau. Tuy nhiên, x t trong điều 
kiện cơ sở dữ liệu có sẵn của Việt Nam, tham khảo 
các bộ chỉ số gợi ý của các quốc gia và tổ chức, 
tham khảo bộ chỉ số đề xuất bởi Phạm Tiên Phong 
(2015) nhóm nghiên cứu đề xuất phân nhóm các 
Bước 5: Tính toán chỉ số tổng hợp 
Bước 4: Xác định tỷ trọng 
Bước 3: Lựa chọn chỉ tiêu phù hợp 
Bước 2: Khảo sát chuyên gia 
Bước 1: Xác định chỉ tiêu liên quan 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
98 
chỉ số phụ theo lĩnh vực kinh tế: (i) ngân hàng; (ii) 
tiền tệ và tín dụng; (iii) chứng khoán; (iv) bảo 
hiểm; (v) các biến số kinh tế vĩ mô khác [5]. Các 
chỉ tiêu cụ thể được đề xuất như sau: 
Bảng 1:. Đề xuất các chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số ổn định tài chính 
 tổng hợp cho Việt Nam 
Chỉ số phụ Chỉ tiêu Cơ sở đề xuất 
Ngân hàng 
Tài sản sinh lời/ Tổng tài sản Phù hợp với VN 
Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản Phù hợp với VN 
Tài sản rủi ro/ Tổng tài sản IMF 
Lãi suất cho vay bình quân TT1 và TT2 IMF 
Tỷ lệ vốn ngắn hạn dùng để cho vay dài hạn Phù hợp với VN 
Tỷ lệ cho vay/ Tổng tài sản ECB 
Vốn chủ sở hữu/ Tổng tài sản ECB 
Nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu ECB, IMF 
Hệ số an toàn vốn CAR ECB, IMF, ADB 
Lãi suất huy động bình quân TT1 và TT2 IMF 
Tiền gửi khách hàng/ Tổng nguồn vốn huy động Phù hợp với VN 
NPL/ Tổng dư nợ cho vay ECB, ADB 
Tỷ lệ chi phí/ Thu nhập IMF, ECB 
Lợi nhuận trước thuế và trích lập dự phòng ECB 
Thu nhập lãi thuần/ Tổng lợi nhuận trước thuế ECB 
ROA IMF, ECB 
ROE IMF, ECB 
Tiền tệ và 
tín dụng 
Tăng trưởng M1 và M2 ECB, ADB 
Tỷ trọng M2/GDP ECB, ADB 
Tỷ lệ tín dụng/GDP Phù hợp với VN 
Tỷ trọng tín dụng đối với DNNN ECB, ADB 
Tỷ trọng tín dụng đối với khu vực tư nhân ECB, ADB 
Lãi suất cơ bản IMF, ADB 
Lãi suất tái cấp vốn Phù hợp với VN 
Lãi suất tái chiết khấu Phù hợp với VN 
Chứng 
khoán 
VNIndex, VN30-Index Phù hợp với VN 
HNX-Index, HNX30-Index Phù hợp với VN 
Vốn hóa thị trường Phù hợp với VN 
Bảo hiểm 
Tỷ lệ vốn cổ phần so với tài sản đầu tư IMF 
Tỷ lệ thu nhập từ phí bảo hiểm trừ đi phần phải trả cho người 
bảo hiểm gốc so với tổng thu nhập từ phí bảo hiểm 
IMF 
Bi n số vĩ 
mô khác 
Tốc độ tăng trưởng GDP IMF, ECB 
Tăng trưởng xuất khẩu ADB 
Tăng trưởng nhập khẩu ADB 
Cán cân tài khoản vãng lai IMF, ADB 
Cán cân tài khoản vốn ADB 
Tỷ giá USD/VND IMF, ADB 
Dự trữ ngoại hối IMF, ADB 
Chỉ số giá tiêu dùng IMF 
Chỉ số giá tài sản (bao gồm cả bất động sản) IMF, ADB 
Tỷ lệ nợ của hộ gia đ nh/ GDP IMF 
Nguồn: Nhóm tác giả xây dựng và đề xuất 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
99 
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, để đảm bảo sự 
phù hợp của các chỉ tiêu trong tính toán chỉ số 
tổng hợp, cũng như tính chính xác của chỉ số 
tổng hợp trong thực tiễn, cần thực hiện bước 
Khảo sát ý kiến chuyên gia trước khi đưa các chỉ 
tiêu vào tính toán. 
Bên cạnh đó, cần tiến hành chuẩn hóa số 
liệu trước khi làm các bước tiếp theo. Có thể sử 
dụng phương pháp min – max để chuẩn hóa số 
liệu theo hệ đo lường 0 – 1. Công thức chuẩn hóa 
số liệu như sau: 
 ( )
 ( ) ( )
Trong đó: 
 là biến số chuẩn hóa tại thời 
điểm t; là giá trị của biến số tại thời điểm t; 
 ( ) và ( ) lần lượt là giá trị cực đại và 
cực tiểu của mỗi biến số. 
 Bước 4: Xác định tỷ trọng. Bước này tính 
toán tỷ trọng của các chỉ tiêu để xác định mức độ 
quan trọng của các chỉ tiêu cấu thành nên chỉ số 
phụ. Trên cơ sở đó tính giá trị của chỉ số phụ 
theo phương pháp b nh quân gia quyền. 
Lặp lại thao tác trên để xác định tỷ trọng của 
chỉ số phụ làm căn cứ để tính chỉ số tổng hợp. 
Bước 5: Tính toán chỉ số tổng hợp. Tính giá 
trị chỉ số tổng hợp theo phương pháp b nh quân 
gia quyền. 
 ∑( )
Trong đó: là chỉ số ổn định tài chính 
tổng hợp duy nhất tại thời điểm t; là tỷ trọng 
của chỉ số phụ i tại thời điểm t. 
Với phương pháp này, chỉ số AIFS có giá trị 
từ 0 - 1, trong đó giá trị gần về 0 biểu thị tình 
trạng tài chính yếu và không ổn định; giá trị gần 
1 thể hiện tình trạng tài chính khỏe mạnh và ổn 
định của hệ thống tài chính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Cấn Văn Lực. (2017). Thuê tài chính – Kênh dẫn vốn trung, dài hạn mới cho doanh nghiệp. Thời 
báo tài chính. 
[2]. IMF. (2018). Financial Soundness Indicators. 
[3]. Ngân hàng Nhà nước. (2016). Báo cáo thường niên năm 2016. 
[4]. Ngân hàng Nhà nước. (2017). Báo cáo thường niên năm 2017. 
[5]. Phạm Tiên Phong. (2015). Xây dựng khuôn khổ an toàn vĩ mô cho hệ thống tài chính Việt Nam. Đề 
tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 
[6]. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc Gia. (2016). Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2016. 
[7]. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc Gia. (2017). Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2017. 
[8]. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc Gia. (2018). Báo cáo tóm tắt tổng quan thị trường tài chính năm 2018. 
Thông tin tác giả: 
1. Nguyễn Quỳnh Thơ 
- Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng 
- Địa chỉ email: thonq@hvnh.edu.vn 
2. Nguyễn Thị Lâm Anh 
- Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng 
Ngày nhận bài: 13/9/2019 
Ngày nhận bản sửa: 23/9/2019 
Ngày duyệt đăng: 25/9/2019 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
he_thong_do_luong_on_dinh_tai_chinh_o_viet_nam_thuc_trang_va.pdf