Công tác ứng dụng công nghệ thông tin nói chung và xây dựng cơ sở dữ
liệu đất đai các cấp liên thông, đạt mục tiêu đến năm 2015 hầu hết các địa
phương đều có cơ sở dữ liệu đất đai đến tất cả các huyện, thị xã kết nối trực
tuyến với cơ sở dữ liệu đất đai cấp tỉnh và trung ương, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất điện tử, liên thông và có giá trị pháp lý với cơ sở dữ liệu của
các cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế - xã hội như cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư, doanh nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường bất động sản là
nhiệm vụ quan trọng của ngành quản lý đất đai.
Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có các giải pháp, cơ chế đồng bộ, hiệu
quả và đầu tư tập trung với định hướng đa dạng và xã hội hóa nguồn vốn, phát
triển nguồn nhân lực có khả năng quản trị, vận hành hệ thống.
Tham luận này mong góp một số các ý kiến ban đầu, rất mong nhận được
sự đóng góp của các quý vị đại biểu để ngành quản lý đất đai đạt được các mục
tiêu nêu trên.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 802 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng và định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
212
HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trần Kiêm Dũng1
Lời nói đầu
Ứng dụng công nghệ thông tin là một trong các định hướng quan trọng của
ngành Tài nguyên và môi Trường trong giai đoạn hiện nay. Việc ứng dụng công
nghệ thông tin là bắt buộc để đáp ứng được các mục tiêu quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường theo hướng phát triển bền vững và thực hiện chủ trương
kinh tế hóa ngành. Trong các lĩnh vực quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý đất đai đã đạt
được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên còn nhiều điểm bất cập cần phải có
một chiến lược dài hạn với các mục tiêu và phương pháp cụ thể để có thể có được
một cơ sở dữ liệu đất đai theo mô hình hiện đại, thông suốt từ cấp trung ương đến
cấp địa phương và là một trong những công cụ quản lý chính của ngành.
Tham luận này đi sâu phân tích hiện trạng của công tác ứng dụng công
nghệ thông tin từ những giai đoạn trước đến giai đoạn hiện nay, bao gồm các yếu
tố đầu tư về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, nguồn
nhân lực, hiện trạng dữ liệu hiện có và các chính sách về phát triển công nghệ
thông tin trong ngành. Trên cơ sở phân tích hiện trạng hiện có, tham luận cũng đề
xuất một số định hướng chiến lược và giải pháp cụ thể phù hợp với sự phát triển
của công nghệ, định hướng phát triển ngành để có thể đẩy mạnh và nâng tầm ứng
dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý đất đai lên một tầm cao mới
mang tính đột phá.
Để thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin nói chung và xây dựng
cơ sở dữ liệu về đất đai đạt được các mục tiêu nêu trên cần có các nghiên cứu cơ
sở lý luận khoa học vững chắc, nguồn lực đầu tư và nhận thức về ứng dụng công
nghệ thông tin từ cấp lãnh đạo đến cấp cán bộ quản lý các cấp. Tham luận với
giới hạn của mình cũng chỉ đề xuất các định hướng mang tính chiến lược và một
số giải pháp cụ thể, các nghiên cứu tiếp theo cũng như việc thực hiện các dự án
đã, đang và sẽ thực hiện sẽ là cơ sở để đạt được các mục tiêu của ngành.
1. Hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành quản lý đất đai
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành quản lý đất đai có thể tính
từ khoảng năm 1994 đến nay, với các địa bàn ứng dụng từ các cơ quan quản lý
nhà nước cấp Trung ương đến các cơ quan quản lý cấp địa phương. Về hiện trạng
có thể phân tích theo các hướng: chính sách và cơ chế thực hiện, cơ cấu tổ chức
và nguồn nhân lực, công nghệ và hiện trạng đầu tư.
Về chính sách và cơ chế thực hiện
Ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành tài nguyên và môi trường nói
chung và ngành quản lý đất đai nói riêng trước năm 2004 chưa có các cơ sở pháp
lý. Các dự án ứng dụng công nghệ thông tin cho lĩnh vực quản lý đất đai trước
1 Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế - Cục Công nghệ thông tin - Bộ TN&MT
213
năm 1994 cũng đã có một số với các nguồn vốn từ ngân sách trung ương, vốn
ODA không hoàn lại và một số các tỉnh, thành phố với ngân sách địa phương.
Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 179/2004/QĐ-TTg về
việc phê duyệt Chiến lược ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (CNTT)
tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 (sau đây
gọi là Quyết định 179). Trong quyết định 179 đã đưa ra 4 mục tiêu chủ yếu và 7
nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó việc xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi
trường nói chung và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nói riêng là một trong các
nhiệm vụ cơ bản nhất.
Sau 5 năm Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện Chiến lược, tới nay đã
có những thay đổi về bối cảnh. Về lĩnh vực công nghệ thông tin, Luật Công nghệ
thông tin năm 2007 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 7 và thứ 8 Quốc hội khóa
XI, là những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng thể chế hóa Chỉ thị 58 của
Bộ Chính trị. Ngày 10/4/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/2007/NĐ-CP
về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước (Nghị
định 64). Nghị định đã quy định cụ thể các nội dung, nhiệm vụ và tổ chức thực
hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và
xác định trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc ứng dụng
CNTT trong phạm vị ngành, địa phương mình.
Để đẩy mạnh và thực hiện nhất quán Chiến lược nhằm thúc đẩy công tác
ứng dụng Công nghệ thông tin trong ngành Tài nguyên và môi trường, Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Quyết định số 1888/QĐ-BTNMT ngày 29
tháng 9 năm 2008 về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chiến lược ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và
định hướng đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Ban chỉ đạo) do Thứ trưởng
Thường trực Nguyễn Văn Đức làm Trưởng ban, Tổng cục Quản lý đất đai đã có
thành viên trong Ban chỉ đạo và tham gia trong các hoạt động của Ban Chỉ đạo
trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý đất đai phù
hợp với định hướng chung của ngành.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị
định 102/2008/NĐ-CP về việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu về
tài nguyên và môi trường, ban hành 15/09/2008 trong đó quy định chi tiết danh
mục dữ liệu của lĩnh vực quản lý đất đai và xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên và
môi trường các cấp, các ngành. Tiếp theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
ban hành thông tư 07/2009/TT-BTNMT ngày 10 tháng 7 năm 2009 về quy định
chi tiết một số điều của Nghị định số 102/2008/NĐ-CP trong đó quy định chi tiết
hơn về chức năng nhiệm vụ của các đơn vị thu thập, quản lý và cung cấp dữ liệu.
Tổng cục quản lý đất đai đã xây dựng và thực hiện dự án “ Xây dựng và
thử nghiệm Chuẩn dữ liệu địa chính ở Việt Nam” với mục tiêu là xây dựng và
ban hành áp dụng một chuẩn dữ liệu địa chính chung cho Việt Nam. Chuẩn dữ
liệu địa chính Việt Nam sẽ được áp dụng trực tiếp để xây dựng các cơ sở dữ liệu
địa chính phục vụ nhu cầu quản lý đất đai; trao đổi dữ liệu địa chính giữa các cấp
quản lý đất đai; cung cấp dữ liệu địa chính cho các ngành có nhu cầu và cho cộng
đồng nói chung. Phương pháp tiếp cận của dự án là xây dựng Chuẩn dữ liệu địa
214
chính Việt Nam trên cơ sở hướng dẫn của Chuẩn thông tin địa lý cơ sở quốc gia
do Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành và bộ chuẩn thông tin địa lý quốc tế
ISO 19100. Theo đó, chuẩn dữ liệu địa chính phải bao gồm các quy định nhằm
chuẩn hóa: nội dung dữ liệu địa chính, mô hình cấu trúc dữ liệu địa chính, hệ quy
chiếu tọa độ cho dữ liệu địa chính, siêu dữ liệu áp dụng cho dữ liệu địa chính,
yêu cầu về chất lượng dữ liệu địa chính, trình bày dữ liệu địa chính và trao đổi,
phân phối dữ liệu địa chính.
Chính sách quản lý nhà nước về đất đai cũng đang trong quá trình hoàn
thiện, quy trình thực hiện, mẫu báo cáo, mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thay đổi nhiều trong thời gian ngắn dẫn tới công tác ứng dụng công nghệ thông
tin gặp rất nhiều bất cập, việc phải chỉnh sửa các hệ thống vừa đưa vào sử dụng
trong thời gian rất ngắn, thiếu kinh phí xây dựng rất phổ biến.
Tuy đã có một số các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách nhất
định trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành quản lý đất đai, tuy
nhiên hệ thống văn bản còn thiếu rất nhiều từ bước lập các dự án, thực hiện, kiểm
tra nghiệm thu, quy chuẩn kỹ thuật, giao nộp sản phẩm, định mức kinh tế kỹ
thuật v.v.. để có thể có được khung chính sách hoàn chỉnh làm cơ sở thực hiện.
Về cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực
Để thực hiện Quyết định 179 và các văn bản quy phạm pháp luật về ứng
dụng công nghệ thông tin trong ngành Tài nguyên và Môi trường nói chung và
ngành Quản lý đất đai nói riêng, từ cấp Trung ương tới cấp địa phương đã tổ
chức các đơn vị chuyên trách về ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng cơ
sở dữ liệu về đất đai.
Về phía các cơ quan Trung ương, Tổng cục Quản lý đất đai đã thành lập
Trung tâm Lưu trữ và Thông tin đất đai là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục
(tại Quyết định số 18/QĐ-TCQLĐĐ ngày 07 tháng 11 năm 2008 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Quản lý đất đai quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Trung tâm Lưu trữ và Thông tin đất đai). Trung tâm có chức
năng nhiệm vụ xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về đất đai cấp Trung ương. Về
phía Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Cục Công nghệ thông tin có chức năng
quản lý nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành, đề xuất các
chính sách, các quy định kỹ thuật, giám sát kiểm tra thực hiện công tác này.
Tại các địa phương đã có hệ thống các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất, hệ thống các Trung tâm Thông tin lưu trữ, Trung tâm Công nghệ thông tin để
thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai
cấp địa phương.
Các vấn đề còn tồn tại trong cơ cấu tổ chức này là sự chồng chéo, chưa
thực sự rõ ràng tại một số địa phương về chức năng quản lý và cung cấp dữ liệu
đất đai tại các đơn vị, về nguồn nhân lực, về nguồn vốn đầu tư cho các dự án ứng
dụng công nghệ thông tin. Chưa có gắn kết thực sự chặt chẽ giữa các dự án đề án
điều tra cơ bản với việc xây dựng cơ sở dữ liệu, chưa có mô hình trao đổi, báo
cáo thông tin đất đai dưới dạng cơ sở dữ liệu giữa các đơn vị hành chính và đơn
vị hành chính cấp dưới với đơn vị hành chính trực tiếp quản lý cấp trên.
215
Tại một số địa phương, sau khi các Trung tâm Thông tin lưu trữ chuyển
tài liệu, số liệu hồ sơ địa chính cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo
chức năng nhiệm vụ của văn phòng, do số liệu, tài liệu các ngành khác còn ít, chủ
yếu từ trước đến nay là các tài liệu về đất đai nên dẫn tới hiện tượng nhiều Trung
tâm Thông tin lưu trữ họat động kém hiệu quả. Mặt khác, do Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất cũng chưa đủ nhân lực về công nghệ thông tin nên nhiệm vụ
xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai cấp địa phương gặp vấn đề khó khăn. Chưa có
một quy định hướng dẫn thống nhất về việc tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu đất
đai cho đơn vị chủ trì nào thực hiện, do vậy công tác này được thực hiện rất khác
nhau tùy vào từng địa phương.
Nguồn nhân lực về công nghệ thông tin tại các Sở Tài nguyên và Môi
trường cũng rất khác nhau và phân tán tại nhiều đơn vị, do vậy sau khi được
chuyển giao công nghệ, nhiều đơn vị chỉ làm ở mức độ thử nghiệm chứ chưa
triển khai diện rộng, chưa đưa cơ sở dữ liệu đất đai thực sự đi vào quá trình quản
lý và hỗ trợ ra quyết định về chính sách.
Về công nghệ và hiện trạng đầu tư
Xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai gắn liền với công nghệ hệ thống thông
tin địa lý (GIS) và các ứng dụng CAD để số hóa dữ liệu địa chính. Thông qua các
nghiên cứu của nhiều đơn vị, các dự án đã và đang thực hiện từ năm 1992 trở lại
đây, nhiều công nghệ đã được ứng dụng trong các cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai từ cấp trung ương tới cấp địa phương, các doanh nghiệp đo đạc bản đồ và
lập hồ sơ địa chính. Các công nghệ được ứng dụng cơ bản là các công nghệ tiên
tiến ở Việt Nam và trên thế giới.
Hiện tại đã có rất nhiều hệ thống thông tin đất đai do nhiều đơn vị trong
và ngoài ngành xây dựng. Có thể liệt kê một số các hệ thống điển hình như ELIS
(Cục Công nghệ thông tin), ViLIS (Trung tâm Viễn thám Quốc gia), EKLIS
(Công ty EK ) và nhiều công ty khác.
Các công nghệ GIS nền được sử dụng cũng rất đa dạng như ArGIS của
hãng ESRI (Mỹ), MapInfo, AutoCAD và một số hãng khác. Hệ quản trị cơ sở dữ
liệu sử dụng Oracle, SQL Server, Access v.v.. Hiện cũng đã có một số nghiên
cứu ứng dụng toàn bộ mã nguồn mở trong vấn đề xây dựng LIS để tiết kiệm chi
phí đầu tư cho công nghệ nền.
Tuy có nhiều sản phẩm, nhiều ứng dụng và có nhiều đơn vị phát triển
nhưng việc ứng dụng công nghệ trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai
còn bộc lộ một số bất cập như: Chính sách quản lý thay đổi liên tục dẫn đến các
phần mềm cũng phải thay đổi theo nhưng lại thiếu nguồn lực về kinh phí để cập
nhật, nâng cấp, chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất, còn có nhiều sự khác biệt
về nhu cầu quản lý cho từng địa bàn, thiếu hỗ trợ kỹ thuật từ nhà cung cấp công
nghệ nền (thông thường là ở nước ngoài) và nhà phát triển hệ thống thông tin đất
đai do thiếu nguồn nhân lực và chính sách tài chính, còn có sự vướng mắc về vấn
đề lựa chọn sản phẩm phần mềm cho từng địa phương và các vấn đề khác
Về chính sách quản lý, do Việt Nam còn đang trong giai đoạn hoàn thiện
chính sách về quản lý đất đai, các quy trình, chế độ quản lý, mẫu biểu báo cáo và
thống kê, mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thay đổi nhiều trong thời
216
gian ngắn nên phát sinh hiện tượng các phần mềm phải cập nhật liên tục để phù
hợp với chính sách mới. Tuy nhiên, do chưa có sự đầu tư đồng bộ và chiến lược
lâu dài dẫn tới các phần mềm vừa đưa vào sử dụng đã có sự lạc hậu về quy trình
nghiệp vụ, thậm chí một số nơi không thể sử dụng tiếp dẫn tới lãng phí rất lớn.
Các nhà cung cấp phần mềm nền cũng như phần mềm ứng dụng còn thiếu
chuyên môn nghiệp vụ và có nhiều sự khác nhau về nhu cầu quản lý của từng địa
bàn dẫn tới trong nhiều dự án xây dựng hệ thống thông tin đất đai, các đơn vị
phát triển phải cử cán bộ ngồi tại địa bàn sử dụng trong một thời gian dài để cùng
với cán bộ sử dụng, vận hành hệ thống, sửa lỗi tại chỗ.
Ngay trong cùng một tỉnh, nhưng do phân cấp về quản lý dữ liệu đất đai,
dẫn tới trong một tỉnh cũng có thể ứng dụng nhiều giải pháp phần mềm khác
nhau, do chưa có tiêu chuẩn thống nhất (hiện tại Tổng cục Quản lý đất đai đang
trình Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư quy định kỹ thuật về
chuẩn dữ liệu địa chính) nên dẫn tới việc tích hợp dữ liệu khó khăn.
Cơ sở dữ liệu về đất đai đã được đầu tư qua nhiều thời kỳ, nhiều dự án đầu
tư với nhiều nguồn vốn khác nhau, tuy nhiên ở nhiều địa phương chưa gắn kết quá
trình đo vẽ bản đồ địa chính, lập hồ sơ đăng ký ban đầu với quá trình cập nhật biến
động đất đai dẫn đến việc các bản đồ địa chính được đo vẽ trong thời gian trước
đây mất nhiều kinh phí nhưng lạc hậu do vậy giá trị sử dụng bị hạn chế.
Một trong các chương trình, dự án tiêu biểu là chương trình Hợp tác Việt
Nam - Thụy Điển về đổi mới hệ thống địa chính - CPLAR. Chương trình này có
nguồn vốn không hoàn lại do cơ quan phát triển quốc tế SIDA Thụy Điển tài trợ
cho Tổng cục Địa chính thực hiện từ năm 1997 đến năm 2003. Chương trình
được chia thành nhiều dự án về chính sách, nâng cao năng lực trong đó có hợp
phần 5 về phát triển và ứng dụng hệ thống thông tin đất đai (LIS) ở cấp tỉnh và
thử nghiệm tại một số tỉnh Kết quả của dự án này là đã nâng cao nhận thức,
chuyển giao công nghệ xây dựng bản đồ địa chính số, xây dựng cơ sở dữ liệu về
đăng ký đất đai, quản lý và in giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bằng công
nghệ số thay thế cho việc viết tay trước đây. Kết quả của dự án không những
trong những tỉnh thử nghiệm mà còn mở rộng ra rất nhiều tỉnh khác không nằm
trong phạm vi chương trình. Nhiều tỉnh, thành phố đã có nhận thức và sử dụng
các nguồn lực khác nhau để xây dựng hệ thống thông tin đất đai của địa phương
mình ở nhiều mức độ khác nhau (địa bàn xã, huyện).
Dự án hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai Việt Nam
(VLAP) có số vốn 100 triệu đô la Mỹ từ nguồn vốn vay ODA của Ngân hàng
Thế giới đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chính thức khởi động ngày 18-9
tại Hà Nội. VLAP là dự án của Việt Nam trong lĩnh vực quản lý đất đai, được
nghiên cứu hơn 10 năm nay qua sự hợp tác của nhiều nước như Pháp, Thụy Điển,
New Zealand, Phần Lan. Dự án được khởi động trước tại 9 tỉnh, thành phố, gồm
ba tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long), ba tỉnh
duyên hải miền Trung (Bình Định, Khánh Hòa, Quảng Ngãi) và ba tỉnh đồng
bằng sông Hồng (Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình). Mục tiêu của dự án là tăng
cường sự tiếp cận của mọi đối tượng với dịch vụ thông tin đất đai, bằng cách phát
triển một hệ thống quản lý đất đai hoàn thiện tại các địa phương qua việc xây
217
dựng hệ thống hồ sơ địa chính và bản đồ địa chính dạng số hóa. Dự án gồm 100
hoạt động khác nhau với ba giai đoạn triển khai trong vòng 5 năm. Giai đoạn thứ
nhất, với mục tiêu hiện đại hóa hệ thống đăng ký đất đai. Giai đoạn 2 sẽ tăng
cường dịch vụ đăng ký đất đai. Giai đoạn 3, hỗ trợ quản lý và theo dõi đánh giá
chất lượng các kết quả của dự án.
2. Các đề xuất về định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành quản lý đất đai
Trên cơ sở phân tích các hiện trạng nêu trên, để thực hiện việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong ngành quản lý đất đai, cần phải thực hiện các nhóm
giải pháp đồng bộ bao gồm: Xây dựng thể chế và chính sách, đào tạo nguồn nhân
lực và xây dựng kế hoạch về nguồn vốn đầu tư.
Các giải pháp xây dựng thể chế và chính sách chia thành các nhóm giải
pháp về tiêu chuẩn, quy trình, quy định kỹ thuật, nhóm quy định về cơ cấu tổ
chức của các đơn vị có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai các cấp, nhóm
quy định về chính sách cập nhật, chia sẻ và sử dụng thông tin đất đai, nhóm quy
định về tính pháp lý của cơ sở dữ liệu về đất đai và hiện đại hóa các thủ tục hành
chính về đất đai, nhóm các chính sách tăng cường năng lực cho các cơ quan xây
218
dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu đất đai.
Các giải pháp về tiêu chuẩn, quy trình, quy định kỹ thuật cần phải xây
dựng mô hình quản lý dữ liệu đất đai các cấp, kiến trúc về hệ thống thông tin đất
đai theo mô hình phân cấp quản lý phù hợp đặc thù tại Việt Nam, chuẩn dữ liệu
địa chính quản lý tại cấp Trung ương và địa phương, chế độ thông tin báo cáo,
đồng bộ và trao đổi dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu đất đai từ cấp Huyện, Tỉnh đến
cấp Trung ương. Các chính sách này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng
cục Quản lý đất đai và Cục Công nghệ thông tin theo hướng chung của Bộ.
Các quy định về cơ cấu tổ chức của các đơn vị có trách nhiệm xây dựng cơ
sở dữ liệu đất đai các cấp cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các đơn vị
như Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Trung tâm phát triển quỹ đất, Trung
tâm kỹ thuật, Trung tâm Công nghệ thông tin trong việc xây dựng và bảo trì cơ sở
dữ liệu về đất đai. Đồng thời với chức năng, nhiệm vụ cần có các quy định về biên
chế, yêu cầu về năng lực đối với lãnh đạo các đơn vị về ứng dụng công nghệ thông
tin, chính sách thu hút nguồn nhân lực để vận hành và bảo trì hệ thống.
Các quy định về tính pháp lý của cơ sở dữ liệu về đất đai cần phải được xây
dựng nhằm khắc phục tình trạng xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai chỉ mang tính tham
khảo, không có giá trị pháp lý trong các giao dịch dân sự và quản lý nhà nước dẫn
tới các cơ sở dữ liệu đất đai hiện tại ở các địa phương thực hiện tốt nhất cũng chỉ
để in ấn các báo cáo, sổ sách và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cần phải gắn
liền quá trình đo vẽ, đăng ký ban đầu và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
với việc xây dựng và chỉnh lý biến động đất đai vào cơ sở dữ liệu.
Các cơ chế, chính sách và quy định cụ thể về đào tạo nguồn nhân lực bao
gồm: Nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin cho lãnh đạo các cấp,
đào tạo cán bộ tại chỗ về quản trị hệ thống, đào tạo về quản trị các hệ thống
thông tin đất đai (hệ thống mạng, quản trị cơ sở dữ liệu lớn và quant trị hệ thống
phần mềm thông tin đất đai), chính sách thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông
tin vào làm việc tại đơn vị thông qua cơ chế về biên chế và chế độ đãi ngộ vật
chất và tinh thần.
Các chính sách tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý đất đai các
cấp cần tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (thiết bị
công nghệ thông tin, hệ thống mạng truyền số liệu các cấp từ xã, huyện, tỉnh và
trung ương), cải tạo trụ sở cơ quan hành chính nhà nước, trang bị các phần mềm
gốc và hệ thống thông tin đất đai có bản quyền.
Các giải pháp phần mềm về hệ thống thông tin đất đai (LIS) cần phải xã
hội hóa, cho phép các đơn vị, doanh nghiệp có khả năng tham gia thị trường cung
ứng giải pháp phần mềm hệ thống thông tin đất đai và các giải pháp phần mềm
nền. Tuy nhiên, cần phải phù hợp với yêu cầu của quản lý nhà nước bao gồm sự
phù hợp về chính sách, đặc thù của địa bàn ứng dụng và khả năng sử dụng của
cán bộ tại địa bàn đó. Việc đáp ứng và tương thích với chuẩn dữ liệu địa chính
phải là điều kiện tiên quyết để có thể ứng dụng trong ngành. Với định hướng này,
không có một đơn vị, doanh nghiệp nào độc quyền trong lĩnh vực cung cấp giải
pháp cho các đơn vị sử dụng (từ cấp huyện đến cấp tỉnh). Điều này giải quyết
vấn đề năng lực hỗ trợ của các đơn vị cung ứng giải pháp và tạo nên sự bình đẳng
219
trong cơ chế thị trường.
Về nguồn vốn đầu tư, cần phải đa dạng hóa các loại hình nguồn vốn, từ các
nguồn vốn ngân sách bao gồm đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư ban đầu, cho
đến các nguồn vốn sự nghiệp kinh tế cho cập nhật và chỉnh lý biến động đất đai
(theo quy định tại Nghị định số 102/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc quản lý
đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước), các
dự án ODA (như SEMLA, VLAP) và xã hội hóa trên cơ sở cung cấp thông tin đất
đai vào thị trường nội dung số Việt Nam theo định hướng của nhà nước.
Các định hướng nêu trên cần phải pháp lý hóa trên cơ sở định hướng chiến
lược phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành quản lý đất đai phù
hợp với định hướng của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sự phối hợp giữa các cơ
quan cấp Trung ương (Tổng cục Quản lý đất đai và Cục Công nghệ thông tin
chiếm một vai trò quan trọng), cấp địa phương (Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất và Trung tâm Công nghệ thông tin trực thuộc các Sở Tài nguyên và Môi
trường). Đặc biệt, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo về kế hoạch và sử dụng các
nguồn vốn như đã phân tích ở trên cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai.
Kết luận
Công tác ứng dụng công nghệ thông tin nói chung và xây dựng cơ sở dữ
liệu đất đai các cấp liên thông, đạt mục tiêu đến năm 2015 hầu hết các địa
phương đều có cơ sở dữ liệu đất đai đến tất cả các huyện, thị xã kết nối trực
tuyến với cơ sở dữ liệu đất đai cấp tỉnh và trung ương, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất điện tử, liên thông và có giá trị pháp lý với cơ sở dữ liệu của
các cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế - xã hội như cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư, doanh nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường bất động sản là
nhiệm vụ quan trọng của ngành quản lý đất đai.
Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có các giải pháp, cơ chế đồng bộ, hiệu
quả và đầu tư tập trung với định hướng đa dạng và xã hội hóa nguồn vốn, phát
triển nguồn nhân lực có khả năng quản trị, vận hành hệ thống.
Tham luận này mong góp một số các ý kiến ban đầu, rất mong nhận được
sự đóng góp của các quý vị đại biểu để ngành quản lý đất đai đạt được các mục
tiêu nêu trên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ungdungcnttntrongquanlydatdai_2328.pdf