KẾT LUẬN
Hiệu lực điều trị sốt rét do P.falciparum của
phác đồ AS7D tại Gia Lai là 97,4%, nhưng tỷ
lệ KST còn tồn tại ở ngày D3 cao 38,5% và D4
là 23,1%.
Phác đồ DHA-PIP còn hiệu lực cao trong
điều trị sốt rét do P. falciparum với tỷ lệ điều trị
khỏi 100%, tỷ lệ sạch KST ở ngày D3 là 100% ở
hầu hết các điểm nghiên cứu.
KHUYẾN NGHỊ
Do tỷ lệ KSTSR còn tồn tại ở ngày D3 và D4
cao trong điều trị artesunat đơn thuần. Vì vậy đề
nghị các cơ sở điều trị tuân thủ hướng dẫn chẩn
đóan và điều trị sốt rét do Bộ Y tế ban hành năm
2009: Không được điều trị artesunat đơn thuần.
Đề tăng cường giám sát hiệu lực điều trị và
mở rộng diện giám sát, các cơ sở điều trị nên
theo dõi diễn tiến của mật độ KSTSR ít nhất
trong 72 giờ đầu điều trị (D0 - D3).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 86 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu lực điều trị của phác đồ artesunate đơn thuần và dihydroartemisinine – piperaquine phosphate đối với sốt rét do plasmodium falciparum chưa biến chứng năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 31
HIỆU LỰC ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ ARTESUNATE ĐƠN THUẦN
VÀ DIHYDROARTEMISININE – PIPERAQUINE PHOSPHATE
ĐỐI VỚI SỐT RÉT DO PLASMODIUM FALCIPARUM
CHƯA BIẾN CHỨNG NĂM 2012
Bùi Quang Phúc*, Tạ Thị Tĩnh*, Huỳnh Hồng Quang**, Nguyễn Mạnh Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu lực điều trị của artesunat viên và arterakin trên bệnh nhân sốt rét do
P. falciparum chưa biến chứng tại một số điểm cố định.
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng kỹ thuật nghiên cứu in vivo của WHO 28 ngày đối với artesunat và
42 ngày đối với arterakin.
Kết quả: Thử nghiệm in vivo 28 ngày (WHO) để đánh giá hiệu lực điều trị của artesunat đơn thuần liều 16
mg/kg trong 7 ngày tại Gia Lai và in vivo 42 ngày để đánh giá hiệu lực điều trị của Dihydroartemisinin–
piperaquine phosphate (Arterakin) phác đồ 3 ngày tại Bình Thuận, Đăk Lăk, Ninh Thuận, năm 2012. Số liệu từ
144 bệnh nhân sốt rét chưa biến chứng do P. falciparum điều trị Arterakin cho thấy: Arterakin vẫn có hiệu lực
cao trong điều trị sốt rét do P. falciparum tại các điểm nghiên cứu, với tỷ lệ điều trị khỏi 100%. Thời gian cắt sốt
trung bình (FCT) là 1,8 ngày và thời gian cắt ký sinh trùng trung bình (PCT) là 1,7 ngày. Tỷ lệ sạch ký sinh
trùng ở ngày D3 là 100% tại Bình Thuận, Đăk Lăk, Ninh Thuận. Phác đồ artesunat đơn thuần tại Gia Lai tỷ lệ
điều trị khỏi là 97,4%, tỷ lệ KSTSR còn dương tính ở ngày D3 là 38,5%, và ngày D4 là 23,1%.
Kết luận: Hiệu lực điều trị với sốt rét P. falciparum của artesunat tại Gia Lai vẫn cao là 97,4%, của
Arterakin tại Ninh Thuận, Bình Thuận và Đăk Lăk là rất cao: 100%.
Từ khóa: Hiệu lực, artesunate, arterakin.
ABSTRACT
EFFICACY OF ARTESUNATE MONOTHERAPY AND DIHYDROARTEMISININE PLUS
PIPERAQUINE THERAPY IN THE TREATMENT FOR UNCOMPLICATED FALCIPARUM MALARIA
IN VIETNAM, 2012
Bui Quang Phuc, Ta Thi Tinh, Huynh Hong Quang, and Nguyen Manh Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 31 - 35
Objectives: Assessment of Efficacy of artesunate monotherapy and Dihydroartemisinine plus piperaquine
therapy in the treatment for uncomplicated falciparum malaria in Vietnam, 2012.
Methods: In vivo test 28 days by WHO had been carried out in Gia Lai for evaluations the treatment
efficacy of artesunate monotherapy for 7-day course (total doses 16 mg per kg) and in vivo test 42 days with
Dihydroartemisinin – piperaquine phosphate (Arterakine) 3-day course regimen.
Results: 144 uncomplicated falciparum malaria patients were treated by arterakin shown that: The rate of
ACPR is 100% (in Ninh Thuan, Dak Lak and, Binh Thuan). The rate of cleared parasitemia at D3 is 100%. The
rate of ACPR of artesunate monotherapy 7-day course regimen is 97.4% in Gia Lai. Particularly, the proportion
of positive parasitemia at D3 in Phu Thien, Gia Lai province is 38.5%, and D4 is 23.1% in 2012.
*Viện sốt rét KST - CT TW ** Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn
Tác giả liên hệ: Ts. Bùi Quang Phúc, ĐT: 0983522874, Email: phucnimpe@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 32
Conclusion: Arterakine has high efficacy for P.falciparum malaria in Ninh Thuan, Dak Lak and Binh
Thuan (100%). Efficacy of artesunate monotherapy 7- day is still high in Gia Lai (97.4%), Particularly, the
proportion of positive parasitemia at D3 is very high: 38.5%, and D4 is 23.1% in 2012.
Key words: Efficacy, Artesunate, Arterakine.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các thuốc sốt rét điều trị ưu tiên (first line)
khi bị sốt rét (SR) do P. falciparum đã được Bộ Y
tế qui định gồm có: artesunat (AS), artesunat +
mefloquin (AS + MEF), CV8 (năm 2003), AS,
Dihydroartemisinin – piperaquine phosphate
(DHA – PIP) (năm 2007) và DHA-PIP (năm
2009). Theo qui định của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), khi một thuốc SR đang sử dụng có tỷ lệ
điều trị khỏi (ACPR) <90%, thì thuốc đó không
được sử dụng trong cộng đồng. Chính vì vây,
việc giám sát hiệu lực điều trị của các thuốc SR
là việc thường xuyên, định kỳ để từ đó đưa ra
các khuyến cáo về chính sách thuốc trong
chương trình Quốc gia phòng chống sốt rét. Các
thuốc giám sát hiệu lực điều trị là các thuốc điều
trị ưu tiên. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi
phân tích một số kết quả nghiên cứu về hiệu lực
điều trị của thuốc sốt rét Artesunat điều trị đơn
thuần phác đồ 7 ngày (AS7D- Theo yêu cầu của
WHO) và thuốc phối hợp Dihydroartemisinin –
Piperaquin (DHA-PIP) tiến hành trong năm
2012. Các nghiên cứu được thực hiện bởi Viện
sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương
(NIMPE) và Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – côn
trùng Qui Nhơn (IMPE Qui nhơn).
Mục tiêu của nghiên cứu
Đánh giá hiệu lực điều trị của AS7D và
DHA – PIP trong điều trị sốt rét do P. falciparum
chưa biến chứng tại một số vùng sốt rét lưu
hành của Việt Nam năm 2012.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng.
Cỡ mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ điều trị thất bại của một số phác đồ
điều trị SR đã nghiên cứu khoảng < 10 %, Do
vậy, tỷ lệ 10% được chọn để xác định cỡ mẫu
hiệu lực điều trị, với độ tin cậy 95% và độ chính
xác (d) là 10%, Theo bảng chọn mẫu qui định
cho đánh giá hiệu lực điều trị thuốc sốt rét
(WHO, 1987; WHO, 2009). Như vậy tại mỗi điểm
cỡ mẫu từ 30 – 50 bệnh nhân.
Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên
cứu
Nghiên cứu in vivo được tiến hành tại: huyện
Phú Thiện (tỉnh Gia Lai), Bác Ái (tỉnh Ninh
Thuận), Bắc Bình (tỉnh Bình Thuận) và Buôn
Đôn (tỉnh Đăk Lăk) năm 2012.
Labo: Phân tích các mẫu máu bệnh nhân
xuất hiện lại KSTSR từ ngày D7 – D42 bằng kỹ
thuật PCR tại la bô sinh học phân tử, Viện Sốt
rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương.
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán là SR do P,
falciparum không biến chứng có đủ các tiêu
chuẩn tuyển chọn dưới đây được đưa vào đối
tượng nghiên cứu.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Trên 2 tuổi.
Nhiễm đơn với P. falciparum.
Mật độ KST máu: Từ 500– 100.000 thể vô
tính trên 1 l máu.
Nhiệt độ nách ≥ 37,5°C hoặc có tiền sử sốt
trong vòng 24 giờ.
Có khả năng uống được thuốc.
Tự nguyện tham gia đầy đủ lịch trình
nghiên cứu nếu bệnh nhân là trẻ em có sự đồng
ý của cha mẹ hoặc người bảo trợ.
Tiêu chuẩn loại trừ không đưa vào nghiên cứu
Trẻ em dưới 2 tuổi.
Có các dấu hiệu nguy hiểm của SR nặng và
SRAT theo định nghĩa của WHO.
Nhiễm phối hợp hoặc nhiễm đơn với chủng
Plasmodium khác.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 33
Mật độ KSTSR trong máu
100000 KST thể vô tính trên 1 l máu.
Bị suy dinh dưỡng nặng hoặc có các bệnh
cấp hoặc mãn tính khác kèm theo.
Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.
Thuốc và liều lượng nghiên cứu
Thuốc sốt rét
+ Arterakin do chương trình PCSR cung cấp
và được kiểm định chất lượng tại Viện kiểm
nghiệm Trung ương đạt tiêu chuẩn chất lượng.
(liều tính theo lứa tuổi: 9 viên đối với người >15
tuổi, 7,5 viên đối với người 8-15 tuổi, 4,5 viên
đối với 3-8 tuổi, 3 viên cho: 2-3 tuổi).
+ AS do WHO cung cấp, tổng liều điều trị 28
mg/kg trong 7 ngày. (4 mg/kg/ngày x 7 ngày).
Tất cả bệnh nhân được uống thuốc dưới sự
giám sát của cán bộ có chuyên môn thuộc nhóm
nghiên cứu, quan sát bệnh nhân trong 30 phút
sau khi cho uống thuốc. Bệnh nhân bị nôn sẽ
được uống lại, nếu nôn tiếp bệnh nhân bị loại
khỏi nghiên cứu.
Các kỹ thuật áp dụng
Xét nghiệm lam máu phát hiện KSTSR theo
kỹ thuật thường qui của Viện Sốt rét – Ký sinh
trùng – Côn trùng Trung ương (5).
Đếm KSTSR theo phương pháp của WHO (2
kỹ thuật viên đếm độc lập nhau).
Đánh giá hiệu lực của thuốc theo test in vivo
28 ngày và 42 ngày của WHO (6).
Phân biệt tái phát và tái nhiễm bằng phân
tích kiểu gen P.falciparum theo kỹ thuật của
Snounou G (1).
Các chỉ số đánh giá
Thời gian cắt sốt (FCT), thời gian cắt ký sinh
trùng (PCT).
Tỷ lệ KSTSR dương tính ngày D3.
Tỷ lệ khỏi bệnh (ACPR), tỷ lệ điều trị thất
bại bao gồm: thất bại điều trị sớm (ETF), thất bại
điều trị muộn (LTF) theo phân loại đáp ứng của
WHO năm 2007.
Xử lý số liệu
Hiệu lực điều trị của thuốc trên bệnh nhân
sốt rét được phân tích theo phần mềm Excel của
WHO năm 2007.
Về mặt Đạo đức
Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội
đồng đạo đức của Viện Sốt rét - KST – CT Trung
ương và Hội đồng đạo đức WHO năm 2012.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Thời gian cắt sốt, cắt ký sinh trùng của
artesunat đơn thuần phác đồ 7 ngày đối với P.
falciparum.
Địa điểm Số ca
FCT Ngày
(Min – Max)
PCT Ngày
(Min – Max)
Phú Thiện- Gia Lai 39
1,7 ± 0,8
(1 – 3)
2,6 ± 0,7
(1- 4)
Nhận xét: Thời gian cắt sốt, cắt KST của phác
đồ AS7D kéo dài ở điểm nghiên cứu.
Bảng 2: Hiệu lực điều trị của artesunat đơn thuần phác đồ 7 ngày trong điều trị P.falciparum.
Địa điểm
Số bệnh
nhân đến
D28
KST (+) D3
N (%)
KST (+) D4
N (%)
Phân loại đáp ứng điều trị PCR
ACPR
sau PCR ACPR ETF LPF/ LCF
Tái phát Tái nhiễm Chủng
khác
Phú Thiện,
Gia Lai
39
15/39
(38,5)
9/39 (23,1) 38 0 1 1 0 0 97,4%
Nhận xét: Hiệu lực điều trị của artesunat
viên 7 ngày với P.falciparum vẫn còn cao tại Gia
Lai, tỷ lệ điều trị khỏi 97,4%. Tỷ lệ còn KST ngày
D3 rất cao 38,5%, và còn ngày D4 là 23,1%.
Bảng 3: Thời gian cắt sốt và cắt ký sinh trùng của
phác đồ Dihydroartemisinin – piperaquin với P.
falciparum.
Địa điểm Số ca
FCT Ngày
(Min – Max)
PCT Ngày
(Min – Max)
Ninh Thuận 65
1,1 ± 0.4
(1 – 2)
1,5 ± 0.5
(1- 2)
Đăk Lăk 37
1,4 ±0,3
(1 – 3)
1,4 ± 0,5
(1 – 2)
Bình Thuận 42
1,2 ±0,4
(1 – 2)
1,4 ± 0,5
(1 – 2)
Cộng các điểm 144 1,3 ± 0,5 1,4± 0,8
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 34
Địa điểm Số ca
FCT Ngày
(Min – Max)
PCT Ngày
(Min – Max)
P > 0,05 > 0,05
Nhận xét: Thời gian cắt sốt, cắt KST của
phác đồ DHA – PIP tại các điểm không có sự
khác biệt.
Bảng 4: Hiệu lực điều trị của phác đồ
Dihydroartemisinin – piperaquin với P.falciparum.
Địa điểm
Số
bệnh
nhân
đến D42
KST
(+) D3
N (%)
Phân loại đáp ứng
điều trị ACPR
sau PCR
ACPR ETF LPF/LCF
Ninh
Thuận 65 0 65 0 0 100%
Đăk Lăk 37 0 37 0 0 100%
Bình
Thuận 42 0 42 0 0 100%
Nhận xét: Thuốc phối hợp DHA – PIP có
hiệu lực cao với P.falciparum tại các điểm nghiên
cứu, tỷ lệ điều trị khỏi là 100%, không có trường
hợp nào còn KST ở ngày D3.
BÀN LUẬN
Với phác đồ artesunate đơn trị liệu 7 ngày
(AS7D)
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: ngày cắt sốt
trung bình sau điều trị AS7D tại Gia Lai là 1,7
ngày, kết quả không có sự khác biệt có ý nghĩa
so với các nghiên cứu trước ở cùng địa điểm (1,5
ngày) và các điểm ở Ninh Thuận (1,1 ngày) và
1,5 ngày tại Quảng Trị.
Đối với diễn tiến làm sạch KSTSR: thời gian
cắt KST trung bình là 2,6 ngày, cao hơn có ý
nghĩa so với các nghiên cứu trước: 1,6 ngày tại
Ninh Thuận và 2,4 ngày tại Bình Phước (2009 -
2010). Tỷ lệ KST dương tính ở ngày D3 là 38,5%
cao hơn có ý nghĩa so với các nghiên cứu trước
đây năm 2010: Gia Lai 2,6%, Ninh Thuận và
Quảng Trị là 0%, 10,2% tại Bình Phước. Và đặc
biệt tỷ lệ còn KST ngày D4 là 23,1%. Thời gian
cắt KST tại Gia Lai dài hơn rõ rệt so với chính
điểm này trước đó 2 năm các điểm nghiên cứu
khác(3,4).
Từ phân tích số liệu cho thấy AS vẫn có tỷ lệ
điều trị khỏi 97,4% sau theo dõi 28 ngày. AS đã
có biểu hiện giảm hiệu lực trong điều trị P.
falciparum ở các điểm nghiên cứu. Hiện tượng
giảm hiệu lực điều trị của nhóm artemisinin đã
được cảnh báo ở biên giới Camphuchia-Thái
Lan. Tại điểm nghiên cứu Pailin, Camphuchia
ngay từ năm 2004 với phác đồ artesunat phối
hợp mefloquin (3 ngày), tỷ lệ điều trị khỏi là
90% sau theo dõi 28 ngày và 79% sau theo dõi 42
ngày. Cũng tại đây phác đồ AS 8 mg/kg/ngày
cho thấy thời gian sạch KST trung bình là 70 giờ
và tỷ lệ KST còn dương tính ở ngày D3 là 10%.
WHO đã cảnh báo tỷ lệ bệnh nhân còn KSTSR
dương tính ở ngày D3 cao khi điều trị các thuốc
có gốc artemisinin là dấu hiệu cho thấy có hiện
tượng kháng thuốc nhóm artemisinin. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ KST dương tính ở ngày D3
tại Phú Thiện, Gia Lai là 38,5% tăng gần 15 lần
so với 2 năm trước, kết quả này cũng tương tự
như ở Bình Phước (Đăk Nhau) là 13,2 % (năm
2009) và đã tăng lên 24% (năm 2010), chỉ sau 1
năm tỷ lệ này đã tăng lên gần gấp đôi. Đặc biệt
tỷ lệ còn KST ngày D4 rất cao tại Phú Thiện, Gia
Lai năm 2012 (23,1%) (4). Đây thực sự là một vấn
đề rất đáng lo ngại với sự lan rộng của chủng
KST P. falciparum kháng thuốc tại một số tỉnh
Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Với phác đồ thuốc phối hợp DHA – PIP 3
ngày
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy thời gian cắt KST
của phác đồ arterakin (DHA - PIP) trung bình là
1,3 ngày (1,1-1,4 ngày tùy theo từng điểm), ngắn
nhất là tại Ninh Thuận (1 ngày), cao nhất tại Đăk
Lăk (1,4 ngày).
Kết quả ở Bảng 4 cho thấy: arterakin có hiệu
lực điều trị rất cao trong điều trị sốt rét do P.
falciparum, với tỷ lệ điều trị khỏi 100%, tỷ lệ cắt
KST ở ngày D3 là 100% tại hầu hết các điểm
nghiên cứu. Kết quả ở các điểm này khả quan
hơn điểm Đăk Nhau, tỉnh Bình Phước (năm
2010)(4) nơi xuất hiện kháng artesunate thì cũng
đã xuất hiện 1 trường hợp điều trị thất bại sớm
với arterakin và đáng lo ngại nhất là 15,3% KST
vẫn tồn tại ở ngày D3.
Vấn đề ở Đăk Nhau, tỉnh Bình Phước hiện
nay đang là mối quan tâm của các nhà quản lý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 35
và làm chính sách sốt rét. Nhưng khi nhìn thấy
kết quả nghiên cứu AS đơn thuần tại Gia Lai,
điểm cách xa Bình Phước nơi phát hiện KSTSR
kháng thuốc hàng trăm km thì không khỏi lo
ngại. Tuy nhiên để khẳng định chủng P.
falciparum ở đây đã kháng thuốc hay chưa vẫn
còn nhiều câu hỏi cần phải làm rõ: (i) Vấn đề
hấp thu và thải trừ thuốc trên các đối tượng
này?, (ii) Sự tương tác thuốc ? (iii) Chủng KST
sốt rét? Tuy nhiên, về vấn đề điều trị, thì khi một
phác đồ có hiệu lực điều trị (ACPR) dưới 90%,
thì phác đồ đó đã không được sử dụng tại cộng
đồng. Chính vì vậy, trong tài liệu Hướng dẫn
chẩn đoán và điều trị sốt rét 2009 Bộ Y tế không
cho phép sử dụng AS đơn thuần trong điều trị
SR, mà phải dùng thuốc phối hợp, tất cả các
trường hợp dương tính sau điều trị diệt thể vô
tính phải dùng thuốc diệt giao bào chống lây lan
để ngăn chặn sự lây lan của chủng KST kháng
thuốc(2). Để sớm phát hiện các trường hợp kháng
thuốc, các bệnh nhân khi điều trị phải được xét
nghiệm lam máu hàng ngày và đếm mật độ KST
(ít nhất trong 3 ngày đầu điều trị). Các bệnh
nhân khi được điều trị phải giám sát chặt chẽ
việc tuân thủ đầy đủ liệu trình điều trị. Vấn đề
điều trị có giám sát trực tiếp (DOT – Direct
Observation Therapy) cần phải được đưa vào
vùng này để ngăn chặn việc dùng thuốc không
đủ liều lượng và không tuân thủ thời gian điều
trị.
KẾT LUẬN
Hiệu lực điều trị sốt rét do P.falciparum của
phác đồ AS7D tại Gia Lai là 97,4%, nhưng tỷ
lệ KST còn tồn tại ở ngày D3 cao 38,5% và D4
là 23,1%.
Phác đồ DHA-PIP còn hiệu lực cao trong
điều trị sốt rét do P. falciparum với tỷ lệ điều trị
khỏi 100%, tỷ lệ sạch KST ở ngày D3 là 100% ở
hầu hết các điểm nghiên cứu.
KHUYẾN NGHỊ
Do tỷ lệ KSTSR còn tồn tại ở ngày D3 và D4
cao trong điều trị artesunat đơn thuần. Vì vậy đề
nghị các cơ sở điều trị tuân thủ hướng dẫn chẩn
đóan và điều trị sốt rét do Bộ Y tế ban hành năm
2009: Không được điều trị artesunat đơn thuần.
Đề tăng cường giám sát hiệu lực điều trị và
mở rộng diện giám sát, các cơ sở điều trị nên
theo dõi diễn tiến của mật độ KSTSR ít nhất
trong 72 giờ đầu điều trị (D0 - D3).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Phúc, Lê Đức Đào, Nguyễn Văn Tuấn và cs (2003).
Xác định ký sinh trùng sốt rét trong máu người và phân biệt tái
phát tái nhiễm bằng kỹ thuật phản ứng tổng hợp chuỗi
polymerase lồng tại Gia Lai. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và
các bệnh ký sinh trùng. Số 1, trang: 70-76.
2. Bộ Y tế (2009). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét (Ban hành
kèm theo quyết định số 4605/QĐ-BYT ngày 24/11/2009 của Bộ Y
tế.
3. Ngô Việt Thành, Trần Quốc Toàn, Alan F Cowman, Gerard J
Casey, Bùi Quang Phúc, Nông Thị Tiến, Nguyễn Mạnh Hùng,
Beverley Ann Biggs (2010). Monitoring for P.falciparum drug
resistance to artemisinin and artesunate in Binh Phuoc province,
Viet Nam 1998 – 2009. Malaria Journal, 9: 181.
4. Tạ Thị Tĩnh, Nguyễn Mạnh Hùng và cs (2010). Hiệu lực điều trị
của artesunat tại một số vùng của Việt Nam năm 2008 – 2009. Tạp
chí PCSR và các bệnh Ký sinh trùng, số 2, trang 14 – 18.
5. WHO (1994): Hình thể ký sinh trùng và các kỹ thuật xét nghiệm
để chẩn đoán bệnh sốt rét. Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn
trùng dịch và phát hành.
6. WHO (2010): Guidelines for the treatment of malaria, second
edition.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_luc_dieu_tri_cua_phac_do_artesunate_don_thuan_va_dihydr.pdf