RFA vừa được giới thiệu như là phương pháp
điều trị đầu tiên cho các nhân độc – nhân nóng tuyến
giáp. Một phân tích hệ thống cho thấy tính hiệu quả và
sự an toàn của RFA trong điều trị nhân độc, nó giảm
được biến chứng suy giáp và giảm việc phải dùng
thuốc kháng giáp trạng sau điều trị RFA. Laser và tiêm
cồn cũng được xem là những phương pháp xâm lấn tối
thiểu trong điều trị nhân độc – nhân nóng tuyến giáp.
Tuy nhiên, số lần can thiệp trung bình thấp hơn so với
Laser . Tiêm cồn cho thấy kết quả tốt trong điều trị nhân
độc, tuy nhiên số lần can thiệp điều trị nhiều hơn so với
RFA. Thêm vào đó, mức giảm thể tích trung bình sau
tiêm cồn dường như thấp hơn so với RFA. Nguy cơ lớn
lên trở lại của vùng rìa trong tiêm cồn cao hơn RFA.
Về phần biến chứng, tiêm cồn có nhiều biến
chứng như vấn đề thay đổi giọng nói, suy giáp, tụ máu,
abcess, đau. Những biến chứng này liên quan tới rò
cồn ra ngoài nhu mô tuyến giáp. Điều trị nhiều đợt cũng
có thể làm tăng tỷ lệ biến chứng của phương pháp tiêm
cồn tuyệt đối. Trong nghiên cứu của chúng tôi không
bất cứ biến chứng nặng nào ngoài đau. Chúng tôi
không ghi nhận bất cứ trường hợp nào suy giáp trong
suốt thời gian theo dõi. Kết quả này cho thấy RFA có
thể bảo tồn chức năng tuyến giáp bình thường sau khi
điều trị nhân độc, không giống như trong phẫu thuật
hoặc liệu pháp phóng xạ. Tổn thương bỏng do nhiệt
tới các các cấu trúc như khí quản, thực quản, dây thần
kinh thanh quản quặt ngược có thể tránh được nhờ sử
dụng kĩ thuật di chuyển kim ngắn và làm dưới hướng
dẫn của siêu âm. Động mạch cảnh không bị tổn thương
do nhiệt nhờ hiêụ ứng tản nhiệt do dòng máu chảy liên
tục trong lòng mạch.
Tuy vậy nghiên cứu này cho thấy sự hiệu quả và
tính an toàn của phương pháp đốt sóng cao tần trong
điều trị nhân độc – nhân nóng tuyến giáp. RFA có thể
cân nhắc như là giải pháp thay thế cho phẫu thuật hoặc
liệu pháp iod phóng xạ mà không dẫn tới suy giáp.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả bước đầu điều trị nhân nóng tuyến giáp bằng phương pháp đốt sóng cao tần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201942
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ
NHÂN NÓNG TUYẾN GIÁP BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ĐỐT SÓNG CAO TẦN
Initial effectiveness of radiofrequency ablation of
the autonomously functioning thyroid nodules
Lê Thị My, Phạm Minh Thông, Vũ Đăng Lưu
Trung tâm điện quang
Bệnh viện Bạch Mai
Objective: Some patients with autonomously functioning thyroid
nodules (AFTN) are not suitable for surgery or radioiodine therapy.
Therefore, minimally invasive alternative treatments, such as ethanol
ablation or radiofrequency ablation (RFA), are necessary.
Methods: This study included seven patients (7 toxic and 10
pretoxic patients; male to female ratio = 1:7.5; mean age, 46.47 ± 13
(range, 22–66) years) who were not eligible for surgery or radioiodine
therapy. All of the patients showed hot nodule with suppression of normal
thyroid gland in 99mTc pertechnetate scintigraphy. RFA was performed
using a 18 gauge internally cooled electrode. Nodule volume, thyroid
function, scintigraphy, symptom score (visual analogue scale, 0–10cm),
cosmetic grading score (4 point scale), and complications were evaluated
before treatment and at 1, 3, 6 months follow-up.
Results: Mean volume of the index nodule was 13.07 ± 8.44
(range, 2.2–35.5) mL. After RFA, The volume reduction at 1month, 3
months, 6 months follow up was 42.77 % , 63. % và 78.3 % . Initial
mean T3, FT4, and TSH were 2.59 ± 1.19nmol/L, 16.3 ± 5.78pmol/L,
and 0.101 ± 0.178 mU/mL, respectively. A significant improvement of
mean T3, FT4, and TSH were observed after 1month (T3: 2.18 ± 0.753
nmol/L, p = 0.001; FT4: 14.78 ± 2.86 pmol/L, p = 0.026; TSH: 1.464 ±
0.844 mU/mL, p = 0.001), after 6 months (T3: 2.07 ± 0.614 nmol/L, p
= 0.012; FT4: 15.12 ± 2.0 pmol/L, p = 0.001; TSH: 1.269 ± 0.398 mU/
mL, p < 0.001). After ablation, 16 patients became a cold or normal scan
and one patient uptake similar normal thyroid tissue. After 6 months, the
mean symptom was reduced from 3.47 ± 1.9 to 0.12± 3.32 (p = 0.001)
and cosmetic grading score was reduced from từ 3.59 ± 1.1 tới 1.41±
0.712 (p = 0.712) (p <0.001). No major complications were encountered.
Conclusions: RFA was effective and safe for treating autonomously
functioning benign thyroid nodules and it might be recommended for
treating hot benign thyroid nodules as the first-line treatment
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu nhân tuyến giáp là tổn thương dạng khối
khu trú trong tuyến giáp, đây là một bệnh lý khá phổ
biến. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO: World Health
Organization) công bố năm 1995 thì tỷ lệ bệnh này là
5% dân số toàn cầu. Phần lớn nhân tuyến giáp là các
nhân không có chức năng, tuy nhiên cũng có một tỷ
lệ nhỏ nhân tuyến giáp có chức năng (autonomously
functioning thyroid nodules) hay còn gọi là “nhân nóng”,
những nhân này gây ra tình trạng cường giáp cận lâm
sàng – tiền nhiễm độc giáp (pretoxic) hoặc cường giáp
- nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis). Điều trị những “nhân
nóng” tuyến giáp này được đặt ra khi các nhân lớn chèn
ép các cấu trúc giải phẫu vùng cổ (khí quản, thực quản)
hay gây các vấn đề về thẩm mỹ như lồi cổ và đặc biệt
khi nó gây ra tình trạng cường giáp – nhiễm độc giáp.
Mặc dù liệu pháp iod phóng xạ và phẫu thuật là
một trong những lựa chọn cho điều trị nhân độc tuyến
giáp, tuy nhiên còn hạn chế chỉ định trong những trường
hợp phụ nữ trẻ tuổi. Hơn nữa, một số bệnh nhân từ
chối điều trị bằng liệu pháp iod phóng xạ và phẫu thuật
vì nguy cơ phơi nhiễm phóng xạ và một số biến chứng
như suy giáp. Vì vậy các phương pháp điều trị khác
như tiêu huỷ bằng cồn, laser là một trong những sự
lựa chọn.
Phương pháp điều trị nhân tuyến giáp bằng sóng
cao tần (Radiofrequency ablation - RFA) là một trong
những phương pháp phá huỷ tại chỗ gây hoại tử mô
bằng nhiệt và nó đã được sử dụng rộng rãi cho điều trị
các khối u gan cũng như các khối u lành tính khác như
u xơ tuyến vú, u xương...
Ở Việt Nam, điều trị RFA cho nhân lành tính tuyến
giáp đã được triển khai từ năm 2016 tại Trung tâm Điện
Quang – Bệnh viện Bạch Mai và bước đầu ghi nhận
được sự hiệu quả cũng như tính an toàn của phương
pháp này . Tuy nhiên chưa có nghiên cứu hay báo cáo
cụ thể về RFA trong điều trị “nhân nóng”, vì vậy chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm nhận xét về kĩ thuật
và đánh giá hiệu quả, tính an toàn của RFA trong điều
trị nhân nóng tuyến giáp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chẩn lựa chọn
• Người bệnh được chẩn đoán xác định nhân
nóng có tình trạng cường giáp hoặc không
• Nồng độ hoóc môn tuyến giáp trong giới hạn
bình thường hoặc được điều trị nội khoa về bình giáp
(trong trường hợp bệnh nhân có cường giáp) trước khi
RFA
• Kết quả xét nghiệm tế bào học từ bệnh phẩm
lấy được là lành tính
• Bệnh nhân từ chối điều trị bằng phẫu thuật
hoặc iod phóng xạ.
• BN tái khám đầy đủ theo lịch khám định kì ở
thời điểm sau điều trị 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng.
Các tiêu chẩn loại trừ
• Các nốt tuyến giáp là tổn thương ác tính
• Bệnh nhân còn trong tình trạng cường giáp
• BN có rối loạn đông máu nặng (TC <50.000/
mm3, PT<60%)
• BN có bệnh nặng phối hợp: suy tim, suy thận
• Bệnh nhân từ chối điều trị đốt sóng cao tần
• Bệnh nhân không tới khám theo lịch hẹn
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả , can thiệp
không đối chứng, tiến hành tiến cứu.
Thời gian: từ tháng 12/2017 đến tháng 8/2019.
Cỡ mẫu và chọn mẫu: chọn mẫu thuật tiện có
chủ đích.
Đánh giá sau điều trị tại các thời điểm 01 tháng,
03 tháng và 06 tháng.
Chuẩn bị trước điều trị
Siêu âm, xét nghiệm hoá sinh máu đánh giá chức
năng tuyến giáp, xạ hình tuyến giáp 99mTc và thăm
khám lâm sàng trước khi điều trị đốt sóng cao tần. Thủ
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201944
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thuật đốt sóng cao tần được thực hiện dưới hướng dẫn
của siêu âm.
Nhân tuyến giáp được đo theo 3 chiều và tính thể
tích trước khi điều trị RFA:
Thể tích của mỗi nhân được tính theo công thức
sau: V= πabc/6
V: thể tích:
a: chiều dài
b: chiều rộng
c: chiều cao
Dựa theo thành phần đặc của khối để phân loại
thành 3 loại:
• nhân đặc ( thành phần đặc >90%):
• chủ yếu là đặc – hỗn hợp ( 50%< thành phần
đặc <90%),
• chủ yếu là nang ( phần đặc <10%)
Mức độ tăng sinh mạch của mỗi nhân được phân
loại thành 5 độ:
0: không thấy tín hiệu mạch trong khối
1: một vài điểm tín hiệu mạch trong khối
2: tín hiệu mạch <25% trong khối
3: tín hiệu mạch 25-50% trong khối
4: tín hiệu mạch >50% trong khối
Các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng được
lượng giá bằng sử dụng thang điểm triệu chứng (visual
analog scale: 0-10cm)
Điểm thẩm mỹ (cosmetic score):
1: không sờ thấy khối
2: không có vấn đề về thẩm mỹ nhưng sờ thấy
khối.
3: nhìn thấy khối chỉ khi bệnh nhân nuốt
4: nhìn thấy rõ khối gây lồi cổ.
Các xét nhiệm máu bao gồm: TSH, FT4, T3
Chụp xạ hình tuyến giáp bằng 99mTc hoặc I131.
Theo dõi sau điều trị
Sau điều trị thăm khám theo dõi bằng siêu âm,
xét nghiệm máu, xạ hình tuyến giáp và khám lâm sàng
đánh giá thay đổi về điểm thẩm mỹ, điểm triệu chứng
ở các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và sau đó là
mỗi 6 tháng.
Trên siêu âm, đánh giá kích thước, thể tích, sự
thay đổi về tưới máu của nhân tuyến giáp. Mức độ giảm
thể tích được tính toán theo công thức: Mức giảm thể
tích (%) = ( [thể tích ban đầu - mL] – [thể tích tại thời
điểm đánh giá – mL)] x100/ Thể tích ban đầu.
Sự thay đổi trên hình ảnh xạ hình tuyến giáp cũng
được đưa vào tiêu chuẩn theo dõi sau điều trị. Trong
quá trình theo dõi xạ hình tuyến giáp, các nốt tuyến
giáp được phân loại thành 3 type: 1: nhân nóng, type 2:
nốt bắt xạ tương đương nhu mô tuyến giáp lành xung
quanh và type 3: nhân lạnh.
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu có 17 bệnh nhân đạt
tiêu chuẩn lựa chọn được điều trị, tuổi trung bình 46.47
± 13; độ tuổi từ 28 đến 66 tuổi, tỷ lệ nam:nữ là 1:7.5.
1. Về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng nhân
nóng tuyến giáp:
1.1. Đặc điểm lâm sàng
- Thang điểm triệu chứng lâm sàng vùng cổ trung
bình: 3.47 ± 1.9 điểm (từ 1 đến 6 điểm)
- Điểm thẩm mỹ trung bình (cosmetic score):
3.59 ± 7.95. Đa số gặp lồi cổ độ 4 chiếm tới 70,6%.
- Trong số 17 bệnh nhân, có 10 bệnh nhân (chiếm
58.8%) tiền nhiễm độc giáp và 7 bệnh nhân (chiếm
42.1%) có tình trạng nhiễm độc giáp ( tất cả 7 bn này
đều được điều trị nội khoa về bình giáp trước khi tiến
hành điều trị đốt sóng cao tần)
1.2. Đặc điểm hình ảnh siêu âm
- Số lượng nhân tuyến giáp: tất cả 17 bệnh nhân
đều có 01 nhân độc tuyến giáp phân bố ở thuỳ phải,
thuỳ trái và eo tuyến giáp
- Kích thước và thể tích nhân tuyến giáp: kích
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thước trung bình của nhân tuyến giáp 38.59 ± 9.7mm
(từ 22mm tới 55mm). Thể tích trung bình của các nhân
tuyến giáp 13.07 ± 8.44 ml (2.2ml tới 35.5ml)
- Mức độ tăng sinh mạch: Điểm tăng sinh mạch
trung bình: 3.12 ± 0.781. Đa số các nhân nóng trong
nghiên cứu có mức tăng sinh mạch độ 3, 4 (chiếm
~74,5%).
- Thành phần của nhân chủ yếu là nhân đặc
trong đó tổn thương dạng đặc chiếm 82.4%, hỗn hợp
chiếm 17.6% và không có tổn thương dạng nang.
1.3. Xét nghiệm sinh hoá
Các chỉ số xét nghiệm hormone T3, FT4, TSH ở
thời điểm ban đầu trước điều trị 2.59 ± 1.19 nmol/L,
16.3 ± 5.78 pmol/L và 0.101 ± 0.178 mU/mL
2. Đặc điểm kỹ thuật
- Kỹ thuật
Tất cả các lần thực hiện thủ thuật đốt sóng cao
tần đều được tiến hành dưới hướng dẫn của siêu âm.
Với 17 nhân tuyến giáp được điều trị với 19 lần đốt,
trong đó có 02 nhân được đốt 2 lần. Số lần đốt sóng
trung bình điều trị cho mỗi nhân tuyến giáp 1.12 ± 0.332
(lần).
Bảng 1. Số lần đốt sóng cho mỗi nhân tuyến giáp
Số lần đốt Số khối (n=17) Tỷ lệ
1 lần 15 88.2%
2 lần 2 11.8%
Thời gian đốt trung bình 23.35 ± 8.8 phút (từ 10
tới 40 phút). Mức năng lượng đốt trung bình 33.82 ±
4.8W (từ 25 tới 40W) .
Kim đốt với kích tước đầu đốt loại 7mm được sử
dụng nhiều nhất (chiếm 73.7%)
Bảng 2. loại kích thước kim sử dụng trong
đốt sóng cao tần
Loại kim Số lần RFA (n=19) Tỷ lệ
Kim 5mm 1 5.2%
Kim 7mm 14 73.7%
Kim 10mm 4 21.1%
- Biến chứng sau can thiêp
Trong suốt quá trình đốt sóng, tất cả bệnh nhân
đều có triệu chứng đau hoặc cảm giác nóng ở vùng
cổ, đôi khi lan lên vai, đầu, vùng hàm, sau lưng và
vùng ngực. Tuy nhiên không có trường hợp nào mà
các triệu chứng nghiêm trọng tới mức phải dừng thủ
thuật. Trong nghiên cứu này của chúng tôi không có
biến chứng nặng nào như thay đổi giọng nói, bỏng da
hoặc tổn thương các cấu trúc giải phẫu vùng cổ trong
suốt quá trình làm thủ thuật và theo dõi sau đó.
3. Hiệu quả điều trị
Các chỉ số xét nghiệm hormone T3, FT4, TSH ở
thời điểm ban đầu trước điều trị 2.59 ± 1.19 nmol/L,
16.3 ± 5.78 pmol/L, and 0.101 ± 0.178 mU/mL và có sự
cải thiện đáng kể sau điều trị RFA 1 tháng (T3: 2.18 ±
0.753 nmol/L, p = 0.001; FT4: 14.78 ± 2.86 pmol/L, p
= 0.001; TSH: 1.464 ± 0.844 mU/mL, p = 0.001), sau
3 tháng (T3: 2.14 ± 0.65 nmol/L, p = 0.012; FT4: 14.88
± 2.604 pmol/L, p = 0.022; TSH: 1.407 ± 0.56 mU/mL,
p = 0.001), sau 06 tháng (T3: 2.07 ± 0.614 nmol/L, p =
0.012; FT4: 15.12± 2.0 pmol/L, p = 0.001; TSH: 1.269 ±
0.398 mU/mL, (p <0.001)
Biểu đồ 1. Thay đổi TSH sau điều trị RFA
Biểu đồ 2. Thay dổi của FT4 sau điều trị RFA
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201946
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Sau điều trị RFA lần đầu tiên, xạ hình tuyến giáp
sau điều trị, có 16 nhân giáp tiến triển từ nhân nóng
thành nhân lạnh và 1 nhân nóng có hình ảnh xạ hình
bắt xạ tương đương nhu mô giáp lành.
Theo dõi đánh giá sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng
điều trị RFA, điểm triệu chứng giảm từ 3.47 ± 1.9 xuống
1,12 ± 0.92; 0.47 ± 0.624 và 0,12 ± 3.32 (p < 0.001) và
điểm thẩm mỹ giảm từ 3.59 ± 0.795 tới 2.53 ± 0.8; 1.94
± 0.748 và 1.41 ± 0.712 (p <0.001).
Mức độ tăng sinh mạch của tổn thương trước
điều trị và sau điều trị 1 tháng thay đổi rõ rệt từ 3.12 ±
0.781 tới 0.29 ± 0.47 (p<0.001)
Thể tích trung bình trước điều trị 13.07 ± 8.44
ml. Sau điều trị, thể tích ở thời điểm sau 1 tháng 7.3
± 4.19ml (p=0.01), ở thời điểm sau 03 tháng 4.88 ±
3.34ml (p=0.13), sau 06 tháng 2.75 ± 1.82 ml.
Mức độ giảm thể tích trung bình sau điều trị theo
dõi ở các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng lần lượt
tương đương là 42.77 ± 13.07 % , 63.13 ± 14.98% và
78.3 ± 11.09%
Biểu đồ 3. Mức độ giảm thể tích nhân tuyến giáp sau điều trị RFA
Không có bệnh nhân nào than phiền về các triệu chứng lâm sàng trầm trọng hơn sau khi RFA. Trước khi đốt
sống cao tần, có 10 bệnh nhân được dùng thuốc kháng giáp trạng do có tình trạng nhiễm độc giáp, và sau điều trị
RFA không có trường hợp nào phải duy trì dùng thuốc kháng giáp trạng.
Hình1. Bệnh nhân Nam, 66T, chẩn đoán nhân nóng tuyến giáp. Điều trị nội khoa 10 năm
A, B: KT khối: 20x29x46mm, V~14ml. Tăng sinh mạch độ IV, Lồi cổ độ IV. C: xạ hình: nhân nóng
D, E,: sau điều trị 1 tháng giảm ~50% thể tích, tăng sinh mạch độ I F: xạ hình: nhân lạnh
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hội chứng
cường giáp do nhân độc được cải thiện ở tất cả bệnh
nhân. RFA đồng thời cũng cải thiện các triệu chứng lâm
sàng, thẩm mỹ bởi sự giảm thể tích của nhân tuyến
giáp. Trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi nhận
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
bất cứ một biến chứng nặng hay tình trạng nhiễm độc
giáp nào trong quá trình làm thủ thuật và theo dõi sau
đó.
RFA vừa được giới thiệu như là phương pháp
điều trị đầu tiên cho các nhân độc – nhân nóng tuyến
giáp. Một phân tích hệ thống cho thấy tính hiệu quả và
sự an toàn của RFA trong điều trị nhân độc, nó giảm
được biến chứng suy giáp và giảm việc phải dùng
thuốc kháng giáp trạng sau điều trị RFA. Laser và tiêm
cồn cũng được xem là những phương pháp xâm lấn tối
thiểu trong điều trị nhân độc – nhân nóng tuyến giáp.
Tuy nhiên, số lần can thiệp trung bình thấp hơn so với
Laser . Tiêm cồn cho thấy kết quả tốt trong điều trị nhân
độc, tuy nhiên số lần can thiệp điều trị nhiều hơn so với
RFA. Thêm vào đó, mức giảm thể tích trung bình sau
tiêm cồn dường như thấp hơn so với RFA. Nguy cơ lớn
lên trở lại của vùng rìa trong tiêm cồn cao hơn RFA.
Về phần biến chứng, tiêm cồn có nhiều biến
chứng như vấn đề thay đổi giọng nói, suy giáp, tụ máu,
abcess, đau. Những biến chứng này liên quan tới rò
cồn ra ngoài nhu mô tuyến giáp. Điều trị nhiều đợt cũng
có thể làm tăng tỷ lệ biến chứng của phương pháp tiêm
cồn tuyệt đối. Trong nghiên cứu của chúng tôi không
bất cứ biến chứng nặng nào ngoài đau. Chúng tôi
không ghi nhận bất cứ trường hợp nào suy giáp trong
suốt thời gian theo dõi. Kết quả này cho thấy RFA có
thể bảo tồn chức năng tuyến giáp bình thường sau khi
điều trị nhân độc, không giống như trong phẫu thuật
hoặc liệu pháp phóng xạ. Tổn thương bỏng do nhiệt
tới các các cấu trúc như khí quản, thực quản, dây thần
kinh thanh quản quặt ngược có thể tránh được nhờ sử
dụng kĩ thuật di chuyển kim ngắn và làm dưới hướng
dẫn của siêu âm. Động mạch cảnh không bị tổn thương
do nhiệt nhờ hiêụ ứng tản nhiệt do dòng máu chảy liên
tục trong lòng mạch.
Tuy vậy nghiên cứu này cho thấy sự hiệu quả và
tính an toàn của phương pháp đốt sóng cao tần trong
điều trị nhân độc – nhân nóng tuyến giáp. RFA có thể
cân nhắc như là giải pháp thay thế cho phẫu thuật hoặc
liệu pháp iod phóng xạ mà không dẫn tới suy giáp.
V. KẾT LUẬN
Với 17 bệnh nhân có nhân nóng tuyến giáp có
kích thước - thể tích trung bình 38,59 ± 9.7mm và 13.07
± 8.44ml được điều trị đốt sóng cao tần. Các kết quả
ban đầu cho thấy tính hiệu quả và an toàn trong điều
trị cho nhân nóng tuyến giáp và có thể khuyến cáo và
cân nhắc là phương pháp điều trị trước tiên cho nhân
nóng tuyến giáp.
Hạn chế: Nghiên cứu với số lượng bệnh nhân nhỏ
và thời gian nghiên cứu chưa dài. Cần có các nghiên
cứu theo dõi một số lượng lớn bệnh nhân và thời gian
dài hơn. Nghiên cứu cần được so sánh với các phương
pháp điều trị khác như phẫu thuật và liệu pháp phóng
xạ để khẳng định vai trò của đốt sóng cao tần trong điều
trị nhân độc – nhân nóng tuyến giáp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gharib, H., et al., american association of clinical endocrinologists, american college of endocrinology, and
associazione medici endocrinologi medical guidelines for clinical practice for the diagnosis and management
of thyroid nodules – 2016 update. Endocrine practice, 2016. 22(supplement 1): p. 1-60.
2. Baek, j.h., a guidebook on radiofrequency ablation for thyroid and neck tumors. 2017.
3. Kim, j.-h., et al., 2017 thyroid radiofrequency ablation guideline: korean society of thyroid radiology. Korean
journal of radiology, 2018. 19(4): p. 632-655.
4. Sung, j.y., et al., radiofrequency ablation for autonomously functioning thyroid nodules: a multicenter study.
Thyroid, 2015. 25(1): p. 112-7.
5. Baek, j.h., et al., radiofrequency ablation for the treatment of autonomously functioning thyroid nodules. World
j surg, 2009. 33(9): p. 1971-7.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201948
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
6. Belfiore, a., et al., solitary autonomously functioning thyroid nodules and iodine deficiency*. The journal of
clinical endocrinology & metabolism, 1983. 56(2): p. 283-287.
7. Park, h.s., et al., thyroid radiofrequency ablation: updates on innovative devices and techniques. Korean j
radiol, 2017. 18(4): p. 615-623.
8. Na, d.g., et al., radiofrequency ablation of benign thyroid nodules and recurrent thyroid cancers: consensus
statement and recommendations. Korean j radiol, 2012. 13(2): p. 117-25.
TÓM TẮT
Mục đích: một số bệnh nhân có nhân độc tuyến giáp không phù hợp với phương pháp điều trị bằng phẫu thuật hoặc liệu
pháp phóng xạ. Vì vậy phương pháp điều trị can thiệp tối thiểu như phá huỷ bằng cồn tuyệt đối hoặc đốt sóng cao tần là cần thiết.
Phương pháp: nghiên cứu này có 17 bệnh nhân (7 BN có nhiễm độc giáp và 10 BN tiền nhiễm độc giáp), tỷ lệ nam: nữ
= 1:7.5: tuổi trung bình 46.47 ± 13 (28-66) . Tất cả bệnh nhân đều có hình ảnh nhân nóng trên xạ hình tuyến giáp bằng 99mTc.
RFA được tiến hành và sử dụng kim 18G với hệ thống làm mát trong kim. Các chỉ số về thể tích nhân tuyến giáp, chức năng
tuyến giáp, xạ hình, điểm triệu chứng, xếp loại điểm thẩm mỹ và biến chứng được đánh giá trước điều trị và theo dõi sau điều
trị ở thời điểm sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng.
Kết quả: thể tích trung bình của nhân tuyến giáp 13.07 ± 8.44 (2.2 – 35.5 ml). Mức độ giảm thể tích trung bình sau điều
trị 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng lần lượt là 42.77 % , 63. % và 78.3 % . Các chỉ số xét nghiệm hormone T3, FT4, TSH ở thời điểm
ban đầu trước điều trị 2.59 ± 1.19 nmol/L, 16.3 ± 5.78 pmol/L, and 0.101 ± 0.178 mU/mL và có sự cải thiện đáng kể sau điều
trị RFA 1 tháng (T3: 2.18 ± 0.753 nmol/L, p = 0.001; FT4: 14.78 ± 2.86 pmol/L, p = 0.001; TSH: 1.464 ± 0.844 mU/mL, p =
0.001), sau 06 tháng (T3: 2.07 ± 0.614 nmol/L, p = 0.012; FT4: 15.12± 2.0 pmol/L, p = 0.001; TSH: 1.269 ± 0.398 mU/mL, (p
<0.001). Xạ hình tuyến giáp sau điều trị, có 16 bệnh nhân tiến triển từ nhân nóng thành nhân lạnh tuyến giáp và 1 bệnh nhân
bắt xạ như nhu mô giáp lành. Sau 6 tháng điều trị, điểm triệu chứng giảm từ 3.47 ± 1.9 xuống 0.12± 3.32 (p = 0.001) và điểm
thẩm mỹ giảm từ 3.59 ± 1.1 tới 1.41± 0.712 (p <0.001). Không gặp biến chứng nặng nào.
Kết luận: RFA cho thấy tính hiệu quả và an toàn trong điều trị cho nhân độc tự trị tuyến giáp và có thể khuyến cáo là
phương pháp điều trị trước tiên cho nhân nóng tuyến giáp.
Từ khoá: đốt sóng cao tần, nhân nóng tuyến giáp, nhân độc tuyến giáp
Người liên hệ: Lê Thị My, Email: phuthuy87@gmail.com
Ngày nhận bài: 23.7.2019. Ngày chấp nhận đăng: 15.8.2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_buoc_dau_dieu_tri_nhan_nong_tuyen_giap_bang_phuong.pdf