Một số trở ngại, khó khăn chính có thể được tổng kết như sau:
- Huy động dân hiến đất cho các công trình hạ tầng cơ sở như đường xá, mương
tưới hoặc tiêu nước. Do quỹ đất chật hẹp ở phần lớn các địa phương, điều kiện kinh tế
vùng nông thôn còn 1 số hạn chế, tại nhiều khu vực (ví dụ như Vụ Bản), việc đẩy
nhanh tốc độ hay hoàn thiện chương trình xây dựng NTM là không thể do chưa thể tìm
được giải pháp thỏa đáng, hài hòa và hợp lòng dân. Rất ít các huyện có quỹ đất rộng201
như Hải Hậu, huyện có điều kiện tự nhiên và kinh tế tốt hơn, người dân sẵn sàng hiến
đất mà không yêu cầu đền bù.
- Dồn điền đổi thửa cũng gặp khó khăn ở hầu hết các địa phương do tính chất
đất canh tác quá khác nhau và số lượng/diện tích mảnh manh mún ở hầu hết các hộ,
gián tiếp gây khó khăn cho việc hoàn thiện đường nội đồng kiên cố, xây dựng hệ thống
kênh tưới và tạo các cánh đồng mẫu lớn, tiền đề cho phát triển nông nghiệp cơ giới
hóa, tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm.
- Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hiện tại vẫn phổ biến ở mức độ bán lẻ theo hộ,
giá cả bấp bênh phụ thuộc nhiều và nhu cầu xuất khẩu và thị trường trong nước, khiến
nông dân rơi vào tình thế sản xuất nông nghiệp hầu như không có lãi, hoặc lấy công
làm lãi, hoặc lãi thấp. Việc hình thành các tổ sản xuất nông nghiệp phần lớn mới chỉ
dừng lại ở khía cạnh hỗ trợ nhau kỹ thuật canh tác và chăn nuôi, chưa phải là tổ “thị
trường”.
- Xử lý rác thải rắn sinh hoạt hiện cũng là vấn đề cần được lưu ý, đặc biệt các
khu tập kết rác thải sao cho hạn chế ô nhiễm môi trương không khí và nước mặt các
khu vực dân cư lân cận. Các phương pháp xử lý, phân loại hiện vẫn chưa được áp
dụng nên khá khó khăn trong việc xác định phương pháp xử lý tối ưu nào hơn giải
pháp lò đốt tại thời điểm hiện tại. Do mật độ dân số đông nhất cả nước, cộng thêm quỹ
đất trống hầu như không còn, giải pháp nào cho xử lý môi trường nông thôn cũng là
vấn đề nóng cần lưu tâm trong các giai đoạn tiếp của chương trình
- Vấn đề nước thải sinh hoạt và sản xuất cũng cần được lưu ý để đảm bảo tiêu
chí môi trường xanh, sạch và đẹp tại các vùng NTM ven đô. Rất ít các địa phương có
hệ thông mương tiêu nước sạch như Hải Hậu nhờ gần vùng của biển, nước lưu thông
dễ dàng thông qua hệ thông sông, kênh mương lớn và dày đặc
- Ngân sách của NTM cho mỗi địa phương không nhiều, để thực hiện đồng bộ
được các hạng mục hay tiêu chí quan trọng, huy động sức dân và đóng góp tài chính
trong dân cần phải được đẩy mạnh thông qua việc tăng nhận thức về hưởng lợi và ảnh
hưởng của NTM đến đời sống của người dân sau này. Việc này cũng đi đôi với chú
trọng nâng cao trình độ học vấn, dân trí của người dân bên cạnh công tác tuyên truyền,
thuyết phục bà con.
31 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện trạng và định hướng xây dựng nông thôn mới vùng ven đô gắn với quá trình đô thị hóa vùng đồng bằng sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là các dạng lò đốt, còn sơ sài nên không tránh khỏi tình trạng dồn ứ, ô nhiễm mùi và
không khí.
Nước sạch nông thôn đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng rất nhiều xã
khu vực quanh các đô thị ở các tỉnh như Nam Định, Hà Nam, Thái Bình vẫn chưa có
nước máy sạch. Thiết nghĩ đây cũng là một nhu cầu chính đáng của các hộ dân và cần
được lưu ý trong bộ tiêu chí mới xây dựng NTM kiểu mẫu, điển hình.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là nhu cầu tất yếu của quá trình đô thị hóa tại các
xã NTM ven đô. Vấn đề đặt ra cho xu hướng đô thị hóa này là cơ cấu lao động để duy
trì được tiêu chí cần thiết theo bộ tiêu chí NTM, việc di cư lao động ra thành phố dẫn
đến nông thôn chỉ còn đa số người già và trẻ em, các vấn đề an ninh trật tự và quản lý
lao động tại các khu công nghiệp liền kề các xã NTM, vv
Quy hoạch bền vững lâu dài là bài toán không dễ cho bối cảnh NTM hiện nay,
đặc biệt là các khu sinh hoạt chung của cộng đồng và khu nghĩa trang. Đây là những
vấn đề gắn với văn hóa và bản sắc xòm làng cần phải tiếp tục được duy trì, phát triển
và do đó cũng cần phải được chú trọng hơn.
2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƢƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG
NTM TẠI CÁC XÃ VEN ĐÔ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
2.1. Vị trí địa lý và những thành tựu nổi bật chung trong xây dựng NTM
Vùng đồng bằng sông Hồng là một trong các vùng trọng điểm trong phát triển
kinh tế và sản xuẩt nông nghiệp của cả nước nhờ vào vị trí và điều kiện tự nhiên thuận
lợi (hình 1). Tổng diện tích của vùng là 21.260,3 km2, với số dân 21,133 triệu người
(2018), trung bình 994 người/km2 [1]. Vùng có 11 tỉnh, trong đó lớn nhất về diện tích
tự nhiên là Quảng Ninh (5.873,2 km2) và nhỏ nhất là Bắc Ninh (821,1 km2).
175
Hình 11. Vị trí địa lý vùng đồng bằng sông Hồng
Vùng có 13 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 6 thị xã, 440 phường, 117 thị
trấn và 1.901 xã.
Bảng 8 dưới đây cung cấp bức tranh chung về nông thôn đồng bằng sông Hồng
từ năm 2011 (sau khi bắt đầu thực hiện NTM) cho đến năm 2016.
Bảng 5. Biến động dân số và đơn vị hành chính vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2011 2016
Thay đổi 2011-2016
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Số xã xã 1.944 1.901 -43 97,79
Số thôn thôn 15.241 15.073 -168 98,9
Số hộ hộ 3.842.157 4.003.049 160.892 104,19
Số nhân khẩu khẩu 13.274.107 13.199.697 -74.410 99,44
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo bảng trên, có thể thấy, số lượng xã đã giảm đi 97,8% do nhu cầu đô thị
hóa của các địa phương, kéo theo số lượng thôn trong toàn vùng sụt giảm 98,9%, còn
15.073 thôn. Tuy số hộ gia đình có tăng (do tăng dân số) nhưng số nhân khẩu lại giảm
đáng kể. Nếu xét đến tỷ lệ sinh tự nhiên và tỷ lệ tử thì phần giảm dân số này chủ yếu là
do di cư lên thành phố hoặc do thay đổi quy hoạch các khu vực thôn làng trước đây lên
khu thị tứ, đô thị nhỏ.
176
Tính từ năm 2010, khi bắt đầu có quyết định thực hiện chương trình NTM, cho
đến nay các kết quả đạt được chính của xây dựng NTM ở đồng bằng sông Hồng có thể
nhóm thành các nhóm thành tựu sau: Xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển đổi cơ cấu sử
dụng đất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ cấu xã hội.
2.1.1. Cơ sở hạ tầng
Trong tất cả các khu vực thực hiện chương trình NTM, đồng bằng sông Hồng
được coi là khu vực có tốc độ xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nhanh nhất cả
nước. Các hệ thống đường, điện, trường và trạm y tế, nhà văn hóa cộng đồng được tích
cực đẩy mạnh.
Bảng 6. Số xã, thôn và tỷ lệ xã, thôn có điện phân theo các tỉnh đồng bằng sông Hồng
Tỉnh
Xã có điện Thôn có điện Thôn có điện lƣới quốc gia
Số xã Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 386 100 2.535 99,96 2.535 99.96
Vĩnh Phúc 112 100 1.090 100 1.090 100
Bắc Ninh 97 100 540 100 540 100
Quảng Ninh 111 100 879 100 879 100
Hải Dương 227 100 1.085 100 1.085 100
Hải Phòng 143 100 1.167 100 1.167 100
Hưng Yên 145 100 780 100 780 100
Thái Bình 267 100 1.613 100 1.613 100
Hà Nam 98 100 1.079 100 1.079 100
Nam Định 194 100 2.955 100 2.955 100
Ninh Bình 121 100 1.349 100 1.349 100
Toàn vùng 1.901 100 15.072 99,99 15.072 99,99
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo bảng 9, Hà nội là thành phố duy nhất của vùng còn 1 thôn chưa có hệ
thống điện và hòa điện mạng lưới quốc gia (đến thời điểm 1/7/2016), còn lại 100% các
xã và thôn trong vùng đã có hệ thống điện quốc gia hiện đại, đưa tỷ lệ thôn có điện của
vùng đạt 99,99%. Đây cũng là thành tích cao trong các nhóm vùng có tỷ lệ điện hóa
cao nhất cả nước.
177
Bảng 10 cung cấp thông tin về thực trạng các hệ thống đường ô tô từ trung tâm
tỉnh tới huyện, xã và thôn của vùng. Trong số 11 tỉnh và thành phố trực thuộc TƯ,
Quảng Ninh và Hải Phòng có tỷ lệ các xã có đường ô tô đến thị trấn huyện thấp hơn
cả, do đặc thù điều kiện tự nhiên rộng, nhiều hải đảo và miền núi. Quảng Ninh có tỷ lệ
đường ô tô từ xã đến UBND huyện và từ thôn đến UBND xã lần lượt là 91,89% và
98,87%; Hải Phòng có tỷ lệ tương ứng lần lượt là 99,3% và 99,74%. Hà Nội và các
tỉnh đồng bằng khác do có diện tích tự nhiên không quá lớn, địa hình bằng phẳng, lại
nằm trên các tuyến đường giao thông kinh tế huyết mạch của cả nước nên tỷ lệ đường
ô tô từ xã và thôn đến trung tâm hành chính huyện đều đạt 100%.
Bảng 7. Số xã, thôn có hệ thống đường ô tô từ thôn đến từ UBND huyện và xã
Tỉnh
Xã có đƣờng ô tô đến UBND huyện Thôn có đƣờng ô tô đến UBND xã
Số xã Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 386 100 2.535 99,96
Vĩnh Phúc 112 100 1.090 100
Bắc Ninh 97 100 540 100
Quảng
Ninh
111 100 879 100
Hải Dương 227 100 1.085 100
Hải Phòng 143 100 1.167 100
Hưng Yên 145 100 780 100
Thái Bình 267 100 1.613 100
Hà Nam 98 100 1.079 100
Nam Định 194 100 2.955 100
Ninh Bình 121 100 1.349 100
Toàn vùng 1.901 100 15.072 99,99
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hà Nội và các tỉnh đồng bằng khác do có diện tích tự nhiên không quá lớn, địa
hình bằng phẳng, lại nằm trên các tuyến đường giao thông kinh tế huyết mạch của cả
nước nên tỷ lệ đường ô tô từ xã và thôn đến trung tâm hành chính huyện đều đạt 100%.
178
Bảng 8. Hệ thống đường trục xã rải nhựa, bê tông phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có đƣờng trục rải nhựa bê
tông
Xã có đƣờng trục rải nhựa bê tông
100%
Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 386 100,00 329 85,23
Vĩnh Phúc 112 100,00 95 84,82
Bắc Ninh 97 100,00 78 80,41
Quảng Ninh 111 100,00 92 82,88
Hải Dương 227 100,00 191 84,14
Hải Phòng 141 98,60 127 88,81
Hưng Yên 143 98,62 124 85,52
Thái Bình 262 98,13 246 92,13
Hà Nam 98 100,00 49 50,00
Nam Định 194 100,00 176 90,72
Ninh Bình 121 100,00 79 65,29
Toàn vùng 1.892 99,53 1.586 83,43
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Với hệ thống đường trục xã được giải nhựa hoặc bê tông thì toàn vùng đặt
99,53% với 83,43% được giải nhựa hoặc bê tông hóa 100%. Tỉnh có tỷ lệ rải nhựa
hoặc bê tông hóa 100% hệ thống đường trục xã thấp nhất là Hà Nam, chỉ đạt 50%,
trong khi con số này rất cao ở Thái Bình (92,13%) và Nam Định (90,72%) (bảng 11).
Bảng 9. Hệ thống đường trục thôn rải nhựa, bê tông phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có đƣờng trục thôn rải nhựa bê
tông
Xã có đƣờng trục thôn rải nhựa bê
tông 100%
Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 382 98,96 277 71,76
Vĩnh Phúc 108 96,43 62 55,36
Bắc Ninh 97 100,00 72 74,23
Quảng Ninh 110 99,10 52 46,85
179
Hải Dương 227 100,00 169 74,45
Hải Phòng 142 99,30 118 82,52
Hưng Yên 144 99,31 114 78,62
Thái Bình 257 96,25 237 88,76
Hà Nam 97 98,98 85 86,73
Nam Định 194 100,00 176 90,72
Ninh Bình 121 100,00 65 53,72
Toàn vùng 1. 879 98,84 1.427 75,07
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Với hệ thống đường trục thôn được rải nhựa hoặc bê tông hóa (bảng 8), toàn vùng
có 1.879 xã (98,84%) đáp ứng nhu cầu trong đó 1.427 xã (75%) được bê tông hóa hay trải
nhựa 100%. Nam Định và Thái Bình vẫn là 2 tỉnh dẫn đầu với tỷ lệ bê tông/nhựa hóa 100%
các tuyến đường trục thôn là 90,72% và 88,76%. Tỉnh có tỷ lệ 100% đường trục thôn được
bê tông và nhựa hóa là Quảng Ninh, với chỉ 46,85% số xã.
Tương tự như hệ thống đường trục thôn, tỷ lệ xã có hệ thống đường ngõ xóm
được bê tông hay trải nhựa của Quảng Ninh là thấp nhất, đạt 94,56% số xã ; tỷ lệ này
cao nhất ở Nam Định với 100% số xã. Nếu được trải nhựa hoặc bê tông hóa 100%
đường ngõ xóm thì Quảng Ninh chỉ đạt 30,63% và cao nhất là Thái Bình với 84,64%
số xã của tỉnh (Hình 12)
Thống kê cho thấy, để có thể đạt chuẩn nông thôn mới toàn tỉnh hoặc nông thôn
mới kiểu mẫu, hệ thống đường trục chính qua các khu dân cư (ngõ xóm) vẫn còn là
tiêu chí phải phấn đấu nhiều, hoàn thiện hơn ở hầu hết các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng. Đến 1/7/2016, dù 97,26% (trong tổng số 1.849) số xã của vùng đã có hệ thống
đường ngõ xóm rải nhựa hoặc bê tông hóa, chỉ có 60,23% tổng số xã là được nhựa hóa
hay bê tông hóa 100% hệ thống đường ngõ/xóm này, so với con số trung bình trung
27,26% của cả nước.
Trường học là một trong các tiêu chí quan trọng trong xây dựng NTM. Hệ
thống trường học bao gồm trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Đến tháng
7/2016, thống kê trên toàn bộ các xã của vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy 100%
các xã có trường mầm non và tiểu học, 98,32% các xã có trường trung học cơ sở (hình
3). Thái Bình là tỉnh chỉ có 92.88% xã có trường trung học cơ sở; trong khi ở Hà Nội,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định và Ninh Bình, con số này là 100%.
180
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hình 12. Tỷ lệ các xã có đường ngõ xóm bê tông hoặc trải nhựa phân theo tỉnh
Hình 13. Tỷ lệ các xã trường trung học cơ sở phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Trường học là một trong các tiêu chí quan trọng trong xây dựng NTM. Hệ
thống trường học bao gồm trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Đến tháng
7/2016, thống kê trên toàn bộ các xã của vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy 100%
các xã có trường mầm non và tiểu học, 98,32% các xã có trường trung học cơ sở (hình
13). Thái Bình là tỉnh chỉ có 92.88% xã có trường trung học cơ sở; trong khi ở Hà
Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định và Ninh Bình, con số này là 100%.
49.48
37.50
45.36
30.63
59.03
66.43
50.34
84.64
81.63 82.99
53.72
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải Phòng Hƣng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình
% xã có
đường
ngõ xóm
bê
tông/trải
nhựa
100.00
99.11
100.00
99.10 98.68
95.10
100.00
92.88
98.98
100.00 100.00
80.00
82.50
85.00
87.50
90.00
92.50
95.00
97.50
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
181
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hình 14. Tỷ lệ các trường mầm non được xây dựng kiên cố phân theo tỉnh thành
Thông qua chương trình NTM, Nam Định là tỉnh đi đầu về tỷ lệ trường mầm
non kiên cố (98,22%) và chỉ có 1,78% là còn bán kiên cố. Hưng Yên là tỉnh có tỷ lệ
trường mầm non kiên cố thấp nhất (78,05%) và bán kiên cố là 19,51%. Các tỉnh có
trường mầm non chưa đạt yêu cầu (tạm bợ) lần lượt là Hưng Yên (2,44%), Vĩnh Phúc
(1,26%), Quảng Ninh (0,76%) và Hải Dương (0,43%).
Hình 15. Tỷ lệ các trường tiểu học và trung học cơ sở bán kiên cố phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo hình 15, Bắc Ninh là tỉnh duy nhất không còn trường tiểu học hay trung
học cơ sở nào bán kiên cố. Vĩnh Phúc là tỉnh không có trường tiểu học bán kiên cố
nhưng có 0.88% trường THCS trên địa bàn tỉnh vẫn là bán kiên cố. Quảng Ninh, Hưng
Yên và Thái Bình là những tỉnh có tỷ lệ trường học bán kiên cố cao nhất trong toan
vùng. Tính trung bình, toàn vùng đồng bằng sông Hồng, vẫn còn 2,4% trường tiểu học
và 2,52% trường THCS mới được xây dựng ở mức bán kiên cố.
Với hệ thống các nhà văn hóa, thể thao và sinh hoạt cộng đồng, toàn vùng có
87,41% số thôn có nhà văn hóa cộng đồng thôn và 67,5% số xã có nhà văn hóa xã. Tỷ
lệ thôn có nhà VH, sinh hoạt cộng đồng thấp nhất là Nam Định (81,59%), cao nhất là
Quảng Ninh (98,58%). Tỷ lệ xã có nhà VH xã cao nhất là Hải Phòng (96,5%) và thấp
nhất là Hà Nội, chỉ có 23,06% (bảng 9).
5.97 5.70 7.69 3.79
9.40 6.74
19.51
7.04 6.12
1.78
9.38
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
Tỷ lệ %
trường mầm
non XD kiên
cố
Tỷ lệ %
trường mầm
non XD bán
kiên cố
3.13
0.00 0.00
6.35
0.85 0.65
5.30
4.00
2.97
1.16
0.79
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
Tỷ lệ trường
tiểu học XD
bán kiên cố
Tỷ lệ trường
THCS XD
bán kiên cố
182
Bảng 10. Nhà văn hóa và sinh hoạt cộng đồng theo xã, thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng
Tỉnh
Xã có nhà VH xã Thôn có nhà VH/sinh hoạt CĐ thôn
Số xã Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 89 23,06 2 236 88,17
Vĩnh Phúc 104 92,86 1 043 95,69
Bắc Ninh 49 50,52 490 90,74
Quảng Ninh 41 36,94 863 98,18
Hải Dương 168 74,01 1 048 96,59
Hải Phòng 138 96,50 781 66,92
Hưng Yên 111 76,55 670 85,90
Thái Bình 252 94,38 1 503 93,18
Hà Nam 65 66,33 957 88,69
Nam Định 144 74,23 2 411 81,59
Ninh Bình 88 72,73 1 174 87,03
Toàn vùng 1 249 65,70 13 176 87,41
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hệ thống bưu điện và các điểm bưu điện văn hóa xã cũng rất khác nhau giữa
các tỉnh thành trong vùng. Trạm bưu điện nhiều nhất phân theo tỷ lệ là ở Hưng Yên
(33,1%) và thấp nhất ở Ninh Bình (13,22%).
183
Bảng 11. Số xã có trạm bưu điện và điểm bưu điện văn hóa xã phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có trạm bƣu
điện xã
Xã có điểm bƣu
điện VH xã
Xã có điểm bƣu điện văn hóa xã
có máy tính kết nối mạng
internet
Số xã
Tỷ lệ
(%)
Số xã
Tỷ lệ
(%)
Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 102 26,42 334 86,53 140 36,27
Vĩnh Phúc 13 11,61 103 91,96 45 40,18
Bắc Ninh 13 13,40 89 91,75 68 70,10
Quảng Ninh 18 16,22 97 87,39 40 36,04
Hải Dương 39 17,18 187 82,38 65 28,63
Hải Phòng 23 16,08 109 76,22 37 25,87
Hưng Yên 48 33,10 126 86,90 36 24,83
Thái Bình 36 13,48 238 89,14 104 38,95
Hà Nam 30 30,61 92 93,88 37 37,76
Nam Định 42 21,65 194 100,00 42 21,65
Ninh Bình 16 13,22 94 77,69 19 15,70
Toàn vùng 380 19,99 1 663 87,48 633 33,30
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Tuy nhiên, theo bảng 10, tỷ lệ xã có điểm bưu điện VH xã trong toàn vùng lại
rất cao (87,48%) cho thấy xu hướng mới trong xây dựng NTM, đó là thay thế trạm bưu
điện xã truyền thống thành điểm bưu điện VH mới, nơi người dân có thể đọc báo, tra
cứu thông tin chung. Một điểm đánh giá mức độ thành công của NTM đó là số các xã
có máy tính kết nối internet phục vụ tra cứu thông tin cho người dân tại các trạm bưu
điện VH. Đến nay toàn vùng mới chỉ có 33,3% xã có trang bị máy tính kết nối internet
tại điểm bưu điện VH, cao nhất Bắc Ninh (>70% số xã) và thấp nhất là Ninh Bình
(>15% số xã).
184
Bảng 12. Số xã, thôn có sân/khu thể thao phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có sân thể thao xã Thôn có khu thể thao thôn
Số xã Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 233 60,36 1 240 48,90
Vĩnh Phúc 91 81,25 869 79,72
Bắc Ninh 38 39,18 313 57,96
Quảng Ninh 61 54,95 166 18,89
Hải Dương 160 70,48 855 78,80
Hải Phòng 97 67,83 350 29,99
Hưng Yên 87 60,00 475 60,90
Thái Bình 246 92,13 1 257 77,93
Hà Nam 64 65,31 633 58,67
Nam Định 175 90,21 1 628 55,09
Ninh Bình 86 71,07 574 42,55
Toàn vùng 1 338 70,38 8 360 55,46
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Bảng 13. Số lượng xã, thôn có trạm y tế và nhân viên y tế phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có trạm y tế
Xã đạt tiêu chí quốc
gia về y tế
Thôn có nhân viên y tế/bà
đỡ thôn bản
Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 386 100,00 353 91,45 2 445 96,41
Vĩnh Phúc 112 100,00 96 85,71 1 090 100,00
Bắc Ninh 97 100,00 76 78,35 540 100,00
Quảng Ninh 111 100,00 99 89,19 875 99,54
Hải Dương 227 100,00 131 57,71 1 068 98,43
Hải Phòng 143 100,00 122 85,31 1 167 100,00
Hưng Yên 145 100,00 124 85,52 750 96,15
185
Thái Bình 267 100,00 255 95,51 1 608 99,69
Hà Nam 98 100,00 68 69,39 1 079 100,00
Nam Định 194 100,00 148 76,29 2 925 98,98
Ninh Bình 121 100,00 99 81,82 1 348 99,93
Toàn vùng 1 901 100,00 1 571 82,64 14 895 98,82
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Bình quân số lượng sân thể thao xã toàn vùng đạt trên 70% số xã, với khu sân
thể thao thôn, con số này là 55,46% tổng số thôn. Các xã, thôn của các tỉnh như Nam
Định, Thái Bình và Vĩnh Phúc là những tỉnh có phong trào thể thao quần chứng mạnh
mẽ nhất, thể hiện qua số lượng các khu thể thao cao nhất (bảng 11)
Bên cạnh thể thao, chăm sóc sức khỏe cộng đồng cư dân các vùng nông thôn
của đồng bằng sông Hồng là một trong các tiêu chí đánh giá quan trọng mức độ thành
công của chương trình NTM. 100% số xã có trạm y tế xã, 82,4% số xã có trạm y tế xã
đạt chuẩn quốc gia và 98,82% thôn có nhân viên y tế thôn/bản và bà đỡ. Thái Bình là
tỉnh có số lượng xã đạt tiêu chuẩn y tế quốc gia cao nhất (95,5%) và thấp nhất là Hải
Dương, chỉ có 57,7% đạt chuẩn quốc gia về tiêu chí y tế (Bảng 12).
Hình 16. Tỷ lệ xã có trạm y tế xã được XD kiên cố phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hình 16 cho thấy thực trạng các khu vực khám chữa bệnh của các trạm y tế địa
phương. Vĩnh Phúc, Thái Bình là 2 tỉnh có tỷ lệ xã có trạm y tế kiên cố cao nhất, lần
lượt là 98,21% và 98,88%. Tỷ lệ này thấp nhất ở Ninh Bình và Hà Nội. Tỷ lệ các trạm
y tế còn lại là bán kiên cố và dạng tạm bợ khác.
Với hệ thống kênh mương thoát và tiêu nước, phục vụ tưới tiêu nông nghiệp thì
toàn vùng có 28,93% tổng số kênh mương đã được kiên cố hóa, tạo điều kiện thuận lợi
cho bà con sản xuất nông nghiệp và xử lý môi trường. Vĩnh Phúc là tỉnh duy nhất
không có hệ thống kênh mương nội đồng. Tỷ lệ kiên cố hóa kênh mương của Quảng
Ninh là cao nhất, ở mức 57,97% tổng số km kênh mương, thấp nhất là Nam Định mới
đạt trên 13%. Toàn vùng đồng bằng sông Hồng như vậy còn có 46,59% tổng số km
chiều dài kênh mương cần được kiên cố hóa trong thời gian tới. Hình 17 cung cấp
thông tin về tỷ lệ kênh mương cần được tiếp tục kiên cố hóa theo tỉnh thành trong
86.01
98.21
94.85
90.99
87.22
94.41
87.59
98.88
88.78
94.85
85.12
75.00
80.00
85.00
90.00
95.00
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
186
vùng. Theo đồ thị thì Hưng Yên và Bắc Ninh cần phải kiên cố hóa lần lượt khoảng
63,5% và 55,6%
Hình 17. Tỷ lệ kênh mương cần được kiên cố hóa phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Nước sạch sinh hoạt là một trong các tiêu chí cần phải được hoàn thiện nhất
trong thời gian tới. Dù nằm ở khu vực thuận lợi, tỷ lệ xã có công trình nước sạch tập
trung của toàn vùng chỉ mới dừng lại ở con số xấp xỉ 33,8%.
Bảng 14. Xã và thôn có công trình cung cấp nước sinh hoạt tập trung theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có công trình cung cấp nƣớc SH
tập trung
Thôn có công trình cung cấp
nƣớc SH tập trung
Số xã Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 58 15,03 101 3,98
Vĩnh Phúc 28 25,00 39 3,58
Bắc Ninh 28 28,87 33 6,11
Quảng Ninh 55 49,55 103 11,72
Hải Dương 78 34,36 109 10,05
Hải Phòng 112 78,32 153 13,11
Hưng Yên 24 16,55 28 3,59
Thái Bình 101 37,83 114 7,07
Hà Nam 39 39,80 51 4,73
Nam Định 45 23,20 51 1,73
Ninh Bình 74 61,16 83 6,15
Toàn vùng 642 33,77 865 5,74
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Bảng 13 cho thấy tỷ lệ các xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cao là
Hải Phòng (78,3%) và Ninh Bình (61,2%); tỷ lệ này thấp nhất ở Hà Nội với 15% do
49.97
0.00
56.55
40.63
32.23
54.45
63.54
47.87
42.83
39.11
50.25
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
187
địa hình phức tạp của các huyện miền núi như Ba Vì, Sóc Sơn. Tỷ lệ thôn có công
trình cấp nước sinh hoạt tập trung cao là Hải Phòng (13,1%) và Quảng Ninh (11,7%);
thấp nhất là Nam Định mới chỉ có 1,73% số thôn.
Hệ thống thu gom và xử lý môi trường tại thôn, xã là tiêu chí quan trọng khác,
đánh giá chất lượng cuộc sống tại các vùng NTM trên toàn vùng.
Bảng 15. Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt của thôn phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Rãnh xây có nắp đậy Rãnh xây không có nắp đậy Hình thức khác
Số thôn Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 1 850 72,95 408 16,09 43 1,70
Vĩnh Phúc 613 56,24 101 9,27 57 5,23
Bắc Ninh 349 64,63 182 33,70 8 1,48
Quảng Ninh 139 15,81 78 8,87 91 10,35
Hải Dương 471 43,41 272 25,07 108 9,95
Hải Phòng 550 47,13 265 22,71 189 16,20
Hưng Yên 376 48,21 201 25,77 27 3,46
Thái Bình 841 52,14 148 9,18 108 6,70
Hà Nam 378 35,03 256 23,73 73 6,77
Nam Định 1 321 44,70 310 10,49 121 4,09
Ninh Bình 149 11,05 112 8,30 75 5,56
Toàn vùng 7 037 46,69 2 333 15,48 900 5,97
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hà Nội là thành phố có hệ thống xử lý nước sinh hoạt có nắp cao nhất đạt 73%
số thôn trên địa bàn, thấp nhất là Ninh Bình mới chỉ dừng lại ở con số khiêm tốn 11%.
Hải Phòng và Quảng Ninh là 2 tỉnh có hệ thống này cần được hoàn thiện hơn với
16,2% và 10,4% số thôn. Trên toàn vùng, 46,7% số thôn đã có hệ thống rãnh thoát
nước sinh hoạt sạch sẽ, có nắp đậy, 15,5% chưa có nắp đậy, và khoảng 6% số thôn cần
kiên cố hóa hệ thống nước thoát cho hợp vệ sinh hơn.
188
Hình 18. Tỷ lệ xã, thôn có thu gom rác thải sinh hoạt phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Thu gom và xử lý chất thải rắn (rác thải sinh hoạt) là vấn đề được bà con đề cập
nhiều nhất trong đánh giá khảo sát các bài học của xây dựng NTM tại các tỉnh thành.
Đến thời điểm hiện tại hầu hết các xã và thôn đạt tỷ lệ thu gom rác thải SH rất cao,
trên 80% ở cả xã và thôn, chỉ riêng Quảng Ninh có tỷ lệ này khá thấp, chỉ đạt 73,9% số
xã và 58,5% số thôn. Với toàn vùng, việc thu gom rác thải SH đạt 95,1% tổng số xã và
90,8% tổng số thôn.
Bảng 16. Hình thức xử lý rác thải sinh hoạt của thôn phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Chôn lấp, đốt, chuyển
đến nơi khác xử lý
Hình thức khác Không xử lý
Số thôn Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%) Số thôn Tỷ lệ (%)
Hà Nội 2 426 95,66 6 0,24 6 0,24
Vĩnh Phúc 978 89,72 7 0,64 4 0,37
Bắc Ninh 532 98,52 - - 2 0,37
Quảng Ninh 494 56,20 20 2,28 - -
Hải Dương 965 88,94 9 0,83 6 0,55
Hải Phòng 1 125 96,40 24 2,06 5 0,43
Hưng Yên 703 90,13 28 3,59 19 2,44
Thái Bình 1 532 94,98 - - - -
Hà Nam 1 042 96,57 2 0,19 - -
Nam Định 2 670 90,36 - - - -
Ninh Bình 1 025 75,98 39 2,89 22 1,63
Toàn vùng 13 492 89,51 135 0,90 64 0,42
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Đến thời điểm hiện tại, Bắc Ninh là tỉnh có số thôn mà rác thải SH được đốt
hoặc chuyển đến nơi xử lý chuyên dụng cao nhất, đạt gần 99%; tỉnh thấp nhất là
Quảng Ninh với chỉ hơn 56% số thôn. Tỷ lệ thôn có rác thải không xử lý cao nhất là
Hưng Yên với 2,44%, thấp nhất là Hà Nội với 0,24%. Các tỉnh như Nam Định, Hà
96.14
90.73
98.89
58.48
90.32
98.89 96.15 94.98 96.76
90.36
80.50
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
Tỷ lệ xã
có thu
gom
RTSH
Tỷ lệ
thôn có
thu gom
RTSH
189
Nam, Thái Bình và Quảng Ninh thì 100% số thôn có rác thải sinh hoạt được xử lý dưới
các hình thức khác nhau.
Đến tháng 7/2016 tình hình chung về các xã đạt chuẩn nông thôn mới của toàn
vùng được thể hiện trong bảng 16 dưới đây. Tỉnh có nhiều xã chưa đạt chuẩn nhất là
Hà Nội (185), Hải Dương (180) và Hải Phòng (130). Số xã đạt chuẩn với trên 15 tiêu
chí nhiều nhất ở Quảng Ninh (67%) và Nam Định (65,2%); thấp nhất là Vĩnh Phúc
(13%). Với các xã đạt chuẩn 10-14 tiêu chí, Vĩnh Phúc có 77,3% số xã và Thái Bình là
75,8%; trong nhóm này, tính thấp nhất là Quảng Ninh 23,1% do phần lớn các xã đã đạt
từ 15-19 tiêu chí. Cần lưu ý là bảng 16 có 2 nhóm thông tin: xã đã đạt chuẩn (có thể từ
10-19 tiêu chí) và nhóm xã chưa đạt chuẩn nào. Phần trăm các xã đạt chuẩn thể hiện
qua tổng các xã của nhóm đạt chuẩn từ 10-19 tiêu chí.
Nếu xét theo tiêu chí như Quy hoạch & thực hiện quy hoạch, toàn vùng có
99,79% số xã đã đạt được tiêu chí này; theo tiêu chí đường giao thông, 65% số xã đã
đạt chuẩn; tiêu chí trường học đạt 62,3% số xã; tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa đạt
61,25%; chợ nông thôn là 84,2%; bưu điện 99,5%; nhà ở dân cư 94,1%; tiêu chí văn
hóa 85,4% số xã; tiêu chí môi trường đạt 70,9% số xã.
Bảng 17. Số xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới phân theo tiêu chí và địa phương
Tỉnh
Xã chƣa đạt chuẩn Xã đạt từ 15-19 tiêu chí Xã đạt từ 10-14 tiêu chí
Số xã Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 185 103 55,68 82 44,32
Vĩnh Phúc 44 6 13,64 34 77,27
Bắc Ninh 61 31 50,82 30 49,18
Quảng Ninh 91 61 67,03 21 23,08
Hải Dương 180 79 43,89 101 56,11
Hải Phòng 132 52 39,39 80 60,61
Hưng Yên 110 62 56,36 48 43,64
Thái Bình 99 18 18,18 75 75,76
Hà Nam 65 29 44,62 36 55,38
Nam Định 92 60 65,22 32 34,78
Ninh Bình 76 18 23,68 38 50,00
Toàn vùng 1 135 519 45,73 577 50,83
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
2.1.2. Cơ cấu sản xuất và kinh tế
NTM đem lại nhiều đồi thay về cơ sở hạ tầng, tăng thu hút đầu tư kinh tế từ bên
ngoài đã kéo theo nhưng thay đổi mang bước ngoạt lớn tại các tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng. Cơ cấu thu nhập đến nay theo chuẩn NTM của toàn vùng đạt 78,4% tổng
số xã; tiêu chí số hộ nghèo đạt 72,3% số xã (bảng 17).
190
Bảng 18. Số xã đạt chuẩn NTM theo các tiêu chí về kinh tế phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Thu nhập Hộ nghèo
Lao động có việc làm
thƣờng xuyên
Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 304 78,76 327 84,72 377 97,67
Vĩnh Phúc 97 86,61 104 92,86 112 100,00
Bắc Ninh 72 74,23 57 58,76 97 100,00
Quảng Ninh 88 79,28 87 78,38 111 100,00
Hải Dương 153 67,70 113 50,00 215 95,13
Hải Phòng 92 66,19 108 77,70 125 89,93
Hưng Yên 113 77,93 75 51,72 142 97,93
Thái Bình 240 91,25 198 75,29 261 99,24
Hà Nam 77 78,57 76 77,55 98 100,00
Nam Định 181 93,30 154 79,38 192 98,97
Ninh Bình 63 53,39 67 56,78 93 78,81
Toàn vùng 1 480 78,35 1 366 72,31 1 823 96,51
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Cũng theo bảng 17, Vĩnh Phúc là tỉnh đi đầu về giảm số hộ nghèo trên địa bàn
các xã, tăng thu nhâp nông hộ và đảm bảo 100% dân cư trong độ tuổi lao động có việc
làm ổn định. Lợi thế về vị trí địa lý (gần Hà nội) và có chính sách thu hút đầu tư trong
các khu công nghiệp, nhóm tiêu chí về kinh tế của Vình Phúc vì thế mà nổi trội nhất
trong toàn vùng. Nam Định cũng là tỉnh có số xã đạt chuẩn bộ 3 nhóm tiêu chí kinh tế
rất cao, khẳng định tính hiệu quả của thực hiện NTM tại địa phương.
Cũng theo nhóm tiêu chí này, Ninh Bình là tỉnh có số xã đạt chuẩn thấp nhất
trong toàn vùng cho cả 3 tiêu chí. Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Hải Phòng nằm
ở nhóm đạt mức trung bình khá. Hà Nội cũng đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Kinh tế hộ nông thôn có thể coi là tiêu chí đánh giá chung hiệu quả chuyển dịch
cơ cấu sản xuất và kinh tế các vùng thực hiện NTM ven đô. Việc đầu tư, xây dựng và
mở rộng cơ sở hạ tầng nông thôn đòi hỏi sự tham gia tích cực các thành phần kinh tế,
bên cạnh Nhà nước, chính quyền và người dân. Tín dung nông thôn là hình thức hỗ trợ
hiệu quả cho các hoạt động xây dựng NTM và phát triển sản xuất của người dân.
191
Bảng 19. Tín dụng, ngân hàng và khả năng tiếp cận vốn vay của dân theo địa phương
Tỉnh
Xã có ngân hàng, chi
nhanh ngân hàng, quỹ
tín dụng nhân dân
Tỷ lệ hộ có
nhƣ cầu vay
vốn trong 12
tháng
Chia ra
Số xã Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ hộ đƣợc
vay (%)
Tỷ lệ hộ không
đƣợc vay (%)
Hà Nội 138 35,75 14,75 63,85 36,15
Vĩnh Phúc 33 29,46 26,42 76,16 23,84
Bắc Ninh 36 37,11 13,68 73,75 26,25
Quảng Ninh 12 10,81 22,22 72,39 27,61
Hải Dương 99 43,61 11,35 86,24 13,76
Hải Phòng 36 25,17 19,68 75,00 25,00
Hưng Yên 71 48,97 11,24 83,04 16,96
Thái Bình 157 58,80 12,10 73,06 26,94
Hà Nam 22 22,45 13,79 75,29 24,71
Nam Định 60 30,93 14,58 76,95 23,05
Ninh Bình 34 28,10 23,61 67,13 32,87
Toàn vùng 698 36,72 15,74 74,11 25,89
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo bảng 18, đánh giá mức độ phổ biến của ngân hàng và hình thức quỹ tín
dụng tại các xã trong vùng cho thấy 36,7% các xã có sự hiện diện của các tổ chức này.
Ngân hàng và quỹ tín dụng có mặt nhiều nhất ở Thái Bình và Hưng Yên với tổng số xã
có sự hoặt động của các tổ chức này là 58,8% và 49%. Tuy thế, đây lại không phải là
các tỉnh mà trong 12 tháng khảo sát điều tra, nhu cầu vay vốn của người dân là lớn
nhất. Các tỉnh như Vĩnh Phúc, dân có như cầu vay vốn đến 16,4% thì chỉ có 29,5% xã
có mẳt các tổ chức tín dụng/ngân hàng; Ninh Bình cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Điều này dẫn đến tỷ lệ hộ không được vay vốn phát triển sản xuất ở Ninh Bình khá
cao, tới 32,9% số hộ hỏi vay, bên cạnh Hà Nội, thành phố có tỷ lệ hộ không được vay
vốn tới 36%.
Tiếp cận thị trường thông qua mạng lưới chợ địa phương là một trong những cơ
hội phát triển sản xuất cho nông hộ và thôn, xã NTM trong vùng.
192
Bảng 20. Xã có chợ và chợ hàng ngày phân theo tỉnh thành
Tỉnh
Xã có chợ Xã có chợ hàng ngày
Số xã Tỷ lệ (%) Số xã Tỷ lệ (%)
Hà Nội 323 83,68 301 77,98
Vĩnh Phúc 67 59,82 55 49,11
Bắc Ninh 64 65,98 60 61,86
Quảng Ninh 54 48,65 42 37,84
Hải Dương 150 66,08 131 57,71
Hải Phòng 118 82,52 116 81,12
Hưng Yên 91 62,76 76 52,41
Thái Bình 203 76,03 186 69,66
Hà Nam 76 77,55 62 63,27
Nam Định 152 78,35 149 76,80
Ninh Bình 87 71,90 79 65,29
Toàn vùng 1 385 72,86 1 257 66,12
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Bảng 19 cho thấy có tới 83,7% các xã vùng đồng bằng có chợ và 78% xã có
chợ hàng ngày. Đây là con số khá cao cho thấy giao thương hàng nông thủy sản khác
tấp nập trong vùng. Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định là những nơi có tỷ lệ chợ và chợ
hàng ngày rất cao trong xã.
Do đặc thù vùng địa lý, là khu vực có tỷ lệ dân cư sống bằng nghề nông khá lớn
nên sự có mặt của đội ngũ khuyến nông-lâm-ngư, cán bộ thú y thôn là vô cùng quan
trọng. Tính bình quân toàn vùng, 91,1% xã có đội ngũ cán bộ chuyên trách này, với
99,5% số xã có cán bộ thú y chuyên nghành.
Hệ thống tổ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cũng được hình thành,
thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường (bảng 20)
Bảng 21. Biến động tổ hợp tác nông thôn đồng bằng sông Hồng
Chỉ tiêu 2011 2016
Tỷ lệ so với tổng số (%)
2011 2016
Số xã có tổ hợp tác 1 315 2 558 14,50 28,49
Số xã có tổ hợp tác nông - lâm ngiệp 1 111 2 284 12,25 25,44
Số xã có tổ hợp tác thủy sản 363 448 4,00 4,99
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Số tổ hợp tác trong thủy sản dường như không biến động nhiều trong giai đoạn
2011-2016 với con số tăng gần 1%. Số tổ hợp tác và hợp tác nông – lâm nghiệp tăng
gần gấp đôi trong 5 năm sau khi thực hiện NTM, cho thấy tín hiệu đáng mừng trong
193
hợp tác sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị trường của các nhóm nông hộ cùng mục
đích.
Hình 19. Tỷ lệ xã có tổ hợp tác nông nghiệp phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hình 19 cho thấy mức độ phổ biến của các tổ hợp tác nông ngiệp trong vùng.
Bắc Ninh (37,1%), Quảng Ninh (13,5%), Hải Phòng (11,9%) và Nam Định (11.3%) có
tỷ lệ xã có tổ hợp tác nông nghiệp cao nhất. Một số tỉnh như Hưng Yên, Hà Nam đến
thời điểm 7/2016 vẫn chưa có tổ hợp tác nông nghiệp nào. Riêng tổ hợp tác lâm
nghiệp, do đặc thù vùng, chỉ có Quảng Ninh là có tổ hợp tác lâm nghiệp với 2,7% xã.
Số lượng tổ hợp tác thủy sản cũng rất ít, cả vùng chỉ có tổng 15 tổ hợp tác thủy
sản, tập trung tại Quảng Ninh (7), Hải Phỏng (3), Hải Dương (2), Thái Bình, Nam
Định và Ninh Bình mỗi tỉnh có 1 tổ.
Chế biến nông thủy sản cũng biến động khá nhiều hàng năm. Năm 2011 số xã
có hội/cơ sở chế biến sản phẩm nông sản là 1850 và đến 2016 còn 1837; cơ sở chế
biến lâm sản từ 1807 xuống 1776; cơ sở thủy sản từ 114 xuống 86. Xu hướng chuyển
dịch dần sang xuất thô các sản phẩm này nhiều hơn.
Cho dù tổ hội chế biến nông – lâm – thủy sản giảm nhưng sự có mặt của các
doanh nghiệp hay chi nhánh doanh nghiệp chế biến các sản phẩm này tại các xã trong
vùng cùng không nhiều, đánh dấu sự chuyển minh từ sản xuất nông-lâm thuần túi sang
các ngành công nghiệp hay dịch vụ khác. Bắc Ninh, Hà Nam và Hưng Yên là các tỉnh
có tỷ lệ xã có sự hiện diện của các doanh nghiệp chế biến này cao nhất trong vùng.;
tỉnh thấp nhất là Thái Bình. Điều này cũng tỷ lệ thuận với số lương các doanh nghiệp
đầu tư vào các khu công nghiệp và chế biến tại Bắc Ninh, Hà Nam và Hưng Yên.
1.30
2.68
37.11
13.51
1.32
11.89
3.75
11.34
4.96
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
40.00
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải Dƣơng Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình
194
Hình 20. Tỷ lệ xã doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Tỷ lệ các xã có hệ thống của hàng cung cấp các dịch vụ sản xuất nông – lâm
nghiệp cũng khá khác nhau trong vùng. Xét về tổng thể, Hưng Yên là tỉnh mà hệ thống
các điểm cung cấp giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản có tỷ lệ nhiều nhất ở các xã
(Hình 21).
Hình 21. Tỷ lệ xã có các điểm/cửa hàng cung cấp giống cây trồng, vật nuôi và
thủy sản phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Hình 22 cho thấy mức độ xuất hiện các cửa hàng cung ứng vật tư và thu mua
sản phẩm nông-lâm-thủy sản tại các xã. Tính trung bình toàn vùng, số xã có cửa hàng
vật tư là 89,4% và của hàng thu mua là 48,5%. Nam Định và Hưng Yên là 2 tỉnh có tỷ
lệ của hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp và thủy sản cao nhất vùng.
13.73
14.29
18.56
13.51
16.30
9.09
17.24
8.24
17.35
15.98
10.74
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
16.00
18.00
20.00
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải Phòng Hƣng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình
16.84
11.61
26.80
12.61
34.80
30.07
63.45
37.45 35.71
54.12
33.88
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc Ninh Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
Xã có
điểm/của
hàng giống
cây trồng
Xã có
điểm/cửa
hàng giống
vật nuôi
Xã có
điêm/cửa
hàng giống
thủy sản
195
Hình 22. Tỷ lệ xã có các điểm/cửa hàng cung cấp vật tư nông-lâm nghiệp và
thủy sản phân theo tỉnh thành
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Nếu tính theo cơ cấu kinh tế các ngành, thay đổi GRDP của vùng từ 2012-2016
được thể hiện ở bảng 18 và hình 13 dưới đây.
Bảng 22. Tổng giá trị sản xuất địa phương (tỷ đồng)
Tỉnh 2012 2016 Tốc độ tăng trƣởng (%)
Hà Nội 407.803 599.178 46,9
Vĩnh Phúc 137.640 215.401 56,5
Bắc Ninh 75.450 127.682 69,2
Quảng Ninh 50.097 110.626 120,8
Hải Dương 56.392 82.347 46,0
Hải Phòng 85.941 132.088 53,7
Hưng Yên 36.079 51.464 42,6
Thái Bình 90.769 138.122 52,2
Hà Nam 53.106 113.415 113,6
Nam Định 91.174 140.981 54,6
Ninh Bình 8.970 13.042 45,4
Theo bảng 21, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội của vùng so với 2012 khá
cao với Quảng Ninh và Hà Năm có mức tăng trưởng trên 100%; Hưng Yên là tỉnh có
biến động tổng thu GRDP thấp nhất ở 42,6%.
26.17
16.07
41.24
30.63
49.78
42.66
79.31
58.80
37.76
96.91
47.93
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
100.00
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
Xã có
cửa
hàng vật
tư nông-
lâm-
thủy sản
Xã có
cửa
hàng thu
mua SP
Nông-
lâm-
thủy sản
196
Hình 23. Giá trị sản xuất phân theo cơ cấu ngành kinh tế năm 2012 & 2016 (tỷ đồng)
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo hình 23, cơ cấu sản xuất nông lâm thủy sản ngày càng giảm đi, nhường
chỗ cho sản xuất cồng nghiệp & xây dựng, dịch vụ. Các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và
Hà Nam cho thấy biến động cơ cấu nông-lâm-thủy sản và công nghiệp-xây dựng lớn
nhất trong 5 năm.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức lao động xã hội và văn hóa
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất và kinh tế tất kéo theo biến động về thu nhập và
nhân công lao động tại địa phương [2].
4.1
7.6 6.4 8.6
20.4
9.0
16.4
30.2
16.1
22.9
10.6
30.5
80.9
69.6
52.1
47.5
33.9
51.4
48.1
66.9
45.2
56.7
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
70.0
80.0
90.0
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
2012
Nông
lâm
thủy
sản
Công
nghiệp
& xây
dựng
Dịch vụ
3.2
5.8 3.9
7.0
15.9
6.6
12.8
24.7
8.8
17.8
8.0
29.7
81.5
72.6
53.5 53.1
37.1
51.2 53.1
78.1
59.1
56.6
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
70.0
80.0
90.0
Hà Nội Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
Quảng
Ninh
Hải
Dƣơng
Hải
Phòng
Hƣng
Yên
Thái
Bình
Hà Nam Nam
Định
Ninh
Bình
2016
Nông
lâm
thủy
sản
Công
nghiệp
& xây
dựng
Dịch vụ
197
Bảng 23. Cơ cấu thu nhập nông hộ theo ngành kinh tế tại các tỉnh ĐB sông Hồng
Tỉnh Số hộ
Cơ cấu hộ theo nguồn thu nhập (%)
Nông-lâm &
thủy sản
CN & XD
Dịch vụ
thƣơng mại
Khác
Hà Nội 972 040 20,83 35,63 34,63 8,91
Vĩnh Phúc 216 116 32,73 35,08 23,84 8,35
Bắc Ninh 261 265 14,80 57,86 18,84 8,50
Quảng Ninh 117 048 50,81 17,69 23,48 8,02
Hải Dương 421 252 27,87 38,01 18,07 16,06
Hải Phòng 300 844 19,50 40,16 26,53 13,81
Hưng Yên 295 543 29,06 33,12 23,39 14,43
Thái Bình 519 925 28,98 34,95 19,34 16,72
Hà Nam 215 163 25,29 36,10 21,22 17,39
Nam Định 461 564 29,70 34,54 21,64 14,13
Ninh Bình 222 289 34,34 30,98 20,25 14,44
Toàn vùng 4 003 049 26,28 36,49 24,51 12,73
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Theo bảng 22, Quảng Ninh là tỉnh có tỷ lệ hộ có thu nhập chính đến từ nông-
lâm-ngư cao nhất vùng (51%), trong khi Bắc Ninh là thấp nhất với chỉ 14,8%. Cơ cấu
này tỷ lệ thuận với thu nhập từ xây dựng và công nghiệp của các hộ.
Bảng 24. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc tại địa phương
Hoạt động kinh tế
chính
Số ngƣời Cơ cấu (%) Thay đổi 2016
so với 2011
(điểm %) 2011 2016 2011 2016
Nông nghiệp 2 854 607 1 961 687 40,68 29,30 -11,38
Lâm nghiệp 8 026 10 022 0,11 0,15 0,04
Thủy sản 129 533 120 541 1,85 1,80 -0,05
Diêm nghiệp 8 506 3 110 0,12 0,05 -0,07
Công nghiệp 1 458 225 1 977 875 20,78 29,53 8,75
Xây dựng 727 368 701 320 10,36 10,47 0,11
198
Thương nghiệp 767 852 733 706 10,94 10,96 0,02
Vận tải 192 121 254 695 2,74 3,80 1,06
Dịch vụ khác 807 376 829 254 11,50 12,38 0,88
Không hoạt động kinh tế 64 756 104 533 0,92 1,56 0,64
Toàn vùng 7 018 370 6 696 743 100,0 100,0 -
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Với số người trong độ tuổi lao động có thể tham gia các hoạt động sản xuất
kinh tế tại địa phương, kết quả thống kê ở bảng 23 cho thấy tỷ lệ lao động nông nghiệp
sụt giảm hơn 11,4% từ 2011-2016. Số lao động tham gia sản xuất công nghiệp tăng
8,8%; số lao động trong các ngành dịch vụ tăng nhẹ khoảng 0,9%, trong khi có khoảng
0,6% không lao động trong bất cứ 1 hoạt động kinh tế nào. Xu hướng chuyển dịch lao
động là tất yếu khi cơ sở hạ tầng, kinh tế địa phương được nâng lên, mang lại nhiều cơ
hội việc làm ôn định, có thu nhập cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp thuần túy,
Với tốc độ chuyển dịch 2,5% mỗi năm, trong thời gian tới, có lẽ cư dân lao động chính
cho sản xuất nông nghiệp sẽ là người cao tuổi (ngoai độ tuổi lao động trẻ thường được
tuyển dụng ở các khu công nghiệp hay nhóm ngành kinh tế hấp dẫn khác.
Bảng 25. Cơ cấu lao động theo hoạt động kinh tế tại các tỉnh ĐB sông Hồng
Tỉnh Số ngƣời
Cơ cấu (%)
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản Công nghiệp
Hà Nội 1 845 377 24,35 0,05 0,93 27,81
Vĩnh Phúc 418 307 35,35 0,08 0,74 25,47
Bắc Ninh 456 166 18,68 0,02 1,03 49,69
Quảng Ninh 232 061 44,69 3,42 10,49 11,78
Hải Dương 647 988 31,27 0,02 2,68 34,46
Hải Phòng 514 591 23,74 0,03 2,25 33,60
Hưng Yên 491 191 33,35 - 0,53 31,88
Thái Bình 723 970 31,43 0,02 1,75 28,68
Hà Nam 327 360 30,82 0,01 1,14 31,12
Nam Định 686 862 32,34 0,01 2,08 24,30
Ninh Bình 352 870 38,64 0,06 2,54 21,20
Toàn vùng 6 696 743 29,30 0,15 1,80 0,05
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2016
Nếu tính theo tỉnh thành trong vùng (bảng 24), Quảng Ninh là tỉnh có số lao
động nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất, trong khi hầu hết các tỉnh còn lại có tỷ lệ lao
động nông nghiệp và công nghiệp khác ngang nhau. Bắc Ninh là tỉnh có tỷ lệ lao động
tham gia hoạt động SX công nghiệp khoảng 50% trong khi nông nghiệp chỉ còn 18,7%
199
Một vấn đề khác trong quản lý lao động địa phương là tình trạng di cư vào các
thành phố lớn tìm cơ hội việc làm tốt hơn. Con số này rất khó thống kê, nhưng ảnh
hưởng không nhỏ đến kinh tế hộ vùng NTM, quyết định sự tham gia, đóng góp về
công sức và kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện NTM ở nhiều tỉnh thành.
Như trình bày ở phần 2.1. do cơ sở hạ tầng được nâng cao hoặc cải thiện, các
hoạt động văn hóa – thể thao cộng đồng ở nhiều địa phương đều rất sôi động. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà văn hóa thôn xóm chỉ được cải tạo, chưa thực sự đáp ứng được
nhu cầu sinh hoạt thực tế của người dân.
Quy hoạch nghĩa trang mới và cải tạo nghĩa trang cũ cũng là một trong các yêu
cầu tâm linh không thể thiếu, được đề xuất bởi người dân khi tiến hành khảo sát tại các
địa phương. Người dân có nhu cầu.
2.2. Xây dựng NTM tại Hải Hậu, Nam Định
Hải Hậu nằm về phía Đông Nam của Nam Định; phía đông giáp biển Đông. Hải
Hậu giáp các huyện Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Xuân Trường và Giao Thủy.
Hình 24. Vị trí địa lý huyện Hải Hậu
Huyện có diện tích tự nhiên khoảng 228,14 km2 với dân số khoảng 260.025
người. Hải Hậu là huyện NTM kiểu mẫu, huyện cán đích sớm nhất chương trình NTM
của tỉnh Nam Định. Thành tựu nổi bật của Hải Hậu có thể kể đến như rải nhựa hoặc bê
tông hóa hệ thống đường và kênh nội đồng, xây dựng khu văn hóa thể thao, vận hành
hệ thống camera an ninh xóm, và vận động người dân đóng góp không nhỏ công sức
và tiền bạt trong quá trình xây dựng NTM trên toàn huyện. Các tuyến đường phụ nữ tự
quản được dọn dẹp sạch sẽ định kỳ, hoa trồng hai bên đường cho thấy sự lan tỏa không
hề nhỏ của NTM trong nhận thức của người dân nơi đây.
Do hoàn thiện sớm hệ thống đường giao thông, trong 6 năm từ 2010 đến 2016,
Hải Hậu đã thu hút được hơn 100 nhà đầu tư mới cho huyện (từ 253 lên đến 356 doạnh
nghiệp)[3]. Sự hiện diện này giúp chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt lao động trẻ
200
tham gia các hoạt động sản xuất hoặc lắp ráp tại các khu công nghiệp hay chế biến,
tăng nguồn thu kinh tế hộ một cách ổn định và giảm tỷ lệ lao động tham gia sản xuất
nông nghiệp tại các hộ gia đình xuống con số đáng kể.
Tuy nhiên, do phần lớn nhóm lao động trí thức hoặc có trình độ đã rời lên thành
phố làm việc và học tập, hiện ở các xóm làng, tỷ lệ người cao tuổi và trẻ nhỏ là rất cao.
Nhiều hộ gia đình dù có đất sản xuất nông nghiệp nhưng do không còn người làm, đều
phải thuê mướn nhân công từ bên ngoài. Điều này dẫn đến mối lo về thiếu hụt lao
động có khả năng làm việc trên các cánh đồng hoặc tham gia các hoạt động cộng đồng
khi cần thiết trong thời gian 15-20 năm tới.
Một vấn đề khác được người dân đề xuất khi đi khảo sát tại xã Hải Thanh, Hải
Hậu là vấn đề nước máy sạch phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân. Đây cũng là
nhu cầu thiết yếu khi đời sống của người dân được nâng cao; có nên chăng đây nên là
tiêu chí mới cho xây dựng NTM kiểu mẫu bền vững trong thời gian tới.
Vấn đề môi trường liên quan đến các khu CN và chế xuất nằm trên địa bàn
huyện cũng nhận được nhiều sự quan tâm của người dân. Chuyển dịch kinh tế thực sự
đáng mừng nhưng quản lý môi trường sao cho hài hoà với nhu cầu người dân địa
phương sinh sống và sản xuất nông nghiệp xung quanh các khu CN là bài toán không
đơn giản trong giai đoạn tới, khi nhu cầu sản xuất CN ngày một tăng cao.
Đi cùng với sự tăng trưởng của các khu CN là vấn đề nhà ở cho công nhân di cư
từ các vùng lân cận và các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự xã hội. Những vấn đề
này thực sự vượt qua tầm quản lý của ban quản lý chương trình NTM và xã. Lồng
ghép tiêu chí này cùng với chiến lược phát triển của huyện là điều cần được chú trọng
nhằm đảm bảo an sinh xã hội tốt nhất cho người dân địa phương.
Công tác dồn điền đổi thửa đã mang lại những thành công nhất đinh, hình thành
các cánh đồng mẫu lớn tại Hải Hậu. Khi nhu cầu sản xuất nông nghiệp của nông hộ chỉ
còn đơn giản là đáp ứng đủ nhu cầu lương thực của gia đinh, trong khi càng ngày càng
ít lao động trẻ chọn nông nghiệp là công việc chính, địa phương nên có chính sách hỗ
trợ các cá nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất sản xuât nông nghiệp trong thời
gian dài, tránh hạn chế lãng phí tài nguyên, tăng thu nhập cho nông hộ và địa phương,
giúp duy trì và phát triển sản xuất lúa đặc sản của vùng.
2.3. Các trở ngại, thách thức và tồn tại trong xây dựng NTM
NTM vùng ven đô có nhiều lợi thế hơn các khu vực khác, nhất lại là NTM vùng
đồng bằng sông Hồng, vùng có vị trí địa lý và kinh tế thuận lợi. Lợi thế gần Hà Nội,
trung tâm văn hóa và kinh tế cả nước, có hệ thống đường giao thông vận tải và cảng
biển tốt, xây dựng NTM ở khu vực đồng bằng sông Hồng vì thế có tốc độ nhanh nhất
cả nước. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện dân sinh và đặc tính văn hóa-xã hội của từng
cộng đồng, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu trong bộ 19 tiêu chí của chương trình NTM
cũng khác nhau.
Một số trở ngại, khó khăn chính có thể được tổng kết như sau:
- Huy động dân hiến đất cho các công trình hạ tầng cơ sở như đường xá, mương
tưới hoặc tiêu nước. Do quỹ đất chật hẹp ở phần lớn các địa phương, điều kiện kinh tế
vùng nông thôn còn 1 số hạn chế, tại nhiều khu vực (ví dụ như Vụ Bản), việc đẩy
nhanh tốc độ hay hoàn thiện chương trình xây dựng NTM là không thể do chưa thể tìm
được giải pháp thỏa đáng, hài hòa và hợp lòng dân. Rất ít các huyện có quỹ đất rộng
201
như Hải Hậu, huyện có điều kiện tự nhiên và kinh tế tốt hơn, người dân sẵn sàng hiến
đất mà không yêu cầu đền bù.
- Dồn điền đổi thửa cũng gặp khó khăn ở hầu hết các địa phương do tính chất
đất canh tác quá khác nhau và số lượng/diện tích mảnh manh mún ở hầu hết các hộ,
gián tiếp gây khó khăn cho việc hoàn thiện đường nội đồng kiên cố, xây dựng hệ thống
kênh tưới và tạo các cánh đồng mẫu lớn, tiền đề cho phát triển nông nghiệp cơ giới
hóa, tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm.
- Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hiện tại vẫn phổ biến ở mức độ bán lẻ theo hộ,
giá cả bấp bênh phụ thuộc nhiều và nhu cầu xuất khẩu và thị trường trong nước, khiến
nông dân rơi vào tình thế sản xuất nông nghiệp hầu như không có lãi, hoặc lấy công
làm lãi, hoặc lãi thấp. Việc hình thành các tổ sản xuất nông nghiệp phần lớn mới chỉ
dừng lại ở khía cạnh hỗ trợ nhau kỹ thuật canh tác và chăn nuôi, chưa phải là tổ “thị
trường”.
- Xử lý rác thải rắn sinh hoạt hiện cũng là vấn đề cần được lưu ý, đặc biệt các
khu tập kết rác thải sao cho hạn chế ô nhiễm môi trương không khí và nước mặt các
khu vực dân cư lân cận. Các phương pháp xử lý, phân loại hiện vẫn chưa được áp
dụng nên khá khó khăn trong việc xác định phương pháp xử lý tối ưu nào hơn giải
pháp lò đốt tại thời điểm hiện tại. Do mật độ dân số đông nhất cả nước, cộng thêm quỹ
đất trống hầu như không còn, giải pháp nào cho xử lý môi trường nông thôn cũng là
vấn đề nóng cần lưu tâm trong các giai đoạn tiếp của chương trình
- Vấn đề nước thải sinh hoạt và sản xuất cũng cần được lưu ý để đảm bảo tiêu
chí môi trường xanh, sạch và đẹp tại các vùng NTM ven đô. Rất ít các địa phương có
hệ thông mương tiêu nước sạch như Hải Hậu nhờ gần vùng của biển, nước lưu thông
dễ dàng thông qua hệ thông sông, kênh mương lớn và dày đặc
- Ngân sách của NTM cho mỗi địa phương không nhiều, để thực hiện đồng bộ
được các hạng mục hay tiêu chí quan trọng, huy động sức dân và đóng góp tài chính
trong dân cần phải được đẩy mạnh thông qua việc tăng nhận thức về hưởng lợi và ảnh
hưởng của NTM đến đời sống của người dân sau này. Việc này cũng đi đôi với chú
trọng nâng cao trình độ học vấn, dân trí của người dân bên cạnh công tác tuyên truyền,
thuyết phục bà con.
3. Kết luận và đề xuất
Qua gần 10 năm thực hiện chương trình NTM, thành công mà chương trình
đem lại là rất rõ. Hệ thống cơ sở hạ tầng được nâng cao, hoàn thiện. Hệ thống đường
trục chính liên xã, thôn đều được kiến cố hóa, hoặc đổ nhựa, hoặc bê tông hóa, tạo
điều kiện thuận lợi cho đi lại, sản xuất và giao thương của bà con.
Hệ thống trường, trạm y tế, nhà văn hóa và các công trình thể thao hầu hết được
xây mới ở tuyến xã, cải thiện đáng kể chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe-y tế, và
thể thao văn hóa tại các địa phương. Khảo sát cho thấy người dân đều rất hài lòng và
tin rằng chất lượng cuộc sống của họ ngày càng tốt hơn nhờ NTM.
An ninh và môi trường nông thôn ngày càng được cải thiện, hiện đại hơn nhờ
KHCN, tạo điều kiện cùng tham gia tự quản tích cực cho dân cư các xóm làng NTM.
Thu nhập bình quân tăng đồng nghĩa với điều kiện kinh tế tăng nhưng cũng
đồng nghĩa với di cư hoặc chuyển dịch lao động lên thành phố hoặc xa rời sản xuất
nông nghiệp, dẫn đến thiếu lao động ở nhiều thôn xã, bỏ hóa đất NN ở nhiều địa
202
phương. Quy hoạch các khu thị trấn, thị tứ (đô thị) vùng NTM cũng cần lưu ý đến vấn
đề này.
Xứ lý môi trường và nước sạch sinh hoạt là vấn đề cấp thiết trong các giai đoạn
xây dựng NTM bền vững giai đoạn tới.
Tài liệu tham khảo
1. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê. 2019, Tổng cục Thống kê.
2. Tổng cục thống kê, ed. Niên giám thống kê 2016 các tỉnh đồng bồng sông Hồng. 2017,
Tổng cục Thống kê.
3. Cục thống kê Nam Định, Niên giám thống kê Nam Định 2016. 2017: Tổng cục Thống
kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hien_trang_va_dinh_huong_xay_dung_nong_thon_moi_vung_ven_do.pdf