- KBTB đã xây dựng được mối quan hệ với
các bên liên quan, đã cải tiến việc phân vùng
chức năng. Hệ thống phao neo tàu thuyền gồm
100 cái. Đội tuần tra hoạt động 24/24 nhưng
không có quyền xử phạt trực tiếp. Chất lượng
môi trường nước chưa đến mức nghiêm trọng.
Chỉ có rừng ngập mặn tăng lên về diện tích,
 còn thảm cỏ biển và rạn san hô đều giảm về
diện tích. Các rạn san hô không còn duy trì
trong tình trạng tốt (trừ các rạn xa bờ). Các
hoạt động ngành nghề thay thế không còn được
các hộ ngư dân áp dụng. Nhiều chương trình
tuyên truyền về môi trường biển được thực
hiện trước kia không còn nhiều. KBTB đã thực
hiện cơ chế tài chính bền vững thông qua việc
thu phí tham quan khách du lịch.
- Lượng du khách đến Hòn Mun đã tăng
lên nhanh chóng từ năm 2016 đến 2017. Năm
2017, số khách lặn là 278.439, tổng lượng
khách tham quan là 1.711.773. Đa số các hộ
làm nghề khai thác thủy sản (KTTS) (86%);
nuôi trồng thủy sản (NTTS) 9% và các nghề
khác 5%. Nghề pha xúc ảnh hưởng lớn đến
nguồn lợi thủy sản chiếm tỉ lệ cao nhất (39%);
còn lại là mành, lưới câu, trũ rút, trũ bao. Tỉ lệ
phần trăm số tàu thuyền ở 3 nhóm công suất
(dưới 20 cv, 20 - dưới 90 cv và từ 90 cv trở lên)
gần bằng nhau. Khu vực đánh bắt chủ yếu ở
vùng ven bờ (96%); đánh bắt xa bờ chỉ chiếm
4%. Có 134 bè hoạt động NTTS với 3.729 lồng
nuôi và đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm ở
Hòn Miễu.
- Cộng đồng đã ý thức được tầm quan trọng
của KBTB. Đa số cho rằng môi trường nước
trong sạch (56%) và sản lượng thủy sản giảm
đi rất nhiều (67%). Sự tham gia của cộng đồng
vào quản lý của KBTB không còn, các ban bảo
tồn khóm đều không còn tồn tại.
2. Kiến nghị
- Cần định kỳ đánh giá hiện trạng quản lý
KBTB để cập nhật thông tin và bổ sung vào
nguồn dữ liệu quản lý của hệ thống các KBTB
ở Việt Nam và thế giới.
- Tiến hành nghiên cứu và đánh giá sâu
hơn về hiệu quả quản lý và sức tải du lịch cho
KBTB Vịnh Nha Trang.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 819 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang sau hơn 15 năm thành lập và đề xuất một số giải pháp quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ KHU BẢO TỒN BIỂN VỊNH NHA TRANG SAU HƠN 
15 NĂM THÀNH LẬP VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
 MANAGEMENT STATUS OF NHA TRANG BAY MARINE PROTECTED AREA AFTER 
OVER 15 YEARS OF ESTABLISHMENT AND PROPOSED SOLUTIONS FOR MANAGEMENT
 Tôn Nữ Mỹ Nga¹, Nguyễn Thị Thảo²
Ngày nhận bài: 8/8/2018; Ngày phản biện thông qua: 24/9/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
TÓM TẮT
Một cuộc điều tra được thực hiện để đánh giá hiện trạng quản lý khu bảo tồn biển (KBTB) vịnh Nha 
Trang sau hơn 15 năm thành lập và đưa ra giải pháp quản lý. Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp 
RRA, bộ câu hỏi bán cấu trú với số phiếu điều tra 92, phân tích SWOT. Kết quả cho thấy diện tích KBTB đã 
tăng thêm 89,65 km², được phân vùng chức năng. Chất lượng môi trường nước chưa đến mức nghiêm trọng. 
Chỉ có rừng ngập mặn tăng lên về diện tích; thảm cỏ biển và rạn san hô đều giảm. Các ngành nghề thay thế 
không còn được các hộ ngư dân áp dụng. Nhiều chương trình giáo dục tuyên truyền đã được thực hiện trước 
kia không còn nhiều. Lượng du khách đến Hòn Mun đã tăng lên nhanh chóng từ năm 2016 đến 2017. KBTB 
đã thực hiện cơ chế tài chính bền vững thông qua thu phí tham quan. Đa số các hộ làm nghề khai thác thủy 
sản (86%); nuôi trồng thủy sản 9%, các nghề khác 5%. Nghề pha xúc ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản 
chiếm tỉ lệ cao nhất (39%). Khu vực đánh bắt chủ yếu ở vùng ven bờ (96%). Có 134 bè hoạt động NTTS với 
3.729 lồng nuôi.
Từ khóa: giải pháp, hiện trạng, khu bảo tồn biển, quản lý, Vịnh Nha Trang
ABSTRACT
A survey has been conducted to assess management status of Nha Trang Bay Marine Protected Area 
(MPA) after more than 15 years of establishmentt in order to propose solutions for management. The research 
was done by RRA method, semi-structured questionnaire with 92 questionares, and with SWOT analysis. 
The results showed that the area of the MPA was added 89,65 km and zoned functionally. Water environment 
quality is not serious. Only mangrove forest has increased in the area; sea grass beds and corals decreased. 
Alternative occupations is not applied any more by the farmers’ households. Many propagation education 
programs used to be conducted but not any more now. The number of tourists to Hon Mun increased rapidly 
between 2016 and 2017. The MPA has implimented sustainable fi nancing mechanism based on the entrance fee 
income. The majority of households engaged in fi shing (86%); aquaculture 9%, other occupations 5%. Push 
net fi shing impacts highly on fi shery resources accounted forthe highest percentage (39%). The main fi shing 
zone is coastal one (96%). There are 134 rafts engaged in aquaculture with 3,729 culture cages.
Key words: management, marine protected area, Nha Trang Bay, solutions, status
¹,² Viện Nuôi trồng Thủy sản, trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
KBTB Vịnh Nha Trang được thành lập năm 
2001 với tổng diện tích hiện nay là 249,65 km² 
(đã tăng thêm 89,65 km²) với 2 mục tiêu “giúp 
cộng đồng dân cư ở trên đảo cải thiện cuộc 
sống và cùng với các đối tác bảo vệ và quản 
lý có hiệu quả đa dạng sinh học biển tại Hòn 
Mun để trở thành mô hình quản lý KBTB tại 
Việt Nam”. Theo Kelleher & cộng sự (1995), 
thế giới có 1306 KBTB nhưng số liệu về hiện 
trạng quản lý rất sơ sài. Chỉ có 383 KBTB 
có số liệu về hiệu quả quản lý (trong đó, 117 
KBTB đạt hiệu quả quản lý cao, 155 đạt trung 
bình và 111 đạt thấp). Ngoài ra, theo Salm & 
cộng sự (2000), ở phần lớn các khu vực trên thế 
giới, một số lượng đáng kể các KBTB chỉ tồn 
tại trên giấy tờ mà không có kế hoạch quản lý 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45
nào và không có hoạt động quản lý nào cả. Ở 
Việt Nam, chưa tìm thấy tài liệu nào công bố 
về hiện trạng quản lý của 10 KBTB hiện có. 
Riêng KBTB Vịnh Nha Trang, cũng có một số 
tài liệu nghiên cứu về hiện trạng quản lý nhưng 
không đầy đủ và chỉ tập trung một số mặt. Vì 
vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu xem KBTB Vịnh 
Nha Trang sau hơn 15 năm thành lập hiện đang 
còn những hoạt động quản lý nào rất cần thiết 
trong việc bổ sung nguồn dữ liệu đang rất là 
thiếu thốn. Từ đó, góp phần tìm ra giải pháp 
quản lý hiệu quả hơn. Do đó, chúng tôi đã thực 
hiện đề tài: “Hiện trạng quản lý KBTB Vịnh 
Nha Trang sau hơn 15 năm thành lập và đề 
xuất một số giải pháp quản lý”.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: 12/03/2018- 30/06/2018
Địa điểm nghiên cứu: KBTB Vịnh Nha Trang.
2. Vật liệu nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý 
KBTB Vịnh Nha Trang.
3. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số 
liệu điều tra
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn 
RRA được sử dụng cho nghiên cứu gồm các 
công cụ thu thập số liệu thứ cấp, thu thập số 
liệu sơ cấp, phỏng vấn không chính thức với 
bộ câu hỏi bán cấu trúc đối với cộng đồng địa 
phương khóm Trí Nguyên, Vũng Ngán, Bích 
Đầm và phỏng vấn cán bộ quản lý. 
Số liệu thứ cấp: số liệu về qui chế quản lý, 
phân vùng chức năng, đa dạng sinh học, quan 
trắc chất lượng nước được thu thập từ Ban 
quản lý KBTB Vịnh Nha Trang.
Số liệu sơ cấp: số liệu về các bên liên quan, 
kế hoạch quản lý, hệ thống phao neo tàu thuyền, 
đội tuần tra cứu hộ cứu nạn, các hoạt động hỗ 
trợ phát triển kinh tế - xã hội trong KBTB, giáo 
dục nâng cao nhận thức cộng đồng, cơ chế tài 
chính bền vững, hoạt động du lịch được thu 
thập thông qua phỏng vấn trực tiếp cán bộ ban 
quản lý KBTB; số liệu về cấu trúc ngành nghề 
trong KBTB, công suất tàu KTTS, ngư trường 
KTTS, các nghề KTTS được thu thập thông 
qua phỏng vấn không chính thức cộng đồng 
địa phương. Số phiếu điều tra được tính toán 
theo công thức:
Với: n: số phiếu điều tra (kích cỡ mẫu); N: 
tổng số hộ điều tra; e: xác suất có khả năng gặp 
sai số loại 2 (ở đây lấy e = 10%) (Bhujel, 2007. 
Trích theo Trần Văn Phước & ctv, 2015); N = 
1081 hộ, số phiếu điều tra cần thu là 92 phiếu 
(Trí Nguyên 62 phiếu, Bích Đầm 18 phiếu, 
Vũng Ngán 12 phiếu).
4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN
1. Hiện trạng quản lý KBTB Vịnh Nha Trang
1.1. Các bên liên quan
Trước đây Ban quản lý KBTB Vịnh Nha 
Trang thuộc UBND Tỉnh Khánh Hòa nhưng 
hiện nay đã thuộc về UBND Thành phố Nha 
Trang nên các bên liên quan cũng khác. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy BQL KBTB Vịnh 
Nha Trang có rất nhiều bên liên quan. Đó là 
Đồn Biên phòng Bích Đầm, Phòng Tài Nguyên 
Môi trường, Phòng Nội vụ, Phòng Kinh tế, 
Phòng Cảnh sát Giao thông đường thủy, Công 
an thành phố, Cảng vụ Hàng hải Nha Trang, 
UBND các xã phường ven biển (Vĩnh Nguyên, 
Phước Đồng, Vĩnh Lương, Lộc Thọ, Xương 
Huân, Vĩnh Thọ, Vĩnh Hòa, Vĩnh Trường), 
cộng đồng địa phương sống và làm việc trong 
KBTB. Nhiều bên liên quan sẽ tạo điều kiện 
thuận lợi cho công tác phối hợp quản lý. Tuy 
nhiên, mặc dù đã có qui chế phối hợp nhưng 
sự hợp tác trên thực tế vẫn còn rất hạn chế do 
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. 
Chính vì vậy, BQL đã rất ít khi nhận được sự 
hỗ trợ cần thiết trong quá trình quản lý.
1.2. Các hoạt động quản lý của ban quản lý 
vịnh Nha Trang
1.2.1. Quy chế quản lý KBTB vịnh Nha Trang
Xây dựng cơ sở pháp lý là công cụ quan 
trọng trong việc quản lý KBTB. BQL vịnh Nha 
Trang đã xây dựng được và đưa vào thực thi 
quy chế quản lý vịnh Nha Trang. Qui chế này 
đã được in ra và phát cho tất cả các tàu bè hoạt 
động trong KBTB Vịnh Nha Trang. So với quy 
46 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
chế tạm thời của ban quản lý vịnh KBTB Vịnh 
Nha Trang năm 2002, quy chế mới có thêm các 
quy định về đầu tư tôn tạo, khai thác và phát 
huy giá trị của vịnh Nha Trang, phục vụ chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc 
phòng. 
1.2.2. Kế hoạch quản lý KBTB vịnh Nha Trang
Kế hoạch quản lý là một công cụ rất quan 
trọng không thể thiếu được trong việc quản lý 
KBTB. Kết quả nghiên cứu cho thấy KBTB 
Vịnh Nha Trang là KBTB đầu tiên ở Việt Nam 
với kế hoạch quản lý đã được dày công biên 
soạn bởi BQL dự án KBTB Hòn Mun cùng với 
các bên liên quan và cộng đồng địa phương 
trong suốt nhiều năm liền khi còn dự án nhưng 
cho đến nay, kế hoạch quản lý vẫn chưa được 
UBND thành phố Nha Trang phê duyệt. Do đó, 
việc thực hiện công tác quản lý còn gặp nhiều 
khó khăn. Các hoạt động xây dựng ảnh hưởng 
lớn đến các hệ sinh thái trong KBTB không 
được xử lý, làm suy giảm đa dạng sinh học 
và các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển... 
Trong khi đó, KBTB Cù Lao Chàm của tỉnh 
Quảng Nam là KBTB thứ hai nhưng đã được 
UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt kế hoạch 
quản lý từ lâu ( 
1.2.3. Phân vùng chức năng
Phân vùng là phương pháp để giải quyết 
mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, mâu 
thuẫn giữa các hình thức sử dụng ở vùng ven 
bờ. Kết quả nghiên cứu cho thấy KBTB Vịnh 
Nha Trang khi vừa mới thành lập đã thực hiện 
được việc phân vùng: vùng lõi, vùng đệm và 
vùng sử dụng chung. Hiện nay, 3 vùng này đã 
được đổi tên thành phân khu bảo vệ nghiêm 
ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu 
phát triển vào năm 2004 và đã được xác định 
ranh giới rõ ràng với diện tích được tăng lên.
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Các hoạt 
động bị nghiêm cấm là khai thác tài nguyên 
thiên nhiên (sinh vật và phi sinh vật) (trừ hoạt 
động khai thác tổ yến và 2 đầm đăng ở Hòn 
Mun và Hòn Nọc được tạm thời hoạt động cho 
đến khi có quyết định mới). 
Phân khu phục hồi sinh thái: Các hoạt động 
bị nghiêm cấm là khai thác nguồn lợi sinh vật 
và phi sinh vật.
Phân khu phát triển: Các hoạt động có 
kiểm soát được phép là nuôi trồng thủy sản, 
khai thác thủy sản, du lịch sinh thái, giáo dục 
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Các hoạt động 
không được phép là khai thác thủy sản bằng 
công cụ có tính hủy diệt như chất độc, chất nổ, 
giã cào, ánh sáng mạnh.
Theo chúng tôi, hoạt động của đầm đăng 
vẫn được cho phép trong phân khu bảo vệ ng-
hiêm ngặt là không hợp lý vì lượng cá được 
phục hồi bao nhiêu thì bị vào lưới đầm đăng 
bấy nhiêu. Đây có thể là một trong những yếu 
tố ảnh hưởng đến sự suy giảm đa dạng sinh 
học trong KBTB. Khi mới thành lập KBTB, 
đầm đăng được xem là nghề truyền thống nên 
tạm thời vẫn được phép hoạt động. Tuy nhiên, 
đã hơn 15 năm thành lập thì việc xem xét hủy 
bỏ hoặc di dời đầm đăng cũng nên khẩn trương 
được thực hiện. 
1.2.4. Hệ thống phao neo tàu thuyền
Hệ thống phao neo tàu thuyền được lắp đặt 
để tránh việc thả neo lên rạn san hô. Kết quả 
điều tra cho thấy hệ thống phao neo tàu thuyền 
hiện có là 100 chiếc. Nếu so với số liệu khảo 
sát của Trần Lam Hồng (2012) thì số lượng 
phao neo đã tăng lên gần gấp đôi.
1.2.5. Đội tuần tra-cứu hộ, cứu nạn
Khi KBTB mới được thành lập, đội tuần tra 
cưỡng chế đã ra đời với nhiệm vụ tuần tra trong 
vùng lõi 24/24. Hiện nay, đội đã được đổi tên 
thành đội tuần tra- cứu hộ, cứu nạn với 2 đội và 
2 nhiệm vụ khác nhau là tuần tra trên biển và 
cứu hộ, cứu nạn tại các bãi tắm biển.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đội tuần tra có 
12 người, có tính chuyên nghiệp với phương 
tiện, kỹ thuật đủ để tuần tra, bảo vệ gìn giữ các 
hệ sinh thái; tham gia tuần tra có sự phối hợp 
với Phòng Cảnh sát Môi trường Công an tỉnh, 
BCH Bộ đội Biên phòng tỉnh, Thanh tra Thủy 
sản và các cơ quan, đơn vị có liên quan. Ngoài 
ra, đội còn kịp thời ngăn ngừa, phòng chống 
nguy cơ suy thoái môi trường, cảnh quan trong 
Vịnh Nha Trang, kiểm tra, kiểm soát, lập biên 
bản, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm quy 
chế quản lý vịnh Nha Trang. Đội được trang bị 
1 tàu có công suấ t 255 CV gồm đầ y đủ má y 
đị nh vi, ra đa, camera hành trình, hệ thố ng đè n 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47
chiế u sá ng công suất lớn, công cụ hỗ trợ (3 roi 
điệ n, gậ y cao su, má y chụ p ả nh ). Thời gian 
tuần tra là 24/24 giờ. Tổng số vụ vi phạm đội 
đã phát hiện và xử lý, tham mưu UBNDTP ra 
quyết định xử phạt trong năm 2017 là 49 vụ với 
số tiền nộp phạt 272.100.000 đồng. Trong đó, 
lĩnh vực thủy sản có 17 trường hợp vi phạm với 
số tiền nộp phạt 165.000.000 đồng. Có trường 
hợp khai thác tại phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 
Hòn Mun, Đội đã xử lý, tham mưu UBNDTP 
ra quyết định xử phạt 25.000.000 đồng.
1.2.6. Giám sát, đánh giá các hoạt động trong 
KBTB vịnh Nha Trang
a. Giám sát, đánh giá chất lượng nước 
Kết quả phỏng vấn cho biết hiện nay có 4 
ống cống nước mưa của thành phố đổ xả ra 
Vịnh Nha Trang. Còn các ông cống nước thải 
sẽ được đưa đi để xử lý nhưng vì ống cống 
nước thải cũng cùng hệ thống xả với ống cống 
nước mưa nên vào những ngày mưa lớn, khi 
lượng nước mưa tăng nhanh thì nước mưa sẽ 
hòa trộn với nước cống và cửa xả tự động mở. 
Do đó, nước cống sẽ bị đổ ra vịnh. BQL vịnh 
Nha Trang đã phối hợp với Viện Nghiên cứu 
Nuôi trồng Thủy sản III tiến hành khảo sát, 
đánh giá chất lượng nước từ năm 2006 đến nay, 
mỗi năm 1 lần. Môi trường nước năm 2017 có 
giá trị pH phân bố đều tại các trạm quan trắc, 
DO khá cao, TSS cao hơn vào mùa mưa nhưng 
trong giới hạn cho phép. Hàm lượng kim loại 
nặng Zn, Cu, As, Pb, Cd và Hg trong nước khá 
thấp so với giá trị giới hạn. Riêng Fe trong 
nước tầng mặt tại vị trí cửa sông Cái vượt giá 
trị giới hạn cho phép 1,5 lần vào mùa mưa. Mật 
độ vi sinh Coliform và Vibrio tăng vào mùa 
mưa. Mật độ vi khuẩn Vibrio vượt giới hạn cho 
phép trong tầng nước mặt tại vị trí cửa sông 
Tắc, trong nước tầng đáy khu vực gần cống Dã 
Tượng và tại trạm Hòn Miễu. Mật độ vi khuẩn 
Coliform vượt giá trị giới hạn tại các vị trí cửa 
sông Cái, cửa sông Tắc và khu vực gần cống 
Dã Tượng. Nhìn chung, chất lượng môi trường 
nước trong vịnh Nha Trang chưa đến mức ng-
hiêm trọng. 
b. Giám sát, đánh giá đa dạng sinh học:
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc đánh giá 
đa dạng sinh học đã được khảo sát vào năm 
2002, 2005, 2007, 2011, 2015 và 2017. Theo 
Nguyễn Văn Long (2017), KBTB vịnh Nha 
Trang có 3 hệ sinh thái: rừng ngập mặn, thảm 
cỏ biển và rạn san hô. 
Rừng ngập mặn: có diện tích 5,4 ha ở Đầm 
Báy (2,3 ha tự nhiên và 3,1 ha trồng mới), gồm 
6 loài đước, vẹt dù, mắm biển, sú, cóc trắng và 
giá. Diện tích có tăng lên.
Thảm cỏ biển: có 52,4 ha với 7 loài. Phần 
lớn các thảm cỏ biển bị suy giảm độ phủ và 
mật độ cỏ biển (ở Đầm Già, Đầm Tre và Hòn 
Chồng). Thảm cỏ biển bị mất 64 ha (tương 
đương 45% ở Bãi Tiên, Phú Quý, Mũi Nam 
và Vũng Me, Đầm Già, Sông Lô) do các hoạt 
động xây dựng. Các thảm cỏ biển còn lại vẫn 
duy trì trong tình trạng tương đối tốt, mật độ 
động vật đáy khá cao. Thân mềm, giáp xác và 
da gai giảm số lượng loài và duy trì ổn định 
mật độ, giun nhiều tơ lại tăng cả số lượng loài 
và mật độ theo thời gian. Động vật đáy có 115 
taxa, 73 giống và 64 họ (giun: 58, giáp xác: 
26, da gai: 11 và thân mềm: 20). Mật độ động 
vật đáy: 8.398 - 10.107 cá thể/m² (giáp xác: 
4.166, thân mềm: 3.260 và giun nhiều tơ: 1.775 
cá thể/m²). Động vật đáy kích thước lớn: 16,2 
con/100m² (0,0 – 32,1 con/100m²), chủ yếu là 
cầu gai đen (15,9 con/100m²)
Rạn san hô: có diện tích 754,1 ha với 468 
loài thuộc 29 chi và 201 giống (rong lớn: 41 
loài, san hô tạo rạn: 166, thân mềm: 65, da gai: 
17 và cá rạn: 179). Độ giàu có và phong phú 
loài: 74 ± 6,4 loài và 149,7 ± 13,5 bậc/250m². 
Khu vực có mức độ đa dạng cao: Hòn Một, 
Hòn Mun, Hòn Rơm, Đ Hòn Tre, Bãi Bàng, 
Hòn Cau. Rạn san hô bị mất 117,4 ha (13,5%; 
Đầm Già, Đường Đệ, Sông Lô, Bãi Tiên, Eo 
Cỏ). Tỷ lệ rạn rất tốt duy trì ổn định (xấp xỉ 
4%) nhưng số rạn xấu và rất xấu tăng theo thời 
gian. Độ phủ san hô cứng duy trì ổn định trong 
toàn vùng (21,5–23,6%) nhưng giảm 4,1% 
ở phân khu bảo vệ không nghiêm ngặt. Tuy 
nhiên, các rạn san hô không còn duy trì trong 
tình trạng tốt (trừ các rạn xa bờ). Cá rạn: 135 
con/100m² (8,5 - 290 con/100m²), chủ yếu là 
cá cảnh (112,5 con/100m²), rất ít cá thực phẩm 
(22,6 con/100m²).
Có sự thay đổi cấu trúc quần xã sinh vật 
48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
rạn theo thời gian. Trong đó, mức độ giàu có 
và độ phong phú loài trong năm 2015 giảm 2 
lần so với năm 2002, đặc biệt quần xã san hô 
tạo rạn và rong lớn. Các khu vực bị giảm đáng 
chú ý nhất là Hòn Mun, Hòn Rơm, Hòn Nọc, 
Bãi Sạn, Đ.Hòn Tre, Bãi Bàng, Hòn Vung và 
Hòn Cau. Có 25 nhóm đối tượng chủ yếu được 
khai thác với tổng sản lượng hàng năm ước đạt 
327,4 tấn, doanh thu khoảng 11,11 tỷ đồng; 
nguồn lợi tôm hùm giống hàng năm ước trên 
212.000 con, doanh thu khoảng 32,34 tỷ đồng. 
Các thảm rong mơ và rạn san hô là khu vực bãi 
đẻ và ương giống của các đối tượng quan trọng 
như mực lá, bào ngư, ốc đụn, ốc mặt trăng, tôm 
hùm bông, tôm hùm xanh, tôm đỏ, cá dìa, cá 
giò.
1.2.7. Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trong 
KBTB
Kết quả khảo sát cho thấy hiện nay, các hoạt 
động tạo thu nhập phụ của dự án BQL (ban 
quản lý) trước đây không còn được các hộ ngư 
dân áp dụng vì họ cho rằng chúng không đáp 
ứng đủ thu nhập và tốn nhiều thời gian. Vì vậy, 
họ đã chuyển sang làm các nghề phụ như bốc 
vác, làm dịch vụ, phục vụ nhà hàng mang lại 
cho họ nguồn thu nhập cao hơn. Kết quả này 
rất khác biệt so với kết quả đạt được trước đây. 
Theo BQL vịnh Nha Trang (2017), sau 10 năm 
thành lập KBTB, BQL đã phối hợp với Ngân 
hàng Chính sách xã hội tỉnh cho hàng trăm hộ 
dân trong KBTB vay vốn ưu đãi để phát triển 
sinh kế với số vốn 646 triệu đồng từ Ngân hàng 
Thế giới. Ngoài ra, BQL còn phối hợp Hội phụ 
nữ phường Vĩnh Nguyên cho phụ nữ nghèo 
vay 84 triệu đồng, cho tổ hợp tác Nguyên Hòa 
ở Trí Nguyên vay 150 triệu đồng làm mành ốc; 
hỗ trợ người dân thành lập tổ thuyền thúng đáy 
kính ở Hòn Một, hỗ trợ 1 bè nổi cho đội thuyền 
thúng ở Trí Nguyên đón khách du lịch, duy trì 
và phát triển các nghề truyền thống như mành 
ốc, đan lưới thể thao, hỗ trợ kinh phí đào 
tạo cho 15 con em ở các đảo Trí Nguyên, Bích 
Đầm, Hòn Một và Tây Hải 2 với các ngành 
nghề lễ tân, nấu ăn Âu, Á, làm bánh, pha chế 
tại trường Trung cấp du lịch Hoa Sữa (Hà Nội) 
và Trung tâm đào tạo nghề Nhà hàng, Khách 
sạn Yasaka. 
1.2.8. Quản lý các hoạt động kinh tế 
a. Hoạt động du lịch
Hiện nay, chưa thể thống kê được có bao 
nhiêu khách đến tham quan KBTB Vịnh Nha 
Trang mà chỉ có thể thống kê được lượng khách 
đến Hòn Mun thông qua vé tham quan bán ra. 
Kết quả nghiên cứu lượng khách đến tham 
quan Hòn Mun được trình bày ở hình 1. Hình 1 
cho thấy lượng khách lên đảo, khách lặn, tổng 
khách tham quan đến Vịnh đã tăng lên nhanh 
Hình 1. Lượng khách đến tham quan 
Hòn Mun năm 2016, 2017
chóng từ năm 2016 đến 2017. Năm 2017, số 
khách lặn là 278.439, tổng lượng khách tham 
quan là 1.711.773, trung bình mỗi ngày có 
763 khách lặn và 4.690 khách tham quan. Nếu 
theo tính toán sức tải của Nguyễn Văn Hoàng 
(2012), Hòn Mun có thể nhận 6.318 đến 7.582 
khách lặn có khí tài mỗi ngày thì lượng khách 
lặn vẫn chưa bị quá tải. Tuy nhiên, sức tải này 
vẫn chưa được tính toán trên khía cạnh kinh tế 
và xã hội nên có thể chưa chính xác. Ngoài ra, 
những ngày cao điểm thì lượng khách có thể 
sẽ vượt tải. Hơn nữa, cho dù lượng khách lặn 
chưa vượt tải và có biển báo không được giẫm 
đạp lên san hô nhưng hành động có giẫm đạp 
lên hay không cũng không ai có thể kiểm soát 
được nên hoạt động lặn vẫn luôn tiềm ẩn rủi 
ro rất lớn đối với hệ sinh thái này. Ngoài ra, 
trên thực tế khả năng tải của một điểm du lịch 
còn phụ thuộc rất lớn vào hành vi ứng xử của 
khách du lịch và điều kiện cơ sở vật chất, dịch 
vụ du lịch. Hiện nay có trên 15 câu lạc bộ lặn 
hoạt động trong KBTB với nhiều loại hình vui 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 49
chơi giải trí như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, 
khám phá, tham quan, các trò chơi cảm giác 
mạnh. Trên 200 tàu thuyền du lịch và ca nô làm 
dịch vụ đưa đón khách tham quan trên các đảo. 
Lượng khách du lịch tăng nhưng cầu cảng chật 
hẹp, khu vực nhà thông tin, bãi nghỉ ngơi của 
du khách không được đầu tư tương xứng. Từ 
những điều nói trên rất dễ dẫn đến tình trạng 
quá tải của KBTB vịnh Nha Trang và tiềm ẩn 
rủi ro làm xuống cấp môi trường.
b. Khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy sản và 
các ngành kinh tế khác
Kết quả nghiên cứu về hoạt động kinh tế 
của cộng đồng dân cư trong KBTB được trình 
bày từ Hình 2 đến Hình 5. Hình 2 cho thấy đa 
số các hộ làm nghề khai thác thủy sản (KTTS) 
(86%). Nuôi trồng thủy sản (NTTS) và các 
ngành nghề khác chỉ chiếm lần lượt 9% và 5%. 
Nghề NTTS ít người tham gia vì 78% cho rằng 
nghề cần nhiều vốn đầu tư và phải có kĩ thuật, 
23% cho rằng nghề dễ xảy ra dịch bệnh, đầu ra 
không ổn định, môi trường ô nhiễm và thiếu 
vốn đầu tư. Với nghề KTTS, số hộ làm nghề 
pha xúc chiếm tỉ lệ cao nhất (39%), tiếp theo 
là nghề câu (22%) và thấp nhất là nghề trũ rút 
(1%). Nghề pha xúc được xem như là nghề ảnh 
hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản vì dùng ánh 
sáng mạnh để đánh bắt. Tỉ lệ phần trăm số tàu 
thuyền ở 3 nhóm công suất (dưới 20 cv, 20 - 
dưới 90 cv và từ 90 cv trở lên) chênh lệch nhau 
không lớn, 30%, 31% và 39% một cách tương 
ứng. Khu vực đánh bắt chủ yếu ở vùng ven 
bờ (96%, cao hơn tỉ lệ % của Việt Nam 86%) 
(Khánh Hòa - Ninh Thuận 51%, Khánh Hòa 
45%); đánh bắt xa bờ chỉ chiếm có 4%. Số hộ 
đánh bắt xa bờ là các hộ sử dụng phương tiện 
có công suất lớn và chủ yếu là làm nghề pha 
xúc, câu, trũ bao. 
Trên vịnh có 134 bè hoạt động NTTS với 
3.729 lồng nuôi với các đối tượng nuôi là tôm 
hùm, cá bớp, cá hồng, cá bè, cá chim. Khu vực 
nuôi chủ yếu tập trung tại Hòn Miễu với đối 
tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm. Vậy, so với 
năm 2016 thì khu vực nuôi (Hòn Miễu - Trí 
Nguyên, Vũng Ngán, Đầm Báy và Bích Đầm) 
đã bị thu hẹp đi rất nhiều. Các ngành nghề 
thay thế được KBTB phổ biến khi mới thành 
lập hiện nay đã không còn phù hợp và áp dụng 
vì không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điều 
đó cho thấy rằng áp lực khai thác thủy sản lên 
khu vực trong vịnh vẫn rất lớn và cũng đang 
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phục hồi và tái tạo 
nguồn lợi. 
Hình 1: Cấu trúc ngành nghề trong KBTB Hình 2: Công suất tàu KTTS
Hình 3: Ngư trường KTTS Hình 4: Các nghề KTTS
50 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
1.2.9. Giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng
Kết quả khảo sát cho thấy gần đây các hoạt 
động tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức 
cộng đồng hầu như chỉ tổ chức vào những ngày 
lễ lớn trong năm. Phòng bảo tồn có chương 
trình giáo dục môi trường cho 10 trường Tiểu 
học và Trung học cơ sở thuộc các phường ven 
biển. Mỗi năm tổ chức tuyên truyền cho cộng 
đồng địa phương 5- 6 lần, chủ yếu tập trung 
vào các hộ khai thác thủy sản. Tuy nhiên, so 
với trước đây thì các hoạt động này đã giảm 
nhiều. Trước đây, theo BQL Vịnh Nha Trang 
(2017), phòng bảo tồn thường xuyên phối hợp 
với công an các phường ven Vịnh Nha Trang 
để tuyên truyền Quy chế Quản lý Vịnh Nha 
Trang đến ngư dân, các chủ tàu thuyền du lịch 
có hoạt động trên Vịnh, giáo dục cho học sinh, 
sinh viên và cộng đồng về môi trường biển. 
Ngoài ra, phòng còn đặt tờ rơi, panô, áp phích 
tại các bến xe, bến cảng, yêu cầu hướng dẫn 
viên nhắc nhở du khách bơi lặn không dẫm, 
đạp làm gãy san hô. Hàng năm, nhân các ngày 
đa dạng sinh học thế giới, ngày môi trường thế 
giới và hưởng ứng tuần lễ biển và hải đảo Việt 
Nam, BQL tổ chức nhiều hoạt động bảo vệ môi 
trường như diệt sao biển gai, vớ t rá c dướ i rạn 
san hô, thả cá khoang cổ và cá ngựa vào phân 
khu bảo vệ nghiêm ngặt Hòn Mun nhằm tái tạo 
nguồn lợi, trồng rừng ngập mặn, triển lãm các 
sản phẩm tranh ốc (thân thiện với môi trường), 
giới thiệu các hoạt động bảo tồn biển, kiểm tra 
hoạt động nuôi trồng thủy sản và xả rác thải 
trong vịnh.
1.2.10. Cơ chế tài chính cho KBTB vịnh Nha Trang
Kết quả nghiên cứu cho thấy KBTB đã thực 
hiện cơ chế tài chính bền vững thông qua việc 
thu phí tham quan đối với khách du lịch trong 
KBTB. Mức thu đối với người lớn là 20.000 
đồng/người/lượt, trẻ em là 10.000/người/lượt, 
khách bơi hoặc lặn có khí tài là 60.000 đồng/
người/lượt. Trẻ em, người khuyết tật, người 
cao tuổi, các đoàn thầy cô giáo và học sinh, 
sinh viên trong tỉnh do các trường tổ chức 
ngoại khóa nghiên cứu, học tập về môi trường 
(có giấy giới thiệu của cơ quan, đơn vị) được 
miễn phí (Hội đồng Nhân dân Tỉnh Khánh 
Hòa, 2016).
1.2.11. Nhận thức và sự tham gia của cộng đồng 
vào các hoạt động của KBTB vịnh Nha Trang
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn cộng 
đồng khi được hỏi về KBTB đều trả lời có 
biết KBTB. 52,5% số người được phỏng vấn 
cho rằng KBTB là khu vực cấm khai thác và 
được thành lập nhằm mục đích bảo vệ các loài 
có nguy cơ tuyệt chủng, bảo vệ môi trường. 
47,5% cho rằng KBTB có chức năng tạo ra 
các loài mới. Điều đó chứng tỏ cộng đồng đã ý 
thức được vai trò và tầm quan trọng của KBTB 
đối với môi trường cũng như các loài thủy sản.
Về chất lượng nước trong KBTB, 56% số 
người được phỏng vấn cho rằng môi trường 
nước trong sạch, 34% trả lời không biết, 10% 
trả lời môi trường xấu đi do bão số 12 đi qua 
làm nước đục, dẫn đến dịch bệnh tôm sữa. Nhận 
xét về sự thay đổi nguồn lợi thủy sản (NLTS), 
có tới 67% ngư dân cho rằng sản lượng thủy 
sản giảm đi rất nhiều, thậm chí có loài mất đi 
hoàn toàn như sam, so. 7% cho rằng sản lượng 
các loài tăng lên. 14% trả lời là không thay đổi 
vì cho rằng mặc dù bị đánh bắt nhưng nguồn 
lợi sẽ được tái tạo khi đến mùa sinh sản.12% 
trả lời là không biết.
Sự tham gia của cộng đồng: Khi mới được 
thành lập, 6 khóm đảo có 6 ban bảo tồn khóm 
gồm tất cả 36 thành viên đại diện cộng đồng, 
tham gia tích cực vào các hoạt động của KBTB 
như tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức 
cộng đồng về bảo vệ môi trường và nguồn lợi 
thủy sản, tuần tra cưỡng chế, bảo tồn đa dạng 
sinh học, đánh giá đa dạng sinh học, các hoạt 
động sinh kế... Tuy nhiên, đến nay, các ban bảo 
tồn khóm đều không còn tồn tại. Đa số không 
biết đến các quy chế quản lý và các hình thức 
xử phạt vi phạm nên cũng không biết các sửa 
đổi trong quy chế có phù hợp hay không.
2. Đề xuất các biện pháp quản lý hiệu quả 
KBTB Vịnh Nha Trang
2.1. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức 
đối với hiện trạng quản lý KBTB vịnh Nha Trang
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 51
2.2 Đề xuất một số giải pháp quản lý hiệu quả
- Cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp hoạt 
động của các bên liên quan.
- Thuyết phục UBNDTP khẩn trương phê 
duyệt kế hoạch quản lý để việc quản lý đạt hiệu 
quả cao hơn. 
- Nhanh chóng di dời đầm đăng ra khỏi 
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
- Cần thuyết phục các cơ quan hữu quan 
giao quyền xử phạt trực tiếp cho đội tuần tra 
và tăng cao mức xử phạt hành chính để việc xử 
phạt có tính răn đe hơn.
- Tìm hiểu rõ nguyên nhân của sự suy giảm 
đa dạng sinh học để có biện pháp khắc phục (có 
thể do hoạt động của đầm đăng trong phân khu 
bảo vệ nghiêm ngặt, do hoạt động xây dựng, 
do du khách dẫm đạp san hô, do tuần tra không 
hiệu quả...).
- Đẩy mạnh công tác nâng cao đời sống 
cộng đồng dân cư.
- Tăng cường cơ sở vật chất ở bến cảng để 
phù hợp với lượng du khách và tàu bè.
- Tăng cường chương trình giáo dục cộng 
đồng và sự tham gia của cộng đồng vào quản 
lý.
- Giám sát nghiêm tốc độ bơm nước mưa 
ở các cống xả nước mưa vào những ngày mưa 
lớn.
- Đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao ý 
thức bảo vệ môi trường của du khách, đặc biệt 
là khách lặn đối với việc giẫm đạp lên san hô. 
- Khuyến khích và hỗ trợ ngư dân chuyển 
từ đánh bắt ven bờ sang xa bờ, giảm nghề pha 
xúc. 
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- KBTB đã xây dựng được mối quan hệ với 
các bên liên quan, đã cải tiến việc phân vùng 
chức năng. Hệ thống phao neo tàu thuyền gồm 
100 cái. Đội tuần tra hoạt động 24/24 nhưng 
không có quyền xử phạt trực tiếp. Chất lượng 
môi trường nước chưa đến mức nghiêm trọng. 
Chỉ có rừng ngập mặn tăng lên về diện tích, 
Bảng 1: Phân tích SWOT đối với hiện trạng quản lý NLTS trong KBTB vịnh Nha Trang
52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
còn thảm cỏ biển và rạn san hô đều giảm về 
diện tích. Các rạn san hô không còn duy trì 
trong tình trạng tốt (trừ các rạn xa bờ). Các 
hoạt động ngành nghề thay thế không còn được 
các hộ ngư dân áp dụng. Nhiều chương trình 
tuyên truyền về môi trường biển được thực 
hiện trước kia không còn nhiều. KBTB đã thực 
hiện cơ chế tài chính bền vững thông qua việc 
thu phí tham quan khách du lịch.
- Lượng du khách đến Hòn Mun đã tăng 
lên nhanh chóng từ năm 2016 đến 2017. Năm 
2017, số khách lặn là 278.439, tổng lượng 
khách tham quan là 1.711.773. Đa số các hộ 
làm nghề khai thác thủy sản (KTTS) (86%); 
nuôi trồng thủy sản (NTTS) 9% và các nghề 
khác 5%. Nghề pha xúc ảnh hưởng lớn đến 
nguồn lợi thủy sản chiếm tỉ lệ cao nhất (39%); 
còn lại là mành, lưới câu, trũ rút, trũ bao. Tỉ lệ 
phần trăm số tàu thuyền ở 3 nhóm công suất 
(dưới 20 cv, 20 - dưới 90 cv và từ 90 cv trở lên) 
gần bằng nhau. Khu vực đánh bắt chủ yếu ở 
vùng ven bờ (96%); đánh bắt xa bờ chỉ chiếm 
4%. Có 134 bè hoạt động NTTS với 3.729 lồng 
nuôi và đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm ở 
Hòn Miễu.
- Cộng đồng đã ý thức được tầm quan trọng 
của KBTB. Đa số cho rằng môi trường nước 
trong sạch (56%) và sản lượng thủy sản giảm 
đi rất nhiều (67%). Sự tham gia của cộng đồng 
vào quản lý của KBTB không còn, các ban bảo 
tồn khóm đều không còn tồn tại.
2. Kiến nghị
- Cần định kỳ đánh giá hiện trạng quản lý 
KBTB để cập nhật thông tin và bổ sung vào 
nguồn dữ liệu quản lý của hệ thống các KBTB 
ở Việt Nam và thế giới.
- Tiến hành nghiên cứu và đánh giá sâu 
hơn về hiệu quả quản lý và sức tải du lịch cho 
KBTB Vịnh Nha Trang. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Tiếng Anh
1. Ban quản lý vịnh Nha Trang (2017), Kết quả thực hiện hiện vụ quản lý KBTB vịnh Nha Trang qua mười 
năm hình thành và phát triển
2. Nguyễn Văn Hoàng (2012), Một số giải pháp quản lý môi trường đối với hoạt động du lịch ở KBTB vịnh 
Nha Trang, Tạp chí KH&CN, tr 54-63.
3. Trần Lam Hồng (2012), Tìm hiểu hiện trạng quản lý vịnh Nha Trang- Khánh Hòa, đồ án tốt nghiệp, trường 
đại học Nha Trang.
4. Nguyễn Văn Long (2017), Báo cáo đa dạng sinh học trong KBTB vịnh Nha Trang.
5. Trần Văn Phước, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi, Lê Việt Phương (2015), Sinh kế cộng đồng và hoạt động khai 
thác nguồn lợi thủy sản tại hồ Tây và hồ Đăk r’tang, tỉnh Đăk Nông, số 2, Tạp chí KH&CN thủy sản, trường 
Đại học Nha Trang.
6. 
7. Kelleher G., Bleakley C., and Wells S. (1995), A global representative system of marine protected areas 
(fi c-Northeast-Pacifi c-North-
west-Pacifi c-Southeast-Pacifi c-and-Australia-New-Zealand)
8. Salm R. V., Clark J. R. & Siirila E., Marine and Coastal Protected Areas, a guide for Planners and Manager, 
Third Edition, IUCN, 370 pages.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 hien_trang_quan_ly_khu_bao_ton_bien_vinh_nha_trang_sau_hon_1.pdf hien_trang_quan_ly_khu_bao_ton_bien_vinh_nha_trang_sau_hon_1.pdf