ân tích và xử lý số liệu về tài nguyên NDĐ ở
tỉnh Thái Bình, chúng tôi rút ra một số kết luận và
kiến nghị sau:
- NDĐ trong các trầm tích Đệ tứ ở Thái Bình
có trữ lượng không lớn và có đặc điểm thủy địa
hóa rất phức tạp, các tầng chứa nước nhạt và mặn
nằm đan xen nhau, không có quy luật. Toàn tỉnh có
3 tầng chứa nước trong Đệ tứ, trong đó: tầng qh1 bị
mặn hoàn toàn, tầng qh2 thuộc tầng nghèo nước,
tầng qp có mức độ chứa nước trung bình đến giàu.
Tính đến năm 2020, NDĐ trong trầm tích Đệ tứ
không đủ cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
- Các tầng chứa nước trong các trầm tích Đệ tứ
ở vùng đã và đang có dấu hiệu nhiễm bẩn bởi các
kim loại như Mn, Fe Đặc biệt là hiện tượng nhiễm
bẩn bởi các chất hữu cơ (thông qua chỉ số COD),
PO4, NO2. Hiện tượng này có mức độ trầm trọng
hơn đối với khu vực các làng nghề của các huyện
Kiến Xương, Hưng Hà. Ở một số nơi thuộc khu
vực các huyện ven biển do hiện tượng nuôi trồng
thủy sản đã và đang làm nhiễm mặn tầng
chứa nước.
- Có nhiều rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm
nguồn NDĐ trong vùng, có nguyên nhân tự nhiên
(làm cho hàm lượng Fe, Mn cao hơn QCVN), và
các nguyên nhân nhân tạo do hoạt động sản xuất và
sinh hoạt của cộng đồng, như: việc xả thải tùy tiện
ra môi trường các loại nước thải và rác thải chưa
được xử lý hoặc xử lý chưa đúng yêu cầu, việc sử
dụng bừa bãi các loại phân bón hóa học và hóa
chất bảo vệ thực vật, việc thi công các công trình
khai thác nước bừa bãi không được kiểm soát,
cũng như chế độ khai thác của các công trình
không hợp lý,.
- Để bảo vệ NDĐ ở vùng nghiên cứu cần quy
hoạch khai thác và sử dụng hợp lý, quản lý tốt
công tác cấp phép và thi công công trình khai thác
NDĐ.Ở các khu vực phía bắc tỉnh nên khai thác
trong tầng qp với chiều sâu 80-100m, có thể bố trí
các công trình khai thác dọc theo các sông Hồng,
Luộc. Đồng thời khai thác trong tầng qh2 ở những
khu vực mà tầng không bị nhiễm mặn và một phần
của tầng chứa nước qp bằng các lỗ khoan đường
kính nhỏ. Ở các huyện ven biển tập trung khai thác
trong các cồn cát và doi cát. Đối với các khu vực
mà NDĐ tại chỗ bị mặn nên dùng nước mặt lấy từ
sông Trà Lý làm nguồn cung cấp chính.
Cần có những nghiên cứu sâu để xác định
nguyên nhân và con đường xâm nhập của các
nguồn gây bẩn trên mặt đất vào các tầng chứa nước
trong trầm tích Đệ Tứ, đồng thời cần đánh giá tiềm
năng của tầng chứa nước Neogen để phục vụ cho
nhu cầu dùng nước trong tương lai của tỉnh
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 617 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng suy thoái, ô nhiễm nước dưới đất trong trầm tích đệ tứ ở tỉnh Thái Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
387
35(4), 387-394 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
HIỆN TRẠNG SUY THOÁI, Ô NHIỄM
NƯỚC DƯỚI ĐẤT TRONG TRẦM TÍCH ĐỆ TỨ
Ở TỈNH THÁI BÌNH
LÊ THỊ THANH TÂM1, ĐẶNG XUÂN PHONG2, TRƯƠNG PHƯƠNG DUNG1
E-mail: lt_tam04@yahoo.com
1Viện Địa Lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Ban Kế hoạch Tài chính, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 10 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng, là tỉnh có vị trí địa
lý khá thuận lợi, được xem là một trong các khu
vực có nhiều tiềm năng, có nhiều lợi thế về điều
kiện tự nhiên cho sản xuất, đặc biệt là sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên, do nằm gần với biển nên
tài nguyên nước dưới đất (NDĐ) ở Thái Bình có
chế độ thuỷ địa hoá rất phức tạp, nước mặn và
nước nhạt đan xen nhau không có quy luật, gây
khó khăn rất nhiều cho việc khai thác và sử dụng
nước của cư dân trong tỉnh. Trong những năm vừa
qua, bên cạnh những thuận lợi do sự phát triển của
kinh tế và xã hội đem lại cho địa phương thì sức ép
đến môi trường tự nhiên cũng rất lớn, trong đó có
môi trường NDĐ. Hiện tượng nhiễm mặn và nhiễm
bẩn các tầng chứa nước tăng lên theo thời gian,
hiện tượng suy giảm mực nước trong lỗ khoan đã
xuất hiện ngày một nhiều trong tỉnh. Nhiều nơi
trong tỉnh NDĐ đã và đang bị nhiễm bẩn bởi các
hợp chất hữu cơ và một số chất vô cơ (qua COD;
NH4+; PO43-; Fe và Mn), đặc biệt là hiện tượng
nhiễm mặn do ảnh hưởng của khai thác nước và
nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, hiện tượng suy
giảm mực nước trong các lỗ khoan của tầng sản
phẩm với mức độ suy giảm hàng năm từ 0,11 đến
0,13m/năm.
2. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu sử dụng
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp tổng hợp các phương pháp sau:
- Thu thập, tổng hợp, phân tích các tài liệu về
điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội hiện có ảnh
hưởng đến điều kiện tàng trữ, khai thác và sử dụng
NDĐ ở vùng nghiên cứu (địa hình, địa mạo, địa
chất, thủy văn, hải văn, khí hậu, thổ nhưỡng,).
- Điều tra, khảo sát thực địa nhằm tiến hành
(phỏng vấn cộng đồng ở ngoài thực địa, lấy mẫu
nước mặt, nước thải, NDĐ, mẫu đất); Phân tích
trong phòng các mẫu đất và nước.
- Phương pháp hệ thông tin địa lý GIS để xây
dựng cơ sở dữ liệu quản lý tài nguyên nước ngầm ở
vùng nghiên cứu. Trong đó, áp dụng các phần mềm
Mapinfo, Arcview/GIS, để thành lập các bản đồ,
đồ thị.
- Phương pháp chuyên gia: thông qua các Hội
thảo, Hội nghị để lấy ý kiến đóng góp của các nhà
khoa học trong các lĩnh vực có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
2.2. Tài liệu sử dụng
Bài báo được hoàn thành từ kết quả của việc
thực hiện đề tài cấp Viện Khoa học Việt Nam:
“Nghiên cứu, đánh giá thực trạng suy thoái, ô
nhiễm môi trường nước dưới đất tỉnh Thái Bình và
đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng hợp lý
nguồn nước dưới đất trên quan điểm phát triển bền
vững” do Lê Thị Thanh Tâm làm chủ nhiệm và
được nghiệm thu năm 2011. Đồng thời, đã sử dụng
kết quả nghiên cứu về tài nguyên nước dưới đất và
các vấn đề liên quan đến ô nhiễm và suy giảm mực
nước, do các tác giả khác nhau đã thực hiện qua
388
các đề tài, đề án trong thời gian qua ở vùng
nghiên cứu.
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, bài báo đề
cập đến dấu hiệu suy thoái trữ lượng NDĐ thông
qua sự giảm mực nước trong các lỗ khoan khai
thác và hiện trạng ô nhiễm của NDĐ thông qua
hiện tượng nhiễm mặn và nhiễm bẩn của các tầng
chứa nước chính trong tỉnh.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tiềm năng và chất lượng nước dưới đất
trong trầm tích Đệ tứ tỉnh Thái Bình
3.1.1. Đặc điểm tài nguyên nước dưới đất trong
trầm tích Đệ tứ tỉnh Thái Bình
Phân chia theo nguyên tắc dạng tồn tại của
NDĐ [3,4,8]; tỉnh Thái Bình có các tầng chứa nước
trong trầm tích Đệ Tứ sau:
- Tầng chứa nước Holocen trên (qh2): nằm trên
cùng, diện tích khoảng 1200 km2. Gồm các trầm
tích thuộc hệ tầng Q23tb, có nguồn gốc: sông biển,
biển gió, biển, biển đầm lầy, sông. Các thông số
địa chất thủy văn (ĐCTV) của tầng như hệ số thấm
(K) = 1,49m/ngày; hệ số nhả nước (µ) = 0,1238.
Nước có tổng khoáng hóa (M) thay đổi phức tạp từ
nhạt đến mặn. Các khu vực có diện tích nước mặn
đáng kể như: khu vực Quỳnh Phụ - Đông Hưng,
khu vực ở giữa sông Hồng và sông Trà Lý thuộc
các huyện Tiền Hải, Kiến Xương và một phần
huyện Vũ Thư. Đây là tầng chứa nước không áp,
có mức độ chứa nước không đồng đều thuộc loại
nghèo nước.
- Tầng chứa nước Holocen dưới (qh1): phân bố
trên hầu hết diện tích tỉnh, bị phủ bởi tầng qh2, gồm
các trầm tích của hệ tầng Hải Hưng tuổi Q21-2hh1.
Thông số ĐCTV: lưu lượng (Q) từ 0,025 l/s đến
1,81 l/s, hệ số hạ thấp mực nước (S) = 4,02m-
18,05m, tỷ lưu lượng lỗ khoan (q)= 0,001l/s.m đến
0,16l/s.m; K = 0,61 - 1,29m/ng, μ = 0,1188. Tầng
qh1 có độ giàu nước trung bình, nước thuộc loại áp
lực yếu, chất lượng nước kém (chủ yếu là nước lợ
và mặn), nên không có ý nghĩa đối với việc khai
thác sử dụng.
- Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen (qp): phân
bố rộng khắp và hầu hết bị phủ bởi các trầm tích
trẻ hơn. Gồm các hệ tầng Q12vp1, Q1hn và Q1lc. Là
tầng giàu nước, thuộc loại có áp, thông số ĐCTV:
K = 22 m/ngày; Km = 1476 m2/ngày; μ = 0,182; hệ
số nhả nước trọng lực (μ*) = 0,0069. Chúng chia
thành 2 khoảnh mặn và nhạt: khoảnh nhạt phân bố
ở phía bắc, kéo dài trong các huyện Hưng Hà,
Đông Hưng, Quỳnh Phụ và một phần Thái Thụy,
có diện tích khoảng 610km2. Khoảnh mặn phân bố
ở phần phía nam bao gồm huyện Kiến Xương, Tiền
Hải, Vũ Thư và một phần huyện Thái Thuỵ. Tầng
chứa nước qp có trữ lượng phong phú nhất trong
vùng nên chúng là tầng sản phẩm chính để cung
cấp nước cho ăn uống sinh hoạt của nhân dân
trong tỉnh.
3.1.2. Trữ lượng nước dưới đất trong trầm tích Đệ
tứ tỉnh Thái Bình
Kết quả tính toán của chúng tôi cho thấy, trữ
lượng khai thác tiềm năng phần nước nhạt (M <
1g/l) trong hai tầng qh2 và qp của tỉnh là không lớn
chỉ đạt 830.325m3/ngày. Tính đến năm 2020 nhu
cầu dùng nước của tỉnh là 1.031.053 m3/ngày đêm
[9, 10, 12, 16], vì vậy, có thể nói NDĐ trong trầm
tích Đệ tứ không đủ cung cấp cho nhu cầu của địa
phương trong tương lai.
3.1.3. Hiện trạng suy thoái, ô nhiễm nước dưới đất
tỉnh Thái Bình
Hiện trạng chất lượng nước dưới đất ở
Thái Bình
- Cơ sở đánh giá ô nhiễm: dựa vào Quy chuẩn
Việt Nam (QCVN) 09:2008/BTNMT để đánh giá
chất lượng nước của các khu vực phân bố nước
nhạt của hai tầng qh2 và qp.
- Hiện trạng chất lượng nước tầng chứa nước
trong các trầm tích Holocen (qh2): nhìn chung, tầng
qh2 có chất lượng không đảm bảo dùng làm nguồn
nước trực tiếp cho ăn uống, sinh hoạt, chúng đã và
đang bị nhiễm bẩn bởi các hợp chất hữu cơ (COD)
với mức độ rất đáng báo động, nhiễm bẩn bởi hợp
chất PO43- với mức độ ban đầu nhưng diện phân bố
rộng. Ngoài ra, nước có hàm lượng sắt (Fe) và
mangan (Mn) vượt QCVN ở hầu khắp vùng nghiên
cứu. Một số nơi trong vùng nước có biểu hiện
nhiễm bẩn các hợp chất nitơ ở mức độ ban đầu.
Các khu vực có mức độ nhiễm bẩn khá cao và
đồng thời cùng bị nhiễm nhiều yếu tố cần được
theo dõi, đó là các xã Nam Cao, Vũ Ninh, Quang
Trung - H. Kiến Xương; xã Đồng Thanh, Vũ Tiến
và Minh Quang - H. Vũ Thư; Vũ Chính - Tp. Thái
Bình; các xã Thụy Dương, Bình Xuân - Thái Thụy.
Đặc biệt, ở các làng nghề, nước của tầng qh2 bị
389
nhiễm bẩn rất rõ rệt, với làng nghề xã Lê Lợi
huyện Kiến Xương, nước có hàm lượng NO3- là
25,81mg/l, NO2- là 24,8mg/l vượt QCVN đến 8
lần, hàm lượng COD là 14,4 vượt 3,5 lần, hàm
lượng PO43- là 0,96mg/l. Khu vực làng nghề làm
bún của xã Đồng Thanh huyện Vũ Thư nước có
hàm lượng COD là 9,7mg/l. Gần khu canh tác
nông nghiệp (tại xã Vũ Chính) nước có hàm lượng
COD là 10,8mg/l, PO43- là 12,8mg/l, NO3- là
28,13mg/l.
Qua hiện trạng chất lượng NDĐ của tầng qh2,
chúng ta có thể thấy: ngoài những khu vực nước
của tầng có hàm lượng sắt và mangan cao (các yếu
tố này có trong NDĐ là do thành phần đất đá chứa
nước gây ra), những khu vực NDĐ bị nhiễm bẩn
bởi các yếu tố khác thường gắn liền với những làng
nghề sản xuất thủ công (sản xuất bún, các làng dệt
nhuộm, các làng chạm khắc vàng bạc, sản xuất
mây tre, khu vực canh tác,...); ở các khu vực này
do nước thải trong sản xuất không được xử lý đúng
quy định và do dư lượng các loại hóa chất sử dụng
trong tưới bón cho cây trồng đã làm nhiễm bẩn các
dòng mặt và từ đó đi vào làm nhiễm bẩn nước của
tầng qh2- tầng chứa nước nằm gần mặt đất nhất và
điều này là hoàn toàn logic.
Hiện trạng chất lượng của tầng chứa nước trong
các trầm tích Pleistocen (qp): với các khu vực phân
bố nước nhạt, nhìn chung tầng chứa nước này có
chất lượng đảm bảo để dùng làm nguồn nước ăn
uống, sinh hoạt. Tuy nhiên, ở một số nơi nước có
dấu hiệu nhiễm bẩn bởi các hợp chất hữu cơ
(COD) và PO43- với mức độ ban đầu nhưng với
diện rộng. Đặc biệt, tầng chứa nước có hàm lượng
sắt (Fe) và mangan (Mn), ở nhiều nơi vượt QCVN,
cần được xử lý trước khi đưa vào sử dụng. Như
vậy, so với tầng chứa nước qh2, tầng chứa nước qp
có chất lượng tốt hơn (do nó nằm ở dưới sâu hơn
tầng qh) nên các chất gây bẩn từ trên mặt đất sẽ di
chuyển khó khăn hơn để đi vào tầng chứa nước. Vì
vậy, đã từ nhiều năm nay, tầng qp là tầng sản phẩm
chính trong khai thác nước không chỉ của tỉnh Thái
Bình mà còn cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh
đó, ở một số nơi trong tỉnh, hiện tượng mặn hóa
nguồn nước đã xảy ra trong tầng qp, có một số lỗ
khoan sau một thời gian khai thác không lâu nước
đã bị lợ rồi mặn dần, không sử dụng được. Kết quả
của hiện tượng này do khi thiết kế và thi công các
lỗ khoan đã không thực hiện đúng quy trình kỹ
thuật, nhiều khi được thực hiện bởi những người
không có chuyên môn về Địa chất thủy văn.
Chúng ta thấy, do nằm sâu hơn so với tầng
chứa nước qh2 nên mức độ nhiễm bẩn của tầng qh
ít hơn, ngoài hàm lượng cao của sắt và mangan
(điều này do bản thân tầng chứa nước sinh ra),
trong nước đã có dấu hiệu nhiễm bẩn bởi các hợp
chất hữu cơ ở một số nơi (tuy không nhiều). Các
khu vực này thường liên quan đến hoạt động phát
triển kinh tế, xã hội của con người gây ra, đó là
hiện tượng nước thải sinh hoạt, nước thải, rác thải
của các làng nghề thủ công trong khu vực chưa
được xử lý và thu gom đúng quy chuẩn đã và đang
chảy tràn vào các hệ thống kênh mương nội đồng
và các vùng trũng, từ đó trở thành nguồn bẩn xâm
nhập vào tầng chứa nước qp của vùng. Vì vậy, các
dấu hiệu này cũng rất cần được các cơ quan chức
năng của địa phương quan tâm theo dõi.
3.2. Biểu hiện giảm mực nước dưới đất ở vùng
nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, do ảnh hưởng của
khai thác NDĐ và của các hoạt động kinh tế, dân
sinh trong vùng không những chất lượng NDĐ bị
suy giảm mà đồng thời mực nước trong tầng chứa
nước cũng bị giảm. Để thấy được hiện tượng giảm
mực nước trong tầng chứa nước, từ các số liệu
quan trắc mực nước trong các lỗ khoan (từ 1995
đến 2010) của Liên đoàn ĐCTV miền Bắc [13-15],
chúng tôi tiến hành xây dựng các đồ thị biểu diễn
quan hệ của mực nước theo thời gian trong cùng kỳ
quan trắc (các số liệu quan trắc mực nước trong
mùa khô của các năm).
Lỗ khoan Q156 quan trắc trong tầng qh2; Lỗ
khoan Q156a quan trắc trong tầng qp
Lỗ khoan Q158 quan trắc trong tầng qh2; Lỗ
khoan Q158a quan trắc trong tầng qp
Lỗ khoan Q159 quan trắc trong tầng qh2; Lỗ
khoan Q159a và Q159b quan trắc trong tầng qp
Kết quả cụ thể có thể thấy trong các đồ thị
sau đây (hình 1-3):
390
Qua các đồ thị trên chúng ta thấy, nhìn chung
mực nước tầng qh2 thuộc tất cả các công trình quan
trắc đều ổn định, mực nước bị hạ thấp vào mùa khô
và phục hồi dâng vào mùa mưa, chưa có dấu hiệu
suy giảm. Tuy nhiên, mực nước tầng qp - tầng sản
phẩm của vùng tại tất cả các công trình quan trắc
đều có xu thế giảm, cụ thể: tại công trình Q.156a
(Thái Thụy) tốc độ giảm mực nước trung bình
khoảng 0,11m/năm; tại công trình Q.159a, Q.159b
(Quỳnh Phụ) tốc độ giảm mực nước trung bình
khoảng 0,13m/năm. Hiện tượng này cho thấy, do
tầng qh nằm gần mặt đất nhất nên chúng thường
xuyên được nước mưa, nước mặt bổ cập, hơn nữa
tầng này có chất lượng không đảm bảo nên chúng
ít được khai thác để phục vụ đời sống và sinh hoạt.
Ngược lại, do tầng qp nằm sâu hơn (bị tầng qh2 và
qh1 che phủ) nên lượng bổ cập hàng năm từ nước
mưa, nước mặt cho chúng thường ít hơn, đồng thời
đây là tầng sản phẩm chính để phục vụ cấp nước
nên lượng khai thác ngày một nhiều hơn dẫn đến
sự giảm mực nước của tầng theo thời gian. Tuy
nhiên, tính đến thời điểm năm 2010, với công suất
khai thác NDĐ trong tầng qp thì mức độ hạ thấp
mực nước như trên của các lỗ khoan khai thác hoàn
← Hình 1. Đồ thị dao động mực nước
tại điểm quan trắc Q.156
→ Hình 2: Đồ thị dao động mực nước
tại điểm quan trắc Q.158
← Hình 3. Đồ thị dao động mực nước
tại điểm quan trắc Q.159
391
toàn nằm trong giơi hạn cho phép đảm bảo an toàn
cho tầng sản phẩm. Tuy nhiên, theo tính toán của
chúng tôi, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và xã hội
như hiện nay, tính đến năm 2020, nếu không có
nguồn nước khác cùng khai thác thì tầng chứa
nước qp không đủ để đáp ứng nhu cầu của địa
phương. Nguyễn Như Trung và nnk [6] đã dự báo
sự suy giảm của mực nước tầng qp như sau: nếu
mức độ khai thác nước ngầm tự phát như hiện nay
(lưu lượng khai thác là 68410m3/ng) thì cao độ hạ
thấp mực nước của tầng qp đến năm 2030 là 3,5m,
diện tích nước nhạt của tầng bị thu hẹp và toàn bộ
huyện Thái Thụy nước ngầm sẽ bị nhiễm mặn.
Ranh giới mặn/nhạt sẽ tiến sâu vào các huyện
Hưng Hà, Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Do đó, địa
phương cần có định hướng khai thác và sử dụng
hợp lý để bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này
trong tương lai.
4. Nguyên nhân ô nhiễm NDĐ ở tỉnh Thái Bình
Chúng ta biết, có rất nhiều nguyên nhân gây ô
nhiễm NDĐ, tuy nhiên, để xác định cụ thể nguyên
nhân gây ô nhiễm cho từng yếu tố trong NDĐ là
một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành các thí
nghiệm chuyên sâu cho từng yếu tố và ở từng khu
vực. Với quy mô đề tài mà tập thể tác giả đã thực
hiện ở Thái Bình chưa cho phép tiến hành được các
thí nghiệm như vậy, do đó, từ sự phân tích, đánh
giá các tài liệu hiện có, chúng tôi đưa ra dưới đây
các nguyên nhân mang tính định tính có thể gây ra
hiện tượng ô nhiễm của NDĐ ở vùng nghiên cứu.
4.1. Ảnh hưởng của nước thải và rác thải
4.1.1. Tình hình xả thải của các làng nghề
Thái Bình hiện có 210 làng nghề [5], hầu hết
các làng nghề có công nghệ lạc hậu, quy trình sản
xuất không khép kín, hệ thống xử lý chất thải
không được đầu tư, nếu có thì chưa đạt quả. Hầu
hết thải trực tiếp nước thải xuống hệ thống ao, hồ,
sông, kênh mương dẫn nước thủy lợi. Do đó, đây là
một trong những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng
cho đất, cho các dòng mặt và sau đó là cho các
tầng chứa nước trong khu vực. Theo kết quả
nghiên cứu của Phạm Xuân Trường [7] chất lượng
của nước thải của các làng nghề như sau (bảng
1-3).
Trong đợt khảo sát thực địa năm 2010, Viện
Địa lý lấy mẫu nước hồ tại làng nghề xã Thái
Phương - Hưng Hà, kết quả phân tích thể hiện
trong bảng 3.
Bảng 1. Chất lượng nước thải ở các làng nghề dệt
Chỉ tiêu pH SS (mg/l) COD(mg/l) BOD5 (mg/l) Tổng N (mg/l) Tổng P (mg/l) S2- (mg/l) Độ màu Pt/Co
Dệt đũi Nam cao 8,2 375 372,5 212,5 - - 1,5 260
Dệt Thái Phương 6,5 105 272,7 117,9 0,75 - 0,5
TCVN (kênh B) 5,5-9,5 100 100 50 30 6,0 0,5
Bảng 2. Chất lượng nước thải ở làng nghề chạm bạc xã Lê Lợi
Vị trí lấy mẫu pH NO3- (mg/l) NH4+ (mg/l) Cu2+ (mg/l) Pb2+ (mg/l) BOD5 (mg/l) COD (mg/l)
Xưởng mạ đã xử lý 6,5 14,1 72,88 3,34 0,036
268,2
Xưởng mạ chưa xử lý 2,1 4222 2,67 762 1,88 322,6
Nước ao cạnh xưởng 7,2 1,5 117,5 172
TCVN (kênh B) 5,5-9,5 60 1 2 0,5 50 100
Bảng 3. Chất lượng nước thải ở làng nghề chạm dệt xã Thái Phương
Chỉ tiêu pH SS (mg/l) COD (mg/l) BOD5 (mg/l) NO-2 (mg/l) NO-3 (mg/l) ∑Fe (mg/l)
Dệt Thái Phương - Hưng Hà 9,79 118 121,6 67
TCVN (B) 5,5 - 9,5 100 100 50 60
Qua các bảng số liệu trên đây, chúng ta thấy,
hầu hết nước thải của các làng nghề đều không đáp
ứng QCVN ứng với kênh B (là kênh quy định giá
trị của các thông số ô nhiễm trong nước thải công
nghiệp khi xả vào nguồn nước không dùng cho
mục đích cấp nước sinh hoạt) .
4.1.2. Ảnh hưởng của nước thải và rác thải sinh
hoạt đến NDĐ
Hầu hết các khu vực thị trấn, thị tứ và khu tập
trung dân cư trong tỉnh đều chưa có hệ thống thu
gom và xử lý nước thải. Lượng nước thải sinh hoạt
chủ yếu được thu vào cống, rãnh đơn lẻ sau đó
392
được xả vào hệ thống kênh mương nội đồng, ao hồ
trong khu dân cư [11]. Bên cạnh đó còn là hiện
trạng các bãi rác tự phát trong các khu dân cư, qua
khảo sát chúng tôi thấy, các xã đều chưa quy hoạch
bãi chôn lấp hoặc xử lý rác. Rác thải được tập
trung lại ở rìa làng, những nơi đất trũng, nhiều nơi
còn là các bờ kênh, mương và sông nội đồng.
Chúng ta biết, tầng chứa nước Holocen qh nằm gần
mặt đất nhất nên chúng rất dễ bị nhiễm bẩn từ các
nguồn gây bẩn trên mặt đất như từ các bãi rác,
kênh mương thoát nước. Mặt khác, tầng Pleistocen
qp có quan hệ thủy lực với nước mặt và tầng qh
nên chúng dễ bị nhiễm bẩn từ các tầng trên nó.
4.2. Khai thác nước dưới đất gây nhiễm mặn và
hạ thấp mực nước
Theo thống kê chưa đầy đủ của Sở Tài nguyên
và Môi trường đến năm 2005 [12], tỉnh có 22 công
trình khai thác NDĐ tập trung quy mô lớn, số
giếng khai thác nhỏ, lẻ là 225.035 giếng. Thực tế
khai thác NDĐ hiện nay ở vùng nghiên cứu chưa
phải là quá mức so với trữ lượng tiềm năng của
chúng, hiện nay NDĐ vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu
dùng nước của địa phương. Tuy nhiên, do sự phát
triển kinh tế xã hội ngày càng mạnh kéo theo nhu
cầu sử dụng nước càng lớn, nên số lượng công
trình khai thác NDĐ ngày càng tăng mạnh, theo
tính toán đến năm 2020, nhu cầu dùng nước của
tỉnh sẽ vượt quá trữ lượng của các tầng chứa nước.
Điều này sẽ làm tăng nguy cơ suy giảm mực nước
trong các tầng chứa nước nếu địa phương không
có quy hoạch khai thác các nguồn nước một cách
hợp lý,...
4.3. Khoan khai thác nước không đảm bảo kỹ thuật
Hiện nay toàn tỉnh có 252 đơn vị thuộc 125 xã
của 8 huyện và thành phố hành nghề khoan NDĐ
[12]. Trong đó có nhiều tổ chức tự do, không có
chuyên môn nên số lượng các công trình thi công
không đảm bảo kỹ thuật là không nhỏ. Ngoài ra,
các công trình khai thác hầu hết đều tự phát trong
dân, chúng không có chế độ khai thác hợp lý, do
đó, ở vùng có chế độ thủy hóa phức tạp như Thái
Bình thì việc nhiễm mặn tầng sản phẩm là điều khó
tránh khỏi.
4.4. Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón
hoá học làm nhiễm bẩn nguồn nước
Theo số liệu thống kê hàng năm trung bình toàn
tỉnh Thái Bình sử dụng gần 550.000 tấn phân bón
hữu cơ, 210.000 tấn phân bón vô cơ và trên 620 tấn
hoá chất thuốc BVTV các loại. Các loại hóa chất
này một phần ngấm vào đất còn lại hoà tan trong
nước ruộng tiêu thoát vào các kênh, mương, gây ô
nhiễm nguồn nước mặt theo xu hướng ngày một
tăng và sau đó là đi vào làm nhiễm bẩn các tầng
chứa NDĐ đặc biệt là tầng qh2.
4.5. Đô thị hoá và gia tăng dân số
Quá trình đô thị hoá và mức độ gia tăng dân số
là một trong những nguyên nhân gây suy thoái tài
nguyên thiên nhiên nói chung trong đó có tài
nguyên NDĐ. Thái Bình là tỉnh đông dân, tuy
nhiên, đây là khu vực có điều kiện địa chất thủy
văn phức tạp do đó áp lực đến tài nguyên nước
dưới đất tại địa phương càng lớn.
4.6. Nạn phá rừng ngập mặn
Vì sức ép về dân số và kinh tế nên ở vùng ven
biển, rừng ngập mặn đã bị tàn phá nặng nề để phục
vụ nuôi trồng thủy hải sản. Do đó, diện tích bờ
biển xói lở ngày càng tăng, diện tích bồi tụ giảm,
đất nông nghiệp bị nhiễm mặn ngày càng tăng. Đất
bị nhiễm mặn, nhiễm phèn làm tăng thêm nguy cơ
nhiễm mặn của các tầng chứa NDĐ.
4.7. Nuôi trồng thủy hải sản trong đê
Giá trị sản xuất thủy sản không ngừng tăng qua
các năm, diện tích nuôi trồng thủy sản ngày càng
mở rộng và ngày càng lấn sâu vào đất liền, các khu
vực này không được phát triển theo quy hoạch, hậu
quả kéo theo là nước mặn xâm nhập sâu hơn vào
đất liền và gây nhiễm mặn cho NDĐ. Kết quả
nghiên cứu của Phạm Hoàng Hải & nnk [1, 2] cho
thấy, giếng đào tại khu nhà anh Trần Văn Tiếp,
xóm 7 thôn Hải Long, xã Đông Xuyên, Tiền Hải,
sâu 5m, cách đầm nuôi tôm khoảng 50m về phía
nam; Trước khi nuôi tôm khu vực này NDĐ nằm
trong vùng có độ tổng khoáng hoá M 1-3g/l, sau
khi nuôi tôm nước giếng đào này đã có độ tổng
khoáng hoá lên tới 6,5g/l. Ngoài ra, còn có những
khu vực hầu hết các cây trồng lâu năm trong vườn
nhà đều bị chết do nước ngầm ở đây bị nhiễm mặn
do hậu quả của nuôi trồng thủy sản. Đây là một
trong những nguyên nhân chính đã và đang làm
thay đổi ranh giới mặn nhạt theo hướng xấu cho
môi trường nước của địa phương ven biển này.
5. Đề xuất phương hướng khai thác và bảo vệ
nước dưới đất ở Thái Bình trong tương lai
Trước thực trạng trên, để có thể đảm bảo lượng
nước phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội
của tỉnh trong thời gian tới, đồng thời bảo vệ NDĐ
393
trước các nguy cơ nhiễm bẩn, nhiễm mặn và cạn
kiệt, cần tiến hành các biện pháp chính sau: Điều
tra, đánh giá đầy đủ về chất và lượng NDĐ trên
toàn tỉnh; Quy hoạch khai thác sử dụng NDĐ một
cách hợp lý. Theo chúng tôi có thể khai thác như
sau: khu vực phía bắc tỉnh khai thác trong tầng
Pleistocen và Neogen bằng các lỗ khoan công
nghiệp. Với chiều sâu khai thác trong tầng qp lên
80-100m, với tầng chứa nước Neogen, chiều sâu
trung bình 120-150m, có thể bố trí các công trình
khai thác dọc theo các sông Hồng, Luộc để tăng
cường trữ lượng cuốn theo cho các tầng chứa nước.
Đồng thời, khai thác nước qua các lỗ khoan đường
kính nhỏ trong tầng chứa nước qh2 ở những khu
vực mà tầng không bị nhiễm mặn và một phần của
tầng chứa nước qp. Các công trình khai thác theo
hình thức này, nên tập trung vào diện phân bố nước
nhạt ở phần phía bắc tỉnh và trong các cồn cát và
doi cát dọc theo bờ biển của hai huyện Tiền Hải,
Thái Thụy. Đối với các khu vực mà NDĐ tại chỗ
bị mặn như Tp. Thái Bình nên dùng nước mặt lấy
từ sông Trà Lý làm nguồn cung cấp chính. Ngoài
ra cần tiến hành đa dạng hoá các phương thức khai
thác; Kết hợp chặt chẽ giữa khai thác và bảo vệ tài
nguyên NDĐ và môi trường; Xã hội hoá công tác
khai thác và bảo vệ NDĐ; Tăng cường công tác
quản lý; Đầu tư và tăng cường công tác quan trắc
động thái sự biến đổi tài nguyên NDĐ toàn lãnh
thổ và từng khu vực; Tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục trong cộng đồng.
6. Kết luận và kiến nghị
Từ các kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát,
phân tích và xử lý số liệu về tài nguyên NDĐ ở
tỉnh Thái Bình, chúng tôi rút ra một số kết luận và
kiến nghị sau:
- NDĐ trong các trầm tích Đệ tứ ở Thái Bình
có trữ lượng không lớn và có đặc điểm thủy địa
hóa rất phức tạp, các tầng chứa nước nhạt và mặn
nằm đan xen nhau, không có quy luật. Toàn tỉnh có
3 tầng chứa nước trong Đệ tứ, trong đó: tầng qh1 bị
mặn hoàn toàn, tầng qh2 thuộc tầng nghèo nước,
tầng qp có mức độ chứa nước trung bình đến giàu.
Tính đến năm 2020, NDĐ trong trầm tích Đệ tứ
không đủ cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
- Các tầng chứa nước trong các trầm tích Đệ tứ
ở vùng đã và đang có dấu hiệu nhiễm bẩn bởi các
kim loại như Mn, Fe Đặc biệt là hiện tượng nhiễm
bẩn bởi các chất hữu cơ (thông qua chỉ số COD),
PO4, NO2. Hiện tượng này có mức độ trầm trọng
hơn đối với khu vực các làng nghề của các huyện
Kiến Xương, Hưng Hà. Ở một số nơi thuộc khu
vực các huyện ven biển do hiện tượng nuôi trồng
thủy sản đã và đang làm nhiễm mặn tầng
chứa nước.
- Có nhiều rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm
nguồn NDĐ trong vùng, có nguyên nhân tự nhiên
(làm cho hàm lượng Fe, Mn cao hơn QCVN), và
các nguyên nhân nhân tạo do hoạt động sản xuất và
sinh hoạt của cộng đồng, như: việc xả thải tùy tiện
ra môi trường các loại nước thải và rác thải chưa
được xử lý hoặc xử lý chưa đúng yêu cầu, việc sử
dụng bừa bãi các loại phân bón hóa học và hóa
chất bảo vệ thực vật, việc thi công các công trình
khai thác nước bừa bãi không được kiểm soát,
cũng như chế độ khai thác của các công trình
không hợp lý,...
- Để bảo vệ NDĐ ở vùng nghiên cứu cần quy
hoạch khai thác và sử dụng hợp lý, quản lý tốt
công tác cấp phép và thi công công trình khai thác
NDĐ.Ở các khu vực phía bắc tỉnh nên khai thác
trong tầng qp với chiều sâu 80-100m, có thể bố trí
các công trình khai thác dọc theo các sông Hồng,
Luộc. Đồng thời khai thác trong tầng qh2 ở những
khu vực mà tầng không bị nhiễm mặn và một phần
của tầng chứa nước qp bằng các lỗ khoan đường
kính nhỏ. Ở các huyện ven biển tập trung khai thác
trong các cồn cát và doi cát. Đối với các khu vực
mà NDĐ tại chỗ bị mặn nên dùng nước mặt lấy từ
sông Trà Lý làm nguồn cung cấp chính.
Cần có những nghiên cứu sâu để xác định
nguyên nhân và con đường xâm nhập của các
nguồn gây bẩn trên mặt đất vào các tầng chứa nước
trong trầm tích Đệ Tứ, đồng thời cần đánh giá tiềm
năng của tầng chứa nước Neogen để phục vụ cho
nhu cầu dùng nước trong tương lai của tỉnh.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Phạm Hoàng Hải (chủ biên),2003: Báo
cáo đề tài khoa học: Quy hoạch bảo vệ môi trường
tỉnh Thái Bình. Lưu trữ Viện Địa lý - Viện Khoa
học và công nghệ Việt Nam.
[2] Phạm Hoàng Hải (chủ biên), 2008: Báo
cáo đề tài khoa học: Nghiên cứu đánh giá thực
trạng xâm nhập mặn vào khu vực nội đồng do ảnh
hưởng sự phát triển nuôi trồng thủy hải sản trong
đê tỉnh Thái Bình và đề xuất các biện pháp khắc
phục. Lưu trữ Viện Địa lý - Viện Khoa học và
công nghệ Việt Nam.
394
[3] Bùi Học (chủ biên), 2002: Báo cáo chuyên
đề chất lượng nước ngầm tỉnh Thái Bình. Đề tài
độc lập cấp Nhà Nước. Lưu trữ Trường Đại học
Mỏ - Địa chất, Hà Nội.
[4] Lại Đức Hùng (chủ biên), 1996: Báo cáo
kết quả phương án: Lập bản đồ Địa chất thủy văn
tỷ lệ 1:50.000 vùng Thái Bình. Lưu trữ Đoàn 58-
Liên đoàn Địa chất thủy văn- Địa chất Công trình
miền Bắc.
[5] Nguyễn Thành Tâm, 2009: Báo động ô
nhiễm môi trường ở Thái bình. Sở Tài nguyên và
môi trường tỉnh Thái Bình -
re.gov.vn.
[6] Nguyễn Như Trung (chủ biên), 2007: Báo
cáo đề tài khoa học: Đánh giá hiện trạng và dự báo
xâm nhập mặn tầng nước ngầm vùng ven biển Thái
Bình. Lưu trữ Viện Địa chất - Địa vật lý biển -
Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam .
[7] Phạm Xuân Trường (chủ biên), 2008: Báo
cáo đề tài khoa học: Lập quy hoạch sử lý môi
trường cho 3 cơ sở làng nghề: chạm bạc xã Lê Lợi,
dệt đũi Nam Cao, mây tre đan Thượng Hiền thuộc
huyện Kiến Xương - tỉnh Thái Bình. Lưu trữ Viện
Địa lý - Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam.
[8] Chu Thế Tuyển (chủ biên), 1984: Báo cáo
kết quả phương án: Tìm kiếm nước dưới đất vùng
Thái Bình. Lưu trữ Đoàn 58, Liên đoàn Địa chất
Thủy văn - Địa chất Công trình miền Bắc.
[9] Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình năm
2009, 2010.
[10] Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình,
2008: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
vùng ven biển tỉnh Thái Bình giai đoạn đến 2020.
Thái Bình.
[11] Sở Khoa học công nghệ và Môi trường
tỉnh Thái Bình, 2001: Báo cáo Hiện trạng môi
trường tỉnh Thái Bình, giai đoạn 1995-2000.
[12] Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Thái
Bình, 2006: Báo cáo tình hình hoạt động tài
nguyên nước trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua
và các biện pháp quản lý hoạt động TNN trong thời
gian tới. Thái Bình.
[13] Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái
Bình. 2009. Phiếu kết quả phân tích mẫu không
khí, nước mặt, nước ngầm, đất và trầm tích.
Thái Bình.
[14] Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Thái
Bình, 2010: Số liệu quan trắc động thái nước dưới
đất. Thái Bình.
[15] Trung tâm công nghệ xử lý MT, 2009:
Báo cáo Kết quả quan trắc chất lượng môi trường
đất, nước, không khí tự nhiên năm 2008”.
[16] Ủy Ban nhân dân tỉnh Thái Bình, 2005:
Xây dựng quy hoạch môi trường phục vụ mục đích
quản lý, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã
hội bền vững của tỉnh Thái Bình đến năm 2010.
Thái Bình.
SUMMARY
The current state of degradation, pollution of groundwater in Quaternary sediments in the Thai Binh province
The Thai Binh province has 3 aquifers in Quaternary sediments, including: Aquifer qh1 is completely salty but aquifer
qh2 and qp are divided from the poor to the rich of groundwater storage level and savoury faintly no rule. The main
product is qp aquifer where was and is being exploited and used by communities. Groundwater reserves in the province,
according to the master plan for socio-economic development of the province until 2020, that groundwater in Quaternary
sediments are not enough to provide for local needs.
Over the years, the groundwater has been showing signs of contamination by metals such as Mn, Fe, some places
are As phenomenal especially contamination by organic substances such as COD, PO43- NO
-
2 and pathogenic bacteria.
In coastal areas, the phenomenon of the salty water layer has become more pronounced. Besides, there is the
phenomenon of lowering the water level of the water layer reports in the region.
All of these phenomena on the apparent warning to the verge of recession groundwater source. There are many
causes of degradation in the groundwater source, there are natural and artificial causes due to production and living of
the community. To protect groundwater in local research needs planning and rational use of this resource in the future.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4124_14615_1_pb_456_2107853.pdf