Hiện tượng sa mạc hóaMục lục
Mục lục 1
Mở đầu 2
Định nghĩa 2
Sa mạc hóa tại Sahel – châu Phi 3
1. Cái nhìn tổng quát 3
2. Tầm quan trọng Sahel và sa mạc hoá 6
3. Nguyên nhân sa mạc hóa tự nhiên ở Sahel 11
4. Nguyên nhân sa mạc hóa do con người ở Sahel 15
5. Tác động của sa mạc hoá 17
6. Giải pháp 22
7. Tổng kết 22
Tài liệu tham khảo 23
23 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 5899 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện tượng sa mạc hóa là gì?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mục lục……………………………………………………………………………………1
Mở đầu……………………………………………………………………………………2
Định nghĩa…………………………………………………………………...…………...2
Sa mạc hóa tại Sahel – châu Phi…………………………………………….…………..3
1. Cái nhìn tổng quát………………………………………………………….….3
2. Tầm quan trọng Sahel và sa mạc hoá……………………………………...…6
3. Nguyên nhân sa mạc hóa tự nhiên ở Sahel………………………………..11
4. Nguyên nhân sa mạc hóa do con người ở Sahel………………….…………15
5. Tác động của sa mạc hoá………………………………………….………….17
6. Giải pháp…………………………………………………………………….22
7. Tổng kết…………………………………………………………...…………..22
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………23
1
Mở đầu
Cộng đồng quốc tế từ lâu đã nhận thấy sa mạc hoá là một vấn đề rất rộng liên quan đến
cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới.
Sa mạc hóa không chỉ là một thách thức lớn về môi trường của thế giới mà còn là một
trong những trở ngại chính trong việc đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của conngười tại
những vùng khô hạn. Sa mạc hóa đe dọa đến sức khỏe và cuộc sống của khoảng 1,2 tỷ
người ở trên 100 quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, khoảng 30 phần trăm diện tích bề mặt trái đất là hoang mạc hoặc đang diễn ra
quá trình hoang mạc. Vì thế, việc phòng ngừa và ngăn chặn hoang mạc hóa là vấn đề bức
thiết của toàn nhân loại, gắn liền với phát triển bền vững kinh tế-xã hội, bảo vệ môi
trường và xóa đói giảm nghèo ở nhiều quốc gia.
Đặc biệt nghiêm trọng trong số đó là ở châu PhiTheo số liệu của LHQ, 66% lục địa châu
Phi được xác định là sa mạc hay đất đai khô cằn, trong đó có tới 46% diện tích có nguy
cơ bị biến thành sa mạc. 10%-20% đất khô trên thế giới đã bị thoái hóa và 1/3 diện tích
đất trồng trọt trên thế giới có nguy cơ bị sa mạc hóa. Hơn 1 tỷ người tại hơn 100 quốc gia
trên thế giới đang phải đối mặt với sa mạc hóa, hơn 250 triệu người đang chịu tác động
trực tiếp từ hiện tượng này chủ yếu là những người nghèo.
Định nghĩa
Sa mạc hóa là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khoảng năm 1949 khi Aubreville, một
nhà thực vật học và sinh thái học uyên bác, xuất bản một cuốn sách về "khí hậu, sa mạc
hóa" (Aubreville, 1949). Aubreville cho rằng sa mạc hoá là sự thay đổi đất sản xuất thành
một sa mạc do hoạt động khai thác, quản lý và sử dụng không hợp lý của con người gây
ra xói mòn đất. Các nguyên nhân gây phá hủy đất như: chặt phá cây, sử dụng đất đai bừa
bãi, trồng trọt không có quy hoạch, ngoài ra còn do nguyên nhân xói mòn do nước và gió.
Aubreville đã khá rõ ràng trong kết luận của ông rằng sa mạc hoá ở châu Phi là do hoạt
động của con người, và rằng không có thay đổi đáng kể khí hậu trong quá khứ 1000 năm
2
trở lại đây. Hầu hết các hoạt động phá hoại đó đã xảy ra trong thời gian lịch sử gần đây
do các hoạt động nông nghiệp.
Mặc dù thực tế rằng một hội nghị thế giới đã được tổ chức về đề tài này, song không có
định nghĩa được chấp nhận chung của sa mạc hoá. Đối với hầu hết mọi người, từ đó có
thể gợi lên một hình ảnh của một cảnh quan cằn cỗi tương tự như Sahara.
Trong số đó chúng ta quan tâm đến định nghĩa của UNEP, 1993 rằng: “sa mạc hóa là
thoái hóa đất ở các vùng khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm ướt khô hạn xảy ra do tác
động có hại của con người.”
Sa mạc hóa tại Sahel – châu Phi
1. Cái nhìn tổng quát
3
Bản đồ sa mạc hóa thế giới
Bảng 1. Ước tính của tất cả các vùng đất bị suy thoái (triệu km2) ở các khu vực khô
(Dregne và Chou, 1994).
Lục địa
Tổng diện
tích
Tổng diện
tích bị xuống
cấp
Phần trăm
diện tích bị
xuống cấp
Châu Phi 14.326 10.458 73
Châu Á 18.814 13.417 71
Australia và
Thái Bình
Dương
7.012 3.759 54
Châu Âu 1.456 0.943 65
Bắc Mỹ 5.782 4.286 74
Nam Mỹ 4.207 3.058 73
Tổng số 51.597 35.922 70
Bảng 2: Mức độ sa mạc hóa, xói mòn do gió, xói mòn do nước của các vùng khô hạn,
bán khô hạn và tiểu ẩm
Mức độ Sa mạc hóa
Xói mòn do
gió
Xói mòn do
nước
Chậm 14.653 17.331 9.250
Trung bình 13.668 15.373 6.308
Cao 7.135 10.970 7.795
4
Rất cao 12.196 7.863 9.320
Tổng số 43.319 55.870 32.373
Qua bản đồ sa mạc và bảng số liệu trên ta có thể thấy một trong những nơi xảy ra sa mạc
hóa mạnh nhất là châu Phi, và một phụ vùng chịu ảnh hưởng lớn đó là Sahel, vành đai sa
mạc hóa phía tây nam sa mạc lớn nhất thế giới :sa mạc Sahara.
Bản đồ sa mạc hóa châu Phi
Từ 'sa mạc' gợi lên cho chúng thấy hình ảnh của những cồn cát, sự nóng bỏng của không
khí khô, và không có hoạt động của sự sống. Sa mạc hoá ở châu Phi cận Sahara đơn giản
5
không phải là một trường hợp của cái ác “Death Star” gây ra mà được tạo nên bởi chính
Sahara, trong nỗ lực xâm lấn các khu vực bán khô cằn và một vùng nông nghiệp thuận lợi
của “Alderaan” tạo nên bởi vành đai Sahel một đa vành đai quốc gia được xác định như
là một quá trình chuyển đổi theo chiều dọc của hệ sinh thái giữa sa mạc Sahara khô cằn
và xavan của các quốc gia lục địa châu Phi. Hiện tượng suy thoái đất và giảm tính bền
vững đất gần đây đã được gọi sa mạc hoá.Hình ảnh này là một sự đơn giản hóa cho một
hiện tượng ảnh hưởng đến hệ sinh thái ở các vùng bán khô hạn trên toàn thế giới.
2.Tầm quan trọng Sahel và sa mạc hoá
6
Sa mạc hóa có lẽ là một trong những thay đổi lớn nhất cuộc sống và sinh quyển trong lịch
sử đương đại, đặc biệt là ảnh hưởng đến vành đai Sahel. Sahel vành đai chạy qua
Senegal, Mauritania, Mali, Burkina Faso, Niger, Nigeria, Chad, Sudan, Cape Verde, và
Eritrea. Trong lịch sử, vành đai này đã được một vùng kinh tế nông nghiệp phát triển
phồn thịnh tin cậy, tuy nhiên tình trạng này đã thay đổi. Sahel là rất dễ bị tổn thương do
biến đổi khí hậu bởi vị trí địa lý của nó ở rìa phía nam của sa mạc Sahara và sự phụ thuộc
mạnh mẽ của những người nông dân vào trồng trọt và chăn nuôi. Các ngành chính đã sử
dụng hơn hơn 60 phần trăm dân số có năng lực và đóng góp 40% vào tổng sản phẩm
trong nước (GDP) của khu vực (Kandji, et al UNEP 2006).. Thông qua các dữ liệu thu
thập và kết luận của các chuyên gia có uy tín, con người là nguyên nhân chính gây ra hiện
tượng sa mạc hoá ở Sahel. Bài viết này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu tác động của sa mạc hoá
và giải pháp giảm thiểu mối đe dọa lớn đến tính bền vững và cuộc sống trong vành đai
Sahel.
Table 3. Estimates of land area belonging to vulnerability classes and corresponding
number of impacted population.
Vulnerability class
Area subject to
desertification
Population affected
km2 % Millions % of African pop.
Low 4,225,000 14.2 154.5 19.9
Moderate 4,741,000 15.9 196.1 25.3
High 3,213,000 10.8 134.8 17.4
Very high 1,466,000 4.9 22.4 2.9
7
Bảng 4. Đánh giá các vùng đất dễ bị sa mạc hoá ở dải Sahel
Quốc
gia
Diện
tích
(1.00
0
km2,
%
của
tổng
số)
Dễ bị tổn thương
Vùng đất
khác
Tổng
số
Thấp
Trun
g
bình
Cao
Rất
cao
Khô Ẩm
Burkina
Faso
Diện
tích
31 103 124 12 1 273
Phần
trăm
11.6
2
37.8
2
45.3
4
4.64 0.59
Chad
Diện
tích
40 92 302 90 724 1251
Phần
trăm
3.25 7.42
24.2
0
7.24
57.8
9
Eritrea
Diện
tích
4 12 23 14 64 0.9 121
Phần
trăm
3.7
10.5
8
19.6
5
11.8
2
53.5
4
0.71
Mali Diện
tích
16 116 216 51 819 1220
Phần 1.36 9.55 17.7 4.22 67.1
8
trăm 3 5
Maurita
nia
Diện
tích
3 14 53 958 1030
Phần
trăm
0.39 1.38 5.23
93.0
0
Niger
Diện
tích
16 109 108 1031 1266
Phần
trăm
1.31 8.66 8.58
81.4
4
Nigeria
Diện
tích
59 512 260 29 3 45 910
Phần
trăm
6.53
56.2
4
28.5
9
3.23 0.39 5.02
Senega
Diện
tích
10 40 89 37 14 192
Phần
trăm
5.49
21.2
5
46.4
6
19.4
6
7.35
Sudan
Diện
tích
263 430 305 175 1200 0.8 2376
Phần
trăm
11.0
9
18.1
3
12.8
6
7.37
50.5
1
0.04
Bảng 5. Ma trận đánh giá nguy cơ sa mạc hoá do con người gây ra. (Lưu ý: 1 = rủi ro
thấp; 2, 3 = rủi ro vừa phải; 4, 5, 6 = nguy cơ cao; 7, 8, 9 = rủi ro rất cao).
9
Lớp dễ bị tổn
thương
Mật độ dân số (người km2)
40
Thấp 1 3 6
Trung bình 2 5 8
Cao /rất cao 4 7 9
Như thể hiện trong 5 Bảng, với mật độ dân số cao trong một khu vực rất dễ bị sa mạc hoá
đặt ra một nguy cơ rất cao đối với suy thoái đất đai hơn nữa. Ngược lại, mật độ dân số
thấp trong một khu vực dễ bị tổn thương cũng là thấp, đặt ra nguyên tắc, một rủi ro thấp.
Hình 2 cho thấy sự phân bố của các lớp học rủi ro. Các nước Địa Trung Hải của Bắc Phi
là rất cao, dễ bị sa mạc hoá. Trong Ma-rốc, ví dụ, xói mòn rất rộng mà chân trời
petrocalcic của một số Palexeralfs tiếp xúc ở bề mặt. Trong Sahel, có túi của các khu vực
có nguy cơ rất cao. Các quốc gia Tây Phi, với dân số dày đặc của mình có một vấn đề lớn
trong có chứa các quá trình của sự xuống cấp đất. Bảng 6 cung cấp cho khu vực trong
từng lớp học của Bảng 5.
Giới 2.500.000 km2 đất là rủi ro thấp, 3.600.000 km2 là vừa phải nguy cơ, 4.600.000
km2 có nguy cơ cao, và 2.900.000 km2 là nguy cơ rất cao.
Bảng 6. Diện tích đất rủi ro (1.000 km2) của châu Phi. (Sau khi Reich et al, 1999)
Vùng dễ bị tổn Mật độ dân số (người km2)
10
thương 40
Thấp 2.476 1.005 750
Trung bình 2.608 1.180 976
Cao/ rất cao 2.643 1.074 825
3. Nguyên nhân sa mạc hóa tự nhiên ở Sahel
a. Nguyên nhân lý sinh của sa mạc hóa: Biến đổi khí hậu
Các yếu tố lý sinh như biến đổi khí hậu, mưa nắng thay đổi thất thường, và xói mòn đất là
những yếu tố quan trọng trong việc gây ra sa mạc hoá ở Sahel. Biến đổi khí hậu đã được
ghi nhận trong cộng đồng khoa học với sự đồng thuận được cho rằng khí nhà kính (như
CO2 khí) có thể gây ra sự thay đổi trong bức xạ ánh sáng như vậy làm cho nhiệt độ bề
mặt sinh quyển tăng lên. Bằng việc sử dụng các tài liệu về sự biến đổi khí hậu trong quá
khứ và hiểu biết về bức xạ ánh sáng chính là nguyên nhân gây nên biến đổi khí hậu vừa
qua, mô hình khí hậu có giải thích chính xác những thay đổi khí hậu trong quá khứ và
được chứng minh chính xác hơn khi giải thích và dự đoán thay đổi tính nhạy cảm của khí
hậu trong tương lai (deMenocal 2009).
Biến đổi khí hậu là biến đổi lý sinh trong tự nhiên, nó đã trở thành một phần đối với sinh
quyển của con người liên kết sa mạc hoá của Sahel như biến đổi khí hậu ngày càng gia
tăng do hoạt động của con người, cụ thể là phát thải khí nhà kính. Yếu tố này ảnh hưởng
trực tiếp đến Sahel như việc nó gây ra căng thẳng đối với sản xuất nông nghiệp, lượng
mưa thay đổi mà đất bị ngắt đi nguồn bổ sung dinh dưỡng, thay đổi, làm giảm đa dạng
11
sinh học và làm gián đoạn chu kỳ nitơ. "Có hoặc không có các khu định cư của con
người, các khu vực khô cằn và bán khô cằn được đặc trưng bằng lượng mưa biến đổi cao.
Hạn hán khốc liệt ở Sahel và Ethiopia giữa thập niên 1970 và thập niên 1980 là minh
chứng cho sự thay đổi của lượng mưa, sự suy giảm chất lượng của môi trường và tình
trạng tổn thương của dân cư sống trong các khu vực đó "(SEDAC / CIEN 2009). Biến đổi
khí hậu làm thay đổi lượng mưa mà sự thay đổi đó ở Sahel đã dẫn đến "hạn hán kéo dài"
mà hàng trăm nhà cửa của hàng ngàn cư dân và những người đang sinh sống ở Sahel
phải tiếp tục gánh chịu.
Kết quả của hạn hán kéo dài đó là đất màu mỡ trở thành đất trơ, dễ bị tổn thương giai
đoạn biến đổi lượng mưa dữ dội và xấu đi do thiếu chất hữu cơ và tài nguyên nước gây ra
sa mạc hoá. Đó có thể là một nguyên lý sinh xảy ra đối với một số vùng đất khô cằn, nó
được củng cố và tăng mạnh do hoạt động của con người ở Sahel như là một phản hồi của
sự gia tăng tính nhạy cảm của khí hậu chủ yếu để phát thải khí nhà kính. Bằng chứng về
mối quan hệ này là sự tăng mạnh với các mô hình khí hậu gần đây mà bác bỏ dự đoán cũ
hơn của một 'ẩm ướt hơn Sahel "do nóng lên toàn cầu (Được tổ chức, et al 2005)..
b. Nguyên nhân Lý sinh của sa mạc hóa: SSTs
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu là một bằng chứng rất cụ thể. Đứng đầu của các mô hình
biến đổi khí hậu là sự tương quan giữa Nhiệt độ bề mặt biển (SSTs) và biến thiên lượng
mưa ở Sahel như là một nguyên nhân của sa mạc hoá. Các chuyên gia trong lĩnh vực này
như tạo ra các mô hình để giúp dự báo tốt hơn tác động của biến đổi khí hậu vào lượng
mưa mà nó ảnh hưởng đến sa mạc hóa. Một trong những mô hình này là của Tiến sĩ Isaac
M. Held, nhà khoa học nghiên cứu cao cấp cho Phòng thí nghiệm Vật lý Địa chất Fluid
Dynamics (GFDL) và Đại dương quốc gia Atmosphere (NOAA) và giáo sư Đại học
Princeton tại Geosciences.
Để mô phỏng hạn hán ở Sahel trong thế kỷ 20 và 21 (2005), tiến sĩ Isaac M.Held và cộng
12
sự sử dụng "mô hình khí hậu toàn cầu (CM2) mà tạo ra một mô phỏng của lượng mưa kỷ
lục thế kỷ 20 ở Sahel thường phù hợp với quan sát" (Held, et al 2005) . Mô hình này cho
thấy rằng đã có một xu hướng "con người làm khô ở khu vực này, do một phần để tải
aerosol tăng và một phần các khí nhà kính tăng lên, và rằng các quan sát kỷ lục thế kỷ 20
là một xếp chồng của xu hướng làm khô này và biến đổi nội bộ lớn" (Held, et al 2005)..
Ngoài ra, các mô hình cung cấp bằng chứng cho thấy nhiệt độ bề mặt biển ấm lên,
thông qua tăng nóng lên toàn cầu do khí nhà kính, ảnh hưởng đến biến đổi lượng mưa ở
Sahel do đó làm cho yếu tố sinh lý của sa mạc hoá được củng cố và đẩy mạnh thông qua
các hoạt động của con người Tiến sĩ và cộng sự kết luận với bằng chứng khoa học đáng
tin cậy, sự nghiên cứu cẩn thận cho rằng, "nó đã trở nên rõ ràng từ mô hình hóa khí quyển
và phân tích quan sát bắt đầu vào những năm 1980. Rằng trên thực tế ,nhiều khía cạnh
của biến đổi lượng mưa ở Sahel bị điều khiển bởi nhiệt độ mặt nước biển (SSTs)"
13
(Held,et al 2005).
c. Nguyên nhân lý sinh của sa mạc hóa: Gió
Các yếu tố lý sinh chẳng hạn như gió cũng đóng một vai trò trong việc xói mòn và suy
thoái đất thông qua các cơn bão cát. Ở Sahel, những trận gió mạnh có thể quét qua một số
quốc gia, mang theo ảnh hưởng hạn hán đất rất nghiêm trọng. Bão cát thường gây ra tại
mặt đất nó đã đi qua bị mất đi lớp vỏ dưỡng bởi canh tác hoặc chăn thả quá mức.
Gió là động lực chính đẩy các cồn cát. Những hạt cát có thể lăn trên mặt đất hoặc tung
lên trên không rồi rơi xuống. Chính động tác tung lên sẽ làm giao động thêm, khuếch đại
lượng cát bị xô đẩy. Kết quả là lũ cát khi cả một cồn cát trườn vào. Khi có gió mạnh làm
bão cát thì lũ cát có thể làm cồn cát tiến lên hàng chục mét tương tự như hiện tượng tuyết
truồi (avalanche).
Con đường của một cơn bão bụi từ sa mạc duy nhất có thể được truy tìm xa như 4.000
km (2.500 dặm) (Schmidt 2001). Quá trình tự nhiên của xói mòn bởi gió và lượng mưa,
chu kỳ nitơ, và các nguồn chất hữu cơ bị phá vỡ thông qua các yếu tố sinh lý của gió kết
hợp với sự can thiệp của con người.
4. Nguyên nhân sa mạc hóa do con người ở Sahel
a. Nguyên nhân sa mạc hóa do con người: sự suy thoái đất
Bằng chứng về các yếu tố con người gây ra sa mạc hoá ở Sahel được tìm thấy trong yêu
cầu bồi thường cho rằng, "thay đổi cho đất bao gồm chính nó có thể ảnh hưởng đến khí
hậu vi mô trong các khu vực nhất định" (2001 Taylor, Kumar et al 1998). Held và cộng
sự kết luận rằng tính năng động tuyến tính nhiệt đới được giả định là một quá trình vật lý
lớn trên mặt đất của mối quan hệ mưa nổi bật giữa nhiệt độ bề mặt biển SST và lượng
14
mưa ở châu Phi "yêu cầu bồi thường này là đẩy mạnh thông qua các mô hình trong sản
phẩm suất phản chiếu bề mặt đất cho bề mặt đất và mô hình hóa khí hậu (Löw et al..) mà
hỗ trợ các yêu cầu bồi thường cho rằng, "loại bỏ tiến bộ của lớp phủ thực vật thay đổi
suất phản chiếu bề mặt (mức độ mà bề mặt đất phản ánh năng lượng mặt trời) và cũng có
thể làm giảm độ ẩm trong khí quyển, do đó ảnh hưởng đến sự hình thành mây và mưa"
(SEDAC / CIEN 2009).
Việc giải phóng mặt bằng, đặc biệt là trong các hình thức chặt phá rừng bừa hãy hay đốt
phế phẩm nông nghiệp có thể có "phản hồi mà tạo ra địa hoá giảm độ ẩm trong khí quyển
và lượng mưa."đã gây nên tình trạng hạn hán, tài nguyên đất suy giảm. Hoạt động này
của con người ảnh hưởng đến suất phản chiếu của bề mặt Sahelian và là bằng chứng mới
góp phần phát tán các khí nhà kính. Một lần nữa có một gia cố gây ra bởi hoạt động sinh
lý của con người trong việc gây ra sa mạc hoá ở Sahel, ở đây như là một liên kết "giữa
các đặc điểm bề mặt đất và chu kỳ tuần hoàn nước" (SEDAC / CIEN 2009).
b. Nguyên nhân sa mạc hóa và sự suy thoái đất
Đất rất quan trọng với cuộc sống trong vành đai Sahel, nhưng một phần tư của sự
xuống cấp đất xuất phát từ hoạt động nông nghiệp. Ở Sahel đất bị xói mòn nghiêm trọng
trung bình 21 % ít hơn sản xuất bình thường hoặc bị xói mòn đất" (SEDAC / CIEN
2009). Sự cần thiết cho sản lượng thu hoạch lớn bắt nguồn từ các khu đô thị đông đúc và
dân số sedentarized hình thành do giảm cỏ và diện tích đất nông nghiệp. Trong khi đó có
nhiều nguyên nhân của sa mạc hoá đã được xác định (Warren 1996). Cốt lỗi của vấn đề là
sự biến đổi của xã hội như gia tăng dân số, định canh định cư du canh du cư của người
dân bản địa, phân tích về thị trường truyền thống và hệ thống sinh kế, giới thiệu công
nghệ mới và không phù hợp trong các vùng bị ảnh hưởng và chiến lược quản lý đất đai
chưa phù hợp "(Nicholson 1998) .
Những ảnh hưởng xấu về tài nguyên đất bắt nguồn từ một chu kỳ sản xuất trong sản xuất
15
nông nghiệp, canh tác gây ra sự xuống cấp đất và sau đó xói mòn đất. Có ba yếu quá trình
suy thoái đất: vật lý, hóa học và sinh học. Kết quả tổng thể của các quá trình là làm giảm
năng suất sinh khối, ô nhiễm nước, ô nhiễm và dinh dưỡng tốt, giảm chất lượng không
khí thông qua các hạt bụi lơ lửng, và phát thải cacbon, nitơ oxit và các khí nhà kính khác
vào khí quyển (SEDAC / CIEN 2009). Đất thực sự rất quan trọng đối với các nền kinh tế
dựa vào sản xuất nông nghiệp trong vành đai Sahel. khả năng sinh sản của nó là một nhân
tố chính trong việc xác định tính bền vững đời sống con người của vùng. Tuy nhiên nó là
một nguồn lực chung, chủ đất gặt hái một số lợi ích kinh tế từ đất họ độc quyền của riêng,
nhưng tất cả con người gặt hái những lợi ích thực sự của màu mỡ của đất: sản lượng cây
trồng và thực phẩm như vậy. Sa mạc hoá ở Sahel là một phần gây ra khi tỷ lệ canh tác
của đất màu mỡ vượt quá tỷ lệ bổ sung. Phải mất (trung bình) khoảng 100 năm để tạo ra
một milimet đất, bằng vơi một đời người.
một nguyên nhân quan trọng hơn của sa mạc hoá là làm giảm màu mỡ của đất (một biến
nhanh chóng liên tục) và củng cố một sự suy giảm tuần hoàn trong sản lượng cây trồng
(thay đổi dần). Ngay cả các khu vực được coi là thích hợp cho canh tác có thể trở nên bị
suy thoái nếu quản lý không thích hợp làm ảnh hưởng đến sinh thái và khí hậu. Hơn nữa
sản xuất nông nghiệp cũng tạo ra phế thải nông nghiệp đóng góp cho sự suy thoái đất.
Theo lập luận của SEDAC / CIEN 2009: "chặt đốn rừng kết hợp với chăn thả quá mức
hoặc canh tác không phù hợp tạo áp lực với đất, yếu tố khí tượng (như gió, bốc hơi, dòng
chảy mưa, bức xạ mặt trời trên trần đất, vv), góp phần sa mạc hoá. ... có bằng chứng cho
thấy rằng những thay đổi với đất tự nó có thể làm ảnh hưởng đến khí hậu vi mô trong các
khu vực nhất định (Taylor 2001, Kumar et al 1998)..
Ngoài ra, đa dạng sinh học tự nhiên của cây dâu mà con người trồng và tăng trưởng
của cỏ range-lands/pastures cũng góp phần vào sa mạc hoá. Pasoral quần thể loại bỏ các
bụi cây bắt rễ sâu cho cỏ ngắn bắt nguồn từ đó chết trong thời gian hạn hán, chà đạp di
chuyển đàn gia súc, hoặc thông qua và đồng cỏ thảm cát bụi. "Tiến bộ loại bỏ các lớp phủ
thực vật thay đổi suất phản chiếu bề mặt (mức độ mà bề mặt đất phản ánh năng lượng
mặt trời) và cũng có thể làm giảm độ ẩm trong khí quyển, do đó ảnh hưởng đến sự hình
16
thành mây và lượng mưa. Do đó, đất hoạt động giải phóng mặt bằng có thể có phản hồi
tích cực để tạo ra địa hoá giảm độ ẩm trong khí quyển và lượng mưa "(SEDAC / CIEN
2009).
5. Tác động của sa mạc hoá
Đất xuống cấp ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trồng cây, chăn thả gia súc của người
nông dân Sahelian, và có thể tác động đáng kể cho những người sống gần khu vực bị suy
thoái. Sự xuống cấp của đất một phần do việc chăn thả quá mức, và biểu đồ lượng mưa,
cũng như diện tích đất đang được sử dụng cho nông nghiệp được mở rộng. Nguyên nhân
chủ yếu là do tự nhiên và con người gây ra. Mặc dù nông dân ở Sahel không thể kiểm
soát lượng mưa nhưng họ có thể giảm thiểu một số xói mòn. Do không có sự tính toán để
làm tăng các thảm thực vật bề mặt trước những trận mưa lớn và gió mạnh mà cũng làm
tăng xói mòn do các yếu tố tự nhiên, do đặc tính của các cơn bão đầu tiên phát triển rất
mạnh mà ta phải giảm nhẹ tác động, phòng chống xói mòn và quản lý đất, lượng carbon
thấp dễ bị tổn thương do tự nhiên và chất thải của các nhà máy. Trong khu vực Sahel, sa
mạc hóa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến an sinh xã hội, dân số của con người và môi
trường (Kandji et toàn tập, 2009). Trong bản tổng hợp của các tác giả ở các quốc gia
trong khu vực:
"Biến đổi khí hậu có thể có hậu quả tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và an ninh lương
thực ở vùng Sahel. Điều kiện khô hạn có thể sẽ làm trầm trọng hơn, ngay cả ở những nơi
mà sự gia tăng lượng mưa được dự đoán bởi vì một chế độ evapotranspiration cao hơn do
nhiệt độ cao hơn "(Kandji et tất cả các năm 2009).
Ta có thể thấy rõ rằng thời tiết là kết quả của một quá trình tự nhiên, nhưng chính hoạt
động con người làm tăng sa mạc hoá hoặc suy thoái đất ở Sahel đã gây hậu quả nghiêm
17
trọng cho người dân trong và xung quanh Sahel. Những tác động này bao gồm giảm năng
suất của đất, giảm quần thể vật nuôi do đất chăn thả ít hơn và làm thế nào giảm trong
chăn nuôi và nông nghiệp công suất ảnh hưởng đến các nền kinh tế của các nước bị ảnh
hưởng.
a. Đất xuống cấp
Suy thoái đất không những làm giảm năng suất của đất mà còn là một mối đe dọa
nghiêm trọng cho an ninh lương thực trong Sahel. R. Lal chỉ ra rằng rất khó để xác định
chính xác có bao nhiêu đất xói mòn nhưng ảnh hưởng tới năng suất ước tính là khoảng
6,6% và dự báo rằng nếu tỷ lệ hiện tại của sự xuống cấp tiếp tục đi xuống trong thế kỷ 21
thì mức độ ảnh hưởng tới năng suất sẽ lên tới 14,5% ở tiểu Sahara Châu Phi (Lal, 2001).
Trong bài báo "Biến đổi khí hậu và hay thay đổi ở khu vực Sahel: Tác động và chiến lược
thích ứng trong lĩnh vực nông nghiệp" các tác giả đã sử dụng một phân tích độ nhạy khí
hậu cho nông nghiệp thấy rằng hai quốc gia Sahelian, Chad và Niger, có thể mất tất cả
đất nông nghiệp của họ phụ thuộc lượng mưa vào năm 2100. Đi sâu vào phân tích, bằng
các thực nghiệm gần đây, họ chỉ ra rằng nếu nhiệt độ tăng 1-2,75oC thì thu hoạch ở Mali
có thể là giảm 15-19% so với hiện nay vào năm 2030. Điều này sẽ làm giá lương thực
tăng gấp đôi. Giảm sản xuất nông nghiệp và tăng giá lương thực sẽ đem lại nguy cơ thiếu
lương thực từ khoảng 34% đến 70% dân số Malian vào năm 2030 (trích dẫn trong
Kandji et toàn tập). Điều này ngày càng nghiêm trọng hơn khi dân số ngày càng tăng. Tác
giả của "thiên nhiên, nguyên nhân và hậu quả của việc sa mạc hoá ở các vùng đất khô của
châu Phi" chỉ ra rằng trong 30 năm qua, dân số đã tăng gấp đôi và đang mở rộng với tốc
độ khoảng 3% một năm, tương đương với khoảng 21.000.000 dân mỗi năm (Dokum,
1998). Ngoài ra, các khu vực khác chủ yếu ngành công nghiệp, chăn nuôi, cũng bị đe dọa
bởi sa mạc hoá.
18
b. Các mối đe dọa đến ngành chăn nuôi
Khi đất bị suy thoái sẽ làm giảm đáng kể lương thực và gia súc thu hoạch cho người
dân chăn nuôi. Theo báo cáo, số lượng gia súc trong Gourma giảm 80% trong giai đoạn
1971 - 1988. Nghiên cứu cho rằng những thay đổi trong chăn nuôi là do sự suy giảm một
trong thức ăn sẵn vì sự xuống cấp của các đồng cỏ (Hiernaux, 1996). Chăn thả gia súc hộ
gia đình gia tăng quá mức là hậu quả của giảm nguồn cung cấp thực phẩm, chăn thả quá
mức do đó là một trong những nguyên nhân của sự suy thoái đất đai và suy thoái đã tác
động ngược trở lại gây ra sự sụt giảm số lượng gia súc. Và hạn hán thì càng làm tồi tệ
hơn vấn đề suy giảm nguồn thức ăn tự nhiên (Hiernaux, 1996). Số lượng gia súc giảm do
đất chăn thả ít hơn và sản xuất nông nghiệp giảm vì năng suất bị mất đất có hậu quả
nghiêm trọng không chỉ đối với người nông dân cá thể và chăn nuôi nhưng đối với các
nền kinh tế của Sahel một cách toàn diện.
c. Ảnh hưởng đến nền kinh tế các quốc gia trong khu vực
Giảm sản xuất nông nghiệp và vật nuôi đe dọa thu nhỏ các nền kinh tế vốn đã mong
manh của các quốc gia Sahelian. Phần lớn các cư dân ở các nước Sahelian làm việc trong
nông nghiệp và chăn nuôi và các ngành công nghiệp chiếm khoảng 40 % của GDP cho
mỗi quốc gia (qtd trong Kandji, 2009). Quá khứ đã chỉ ra có rất nhiều nền kinh tế tổng
thể có thể bị ảnh hưởng bởi các lĩnh vực này. Chad, một trong những nước nghèo nhất
thế giới, có kinh nghiệm tốc độ tăng trưởng 9 % trong năm 1973 đưa GDP bình quân đầu
người đến $ 120 năm 1975. Tương tự GDP của Mali và Niger là 9 % và 18 % tương ứng
trong thời gian hạn hán (qtd trong Kandji, 2009). Một quốc gia trong khu vực Sahel có
thể bị mất lên đến 20 % GDP hàng năm, đó là kết quả của nguồn tài nguyên thiên nhiên
giảm, theo một báo cáo chưa công bố của Ngân hàng Thế giới (Dakom, 1998).
19
d. Các tác động đến môi trường của khu vực xung quanh
Sa mạc hóa không chỉ làm sản xuất giảm mà đi kèm với nó còn có nhiều hiệu ứng phi
kinh tế với những người sống bên ngoài khu vực bị ảnh hưởng. Theo Công ước Liên
Hiệp Quốc về chống sa mạc hóa những người này có thể phải hứng chịu hạn hán, giảm
chất lượng nước, trầm tích ở sông và hồ đó là một kết quả của sự suy thoái đất. Đất bị
xuống cấp dẫn đến gia tăng lượng bụi, bão, gây ra ô nhiễm không khí và gây ra nhiễm
trùng mắt, cùng các vấn đề về hô hấp, và dị ứng.
Tăng số lượng các cơn bão bụi đã được báo cáo trong thời gian hạn hán của thập niên
1960 thập niên 1980 một dấu hiệu của tác động của sa mạc hoá (UNCCD, bảng 3).
Johannes Feddema exlains lý do tại sao điều này là nói rằng "Nói chung, nó được công
nhận là đất suy thoái sẽ dẫn đến giảm khả năng giữ đất nước, với một hậu quả gia tăng
dòng chảy "(Feddema, 128). Ngoài những vấn đề về ô nhiễm kể trên, sa mạc hóa còn gây
ra một cuộc đại di cư của người dân từ các khu vực bị ảnh hưởng đến các khu vực đô thị.
Hạn hán trong giai đoạn 1960-1980 gây ra luồng di dân đến các thành phố. Điều này đã
dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng, và căng thẳng về các dịch vụ xã hội (Kandji, 11).
Darkoh xác nhận nguồn ở trên mô tả cách thức di cư của nông dân từ phía nước cho
thành phố đã được đẩy mạnh bởi hạn hán áp lực dịch vụ cơ bản thành phố như nước và
vệ sinh. Hàng ngàn người đã bị mất việc khi các nhà máy nước, mỏ, trường học và bệnh
viện đã phải đóng cửa (Darkoh, 1998).
e. Chu kỳ của đói nghèo
Sản xuất bị giảm do sa mạc hoá tạo ra một chu trình đói nghèo gây ảnh hưởng trong
quốc gia.
"Sa mạc hóa tạo ra chu kỳ sản xuất giảm, đói nghèo gia tăng và năng suất tiềm năng giảm
bớt. Nó làm trầm trọng thêm nghèo đói đói, tác động ngược trở lại, sa mạc hoá cũng trầm
20
trọng thêm bởi vì, với áp lực sa mạc hóa tăng, người dân buộc phải khai thác đất của họ
để tồn tại. Trong cách đó, họ tiếp tục làm giảm năng suất của nó và chu kỳ vẫn tiếp tục
"(Dokum, 1998).
Ở đây Dokum mô tả cách người nông dân nghèo buộc phải sử dụng quá mức đất. Họ
tiếp tục sử dụng đất mà đã được xuống cấp quá mức, tiếp tục xuống cấp đất này, làm cho
nó thậm chí còn khó khăn hơn để có được những gì họ cần từ nó trong tương lai. Chu ký
này cứ tiếp tục diễn ra và tình trạng đói nghèo sẽ càng gia tăng cùng với sa mạc hoá hơn
nữa trong tương lai không xa.
6. Giải pháp:
Do sự tàn phá gây nên hạn hán của năm 1960 & 70, dân số ngày càng tăng, và tăng diện
tích đất bị suy thoái, việc tìm kiếm giải pháp để giảm thiểu những ảnh hưởng hoặc làm
chậm sự sa mạc hoá ở Sahel là vấn đề hết sức quan trọng. Có nhiều chiến lược và có thể
đã được sử dụng để thích ứng với những thách thức môi trường trong khu vực này.
Chúng bao gồm: ứng dụng khoa học kĩ thuật và sinh vật chỉ thị dự đoán mô hình lượng
mưa và điều chỉnh các loại hoặc số lượng hạt giống để trồng, trồng nhiều loại hạt giống,
và di cư đến những nơi thuận lợi hơn (Kandji toàn tập, 2009). Với dân số tăng nhanh hơn
nó có trong quá khứ làm tăng nhu cầu về năng suất Sahelian và làm việc với biến đổi khí
hậu đối với nông nghiệp và sản xuất phần sống những cách truyền thống của đối phó với
những thách thức khí hậu cần được hỗ trợ bởi các giải pháp khác. Trong đó nông nghiệp
quốc gia Sahelian là trọng tâm chính trong phát triển quốc gia và giảm nghèo (Kandji et
tất cả, 2009). Thể hiện rằng nông nghiệp và chăn nuôi chiếm tỷ trong của GDP và sử
dụng hơn một nửa dân số của các quốc gia Sahelian nhất, vì vậy nó là không đáng ngạc
nhiên rằng họ sẽ chú trọng vào bảo quản và mở rộng lĩnh vực này. Những nỗ lực này bao
gồm hiện đại hóa chăn nuôi, ngăn chặn xói mòn đất, và cải thiện thủy lợi.
21
7. Tổng kết
Mục tiêu của bài viết này là chỉ ra tầm quan trọng của sa mạc hoá ở Sahel, cũng như
nguyên nhân gây ra nó, và ảnh hưởng của nó đến con người như những gì có thể được
thực hiện để làm chậm hoặc giảm nhẹ ảnh hưởng của nó. Chúng tôi bắt đầu bằng cách
xác định sa mạc hoá ở Sahel là sự xuống cấp của đất trong một quy trình mà làm giảm
năng suất của nó với một tác động có thể sẽ được giới hạn ở quy mô nhỏ. Trong phần đầu
tiên của bài viết cũng tuyên bố rằng các hoạt động của con người như phát thải khí nhà
kính, qua trồng trọt, chăn thả quá mức, phá rừng và nguyên nhân tự nhiên gây nên quá
trình sa mạc hoá. Mối quan hệ giữa sa mạc hoá và SST và cường độ gió tăng là nguyên
nhân tự nhiên được đưa vào thảo luận. Trong phần thứ hai của bài viết giải thích sự tác
động của sa mạc hoá đến con người. Những tác động này bao gồm năng suất đất bị mất
và giảm chất lượng của bãi chăn thả, giảm sản lượng cây trồng. Do dân số tăng nhanh
trong khu vực Sahel, mất năng suất đất không chỉ đe dọa an ninh lương thực cho nông
dân chăn nuôi gia súc và nó cũng có tác động tiêu cực đến các nền kinh tế ở Sahelian.
Phần thứ ba một thời gian ngắn tập trung vào giải quyết vấn đề. Chính phủ của các quốc
gia đã tập trung nỗ lực của họ về phát triển các giống vật nuôi, ngăn chặn xói mòn đất, và
cải thiện thủy lợi. Mặc dù hiệu quả sử dụng nước ở Sahel là thấp hơn nhiều so với những
nơi khác trên thế giới có khí hậu tương tự, bài viết này đã xem xét các phương pháp để
cải thiện hiệu quả sử dụng nước. Những phương pháp này bao gồm các hệ thống hàng rào
cây, đường đá, và nông lâm kết hợp. Những giải pháp này sẽ không hoàn toàn giải quyết
vấn đề nhưng chúng chứa đựng nhiều hứa hẹn.
Tài liệu tham khảo:
Giáo Trình Thoái Hóa và phục hồi đất – PGS. TS. Nguyễn Hữu Thành
22
Danh sách nhóm 5:
1. Nguyễn Thu Huyền
2. Tiêu Mạnh Hưng
3. Hoàng Thị Hương
4. Nguyễn Thị Hương
5. Lê Thị Hường
6. Nguyễn Thị Hồng Liên
7. Nguyễn Thị Duyên Lâm
8. Vũ Hải Linh.
23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37864516samachoa5.pdf