* Nhận xét các yếu tố có khả năng gây ảnh hưởng
bất lợi điều trị: chúng tôi phân tích các yếu tố ước
đoán có nhiều khả năng làm giảm hiệu quả của
điều trị như yếu tố lớn tuổi (> 65 tuổi), phổ biến
với hai lý do: (1) FEV1 căn bản sụt giảm nhiều
theo thời gian, thời gian mắc bệnh đã có một quá
trình dài (2) yếu tố hút thuốc lá, có chỉ số tổng số
gói -năm > 20, và mới vừa cai thuốc lá dưới 12
tháng. Giá trị hồi phục FEV1 đối với các mối
nguy cơ này không có sự khác biệt có ý nghĩa. Vì
vậy, tuổi tác, hút thuốc lá và các vấn đề liên quan
đến thuốc lá rất ít có ảnh hưởng đến tác động
điều trị của corticoid/thuốc giãn phế quản kéo
dài dạng bơm hít.
* Anh hưởng của giai đoạn FEV1 dưới 50%
GTTĐ: đáp ứng hồi phục FEV1 cải thiện được
+11% vào thời điểm kết thúc đánh giá đối với
nhóm có FEV1 căn bản ban đầu < 50%, so với sự
cải thiện +4,6% ở nhóm bệnh nhân có tỉ lệ FEV1
ban đầu ≥ 50% GTTĐ, nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa (p>0,05). Khảo sát thêm sự
thay đổi thể tích FEV1, giá trị thể tích trung bình
FEV1 giữa hai nhóm với FEV1 căn bản dưới và
trên 50% GTTĐ cho kết quả là 109 ml so với 40
ml, và khác biệt này cũng không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Mặt khác, không có sự khác
biệt về các thông số khó thở, khả năng cải thiện
gắng sức giữa hai nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên,
chúng tôi nhận thấy khi điều trị S/F dạng hít
định liều có một tác dụng nhất định cải thiện
chức năng hô hấp, triệu chứng khó thở, khả
năng gắng sức, giảm số cơn kịch phát không chỉ
cho nhóm bệnh có FEV1 ban đầu < 50% GTTĐ,
mà còn hữu ích cho cả nhóm bệnh nhẹ hơn với
FEV1 ban đầu ≥ 50% với những sự cải thiện có
giá trị tương tự. Nhận xét này khác với khuyến
cáo của TCYTTG, chỉ sử dụng corticoid cho
những bệnh nhân nặng với FEV1< 50% GTTĐ(5).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 140 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả cải thiện chức năng hô hấp sau bơm hít Salmeterol/ Fluticasone trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1
HIỆU QUẢ CẢI THIỆN CHỨC NĂNG HÔ HẤP
SAU BƠM HÍT SALMETEROL/ FLUTICASONE
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Trương Văn Vĩnh**, Quang Văn Trí*, Ngô Thanh Bình*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định hiệu quả cải thiện chức năng hô hấp sau điều trị phối hợp Salmeterol/Fluticasone (S/F)
dạng hít định liều đối với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) ở giai đoạn ổn định.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng, có đối chứng. Tất cả bệnh nhân được chẩn
đoán BPTNMT ở giai đoạn ổn định tại phòng khám ngoại trú của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian
từ 08/2004 đến 03/2005, được phân thành hai nhóm: (1) nhóm điều trị dùng S/F dạng hít định liều và (2) nhóm
chứng dùng ventolin.
Kết quả: Có 41 trường hợp được đưa vào nghiên cứu (21 trường hợp thuộc nhóm điều trị S/F và 20 thuộc
nhóm điều trị ventolin). Sau 12 tuần điều trị, số trường hợp thuộc nhóm điều trị S/F làm tăng thể tích FEV1
nhiều hơn so với nhóm ventolin (76% so với 30% trường hợp). Thể tích trung bình FEV1 tăng +92 ± 160ml ở
nhóm S/F so với giá trị thể tích trung bình FEV1 giảm -55±150ml ở nhóm ventolin. Sự khác biệt này là có ý nghĩa
thống kê (p<0,005). Mặt khác, đối với các trường hợp BPTNMT giai đoạn II, có sự thay đổi giá trị FEV1 sau khi
hít S/F so với ban đầu là +5,5±12,6% và so với nhóm ventolin là -17,2±16,7% và sự khác biệt giữa hai nhóm là có
ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Kết luận: S/F cải thiện được chỉ số chức năng hô hấp trong vòng 3 tháng điều trị. Ngoài ra, S/F có thể được
lựa chọn điều trị duy trì dài hạn, nhất là đối với BPTNMT giai đoạn II.
ABSTRACT
EFFECT OF IMPROVEMENT OF LUNG FUNCTIONS
AFTER INHALING SALMETEROL/FLUTICASONE IN THE TREATMENT OF COPD
Truong Van Vinh, Quang Van Tri, Ngo Thanh Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 178 - 183
Objectives: To determine effect of improvement of lung function indexes after inhaling
Salmeterol/Fluticasone (S/F) in the treatment of Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) in the stable
phase.
Methods: The clinical experimental study. We used a randomized, placebo-controlled design. All COPD
patients in the stable phase at the outpatient ward of Pham Ngoc Thach hospital from 08/2004 to 03/2005 were
were randomly individed into two groups: (1) salmeterol/fluticasone group and (2) ventolin group (controlled
group).
Results: There were 41 cases in our study (included 21 cases of S/F group and 20 cases of vetolin group).
After treating in 12 weeks, FEV1 had increased in the S/F group more than in the ventolin group (76% versus
30%). The mean volume of FEV1 had increased +92±160 ml in the S/F group but had decreased -55±150 ml in the
ventolin group. This difference was statitically significant between two groups (p<0.005). On the other hand,
patients with COPD in the phase II of the S/F group had changed FEV1 value after inhaling S/F compared with
* Bộ môn Lao và Bệnh phổi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2
before inhaling (+5.5±12.6%) and in the ventolin group was -17.2±16.7%. This difference was statitically
significant between two groups (p<0.05).
Conclussion: Inhaling salmeterol/fluticasone had improved lung function indexes in 3 month treatment.
Besides, S/F can be used in treating in stable phase of COPD, especial in the phase II.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT)
hiện nay là một vấn đề sức khỏe, một trong
những nguyên nhân hàng đầu về tỉ lệ mắc bệnh
và tử vong, đã gây ra gánh nặng cho nền kinh tế
và xã hội trên toàn thế giới(5,7). Do tỉ lệ mắc bệnh
của BPTNMT ngày càng tăng, đã làm tăng chi
phí trực tiếp cho vấn đề chăm sóc sức khỏe y tế
cũng như làm giảm năng suất lao động do mất
ngày công lao động, giảm sản xuất, giảm sản
phẩm cho nền kinh tế xã hội của một quốc gia(5),
đặc biệt xảy ra ở các nước đang phát triển, trong
đó có Việt nam. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
xác định hiệu quả cải thiện chỉ số chức năng hô
hấp sau bơm hít S/F định liều đối với các trường
hợp BPTNMT ở giai đoạn bệnh ổn định. Từ đó,
đặt ra kế hoạch điều trị lâu dài đối với bệnh này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng, có đối
chứng.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán BPTNMT
ở giai đoạn ổn định tại phòng khám ngoại trú
của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian
từ 08/2004 đến 03/2005, được phân thành hai
nhóm một cách ngẫu nhiên qua bốc thăm (chẵn
và lẽ):
Nhóm điều trị dùng S/F 25/250µg dạng hít
định liều với liều mỗi lần hít là 50µg/500µg x 2
lần/ngày.
Nhóm chứng dùng ventolin100µg, sử dụng
bằng bơm hít, liều 200µg khi cần (BPTNMT giai
đoạn 1) hay liều 200µg x 3 lần/ngày (BPTNMT
giai đoạn II, III và IV).
Bệnh nhân được xác định BPTNMT và phân
giai đoạn bệnh theo khuyến cáo của GOLD:
FEV1/FVC < 70% giá trị tiên đoán (GTTĐ) và
FEV1 < 80% sau khi thực hiện nghiệm pháp giãn
phế quản. Trường hợp FEV1 ≥ 80% cũng là một
chỉ điểm sớm của tắc nghẽn phế quản khi vẫn có
sự hiện diện của FEV1/FVC < 70% GTTĐ.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
FEV1/FVC <70% sau khi hít thuốc giãn phế
quản salbutamol 400µg;
Không có những triệu chứng cấp trong vòng
một tháng trước khi nghiên cứu.
Không có biểu hiện suy tim, tâm phế mạn.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý tham gia hoặc
không hợp tác trong khi nghiên cứu
Đợt kịch phát của BPTNMT và điều trị chưa
ổn định
AFB (+) ở một trong 6 mẫu đàm hoặc có tổn
thương lao tiến triển trên X-quang phổi
BPTNMT kèm theo hen phế quản
Bệnh có diễn tiến xấu, đòi hỏi thay đổi chế
độ điều trị khác.
Không dung nạp được với các thuốc trong
nghiên cứu
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Mỗi đối tượng đều được lượng giá chỉ số
chức năng hô hấp (đặc biệt là FEV1), lúc bắt đầu
và kết thúc thử nghiệm. Đáp ứng/không đáp
ứng hồi phục phế quản được đánh giá khách
quan trên cơ sở FEV1 sau 12 tuần điều trị (trong
nghiên cứu chấp nhận sự gia tăng từ trên 12%
của FEV1 vào tuần thứ 12 so với giá trị FEV1 ban
đầu được gọi là có đáp ứng hồi phục phế quản).
Xử lý phân tích dữ liệu và tính toán thống
kê
Bằng MS EXCEL và phần mềm Epi-Info
phiên bản 6.04. Phân tích các dữ kiện nghiên cứu
theo phép thống kê mô tả và thống kê phân tích.
Sự so sánh được thực hiện với 2 phép kiểm T và
phép kiểm χ2 ở mức ý nghĩa p<0,05.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thới gian nghiên cứu, có 41 trường
hợp được thu dung. Trong đó,
Nhóm S/F: 21 trường hợp thuộc nhóm điều
trị S/F
Nhóm ventolin: 20 trường hợp thuộc nhóm
chứng dùng ventolin.
Đặc điểm bệnh nhân
Bảng 1: Các đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm Phân bố Nhóm S/F (n1=21)
Nhóm ventolin
(n2=20)
Giới tính Nam 19 (90,5) 20 (100)
n (%) Nữ 2 (9,5) 0 (0)
Tuổi < 45 2 (9,5) 0 (0)
n (%) 45 – 54 8 (38,1) 5 (25)
55 – 64 0 (0) 6 (30)
65 – 74 9 (42,9) 5 (25)
≥ 75 2 (9,5) 4 (20)
Tuổi trung
bình 60,5±13 63,1±9,5
Chiều cao
(cm) Tối đa 172 173
Tối thiểu 150 149
Trung
bình 160,4±5,5 160,9±6,8
Cân nặng
(kg) Tối đa 65 70
Tối thiểu 36 38
Trung
bình 48,7±8,0 48,6±9,4
BMI (kg/m2) Tối đa 26,2 28,0
Tối thiểu 15,0 13,3
Trung
bình 18,9±3,4 18,7±3,3
Biểu hiện triệu chứng và xếp loại mức độ
nặng
Có 37/41 trường hợp ho (90,2%), 31/41
trường hợp khạc đàm (75,6%), 9/41 trường hợp
khò khè (22%) và 21/41 trường hợp (51,2%) có
ran tắc nghẽn. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
giữa hai nhóm điều trị về những biểu hiện lâm
sàng. Có 75,6% trường hợp BPTNMT được phân
loại vào mức độ nặng và rất nặng (giai đoạn III,
IV).
Bảng 2: Phân loại mức độ nặng của BPTNMT
Phân loại N=41 Nhóm S/F (n1=21)
Nhóm ventolin
(n2=20) p(χ
2)
Giai đoạn I 1 (2,4%) 1 (4,7%) 0 (0%) 0,76
Giai đoạn II 9 (22%) 4 (19%) 5 (25%)
Giai đoạn III 21 (51,2%) 11 (52,5%) 10 (50%)
Giai đoạn IV 10 (24,4%) 5 (23,8%) 5 (25%)
Đặc điểm các chỉ số lưu lượng thể tích ban
đầu
Chỉ số trung bình của FEV1 giảm nặng
(41,3% GTTĐ), FVC giảm nhẹ hơn (61,1%
GTTĐ).
Bảng 3: Đặc điểm các chỉ số lưu lượng thể tích ban
đầu
N=41 Nhóm S/F (n1=21)
Nhóm
ventolin
(n2=20)
p(χ2)
FEV1/FVC trung
bình 53 ±10,6 51,3 ± 9,6 54,7 ± 11,6 0,31
FEV1 trung bình
- Thể tích (lít) 1,08 ±0,5 1,15 ± 0,54 0,99 ± 0,44 0,32
- Phần trăm
GTTĐ
41,3
±16,8
44,1 ±
18,5 38,5 ± 14,9 0,29
FVC trung bình
- Thể tích (lít) 2,01 ±0,7 2,2 ± 0,7 1,81 ± 0,6 0,07
- Phần trăm
GTTĐ
61,1
±17,6
66,8 ±
17,5 55,1 ± 16 0,03
MMEF trung bình
- Thể tích (lít) 0,57 ±0,3 0,61 ± 0,35 0,54 ± 0,33 0,56
- Phần trăm
GTTĐ 18,1 ±9,8 18,7 ± 10 17,5 ± 9,9 0,69
So sánh sự thay đổi những chỉ số chức
năng hô hấp giữa trị liệu S/F và Ventolin
Bảng 4: So sánh sự biến thiên về các giá trị trung
bình của FEV1, FVC, MMEF giữa 2 nhóm S/F và
ventolin vào tuần lễ thứ 12.
Nhóm S/F
(n1=21)
Nhóm
ventolin
(n2=20)
p(χ2)
FEV1 Thể tích (lít) 0,092 ± 0,16 -0,055 ± 0,15 0,003
(trung Phần trăm GTTĐ (%)
47,2 ±
18,7 35,8 ± 13,3 0,03
bình) %hồi phục so với ban đầu 9,5 ± 13,5 -4,9 ± 15,2 0,002
FVC Thể tích (lít) 2,11 ± 0,85 1,72 ± 0,68 0,11
Phần trăm GTTĐ
(%)
64,5 ±
19,4 48,8 ± 16,6 0,008
MMEF Thể tích (lít) 0,73 ± 0,4 0,51 ± 0,35 0,07
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4
Nhóm S/F
(n1=21)
Nhóm
ventolin
(n2=20)
p(χ2)
Phần trăm GTTĐ
(%)
22,8 ±
11,8 16,7 ± 10,7 0,09
Giá trị thể tích FEV1 thay đổi xét theo sự gia
tăng sau 12 tuần điều trị, đối với nhóm điều trị
S/F có 76% trường hợp tăng thể tích FEV1 so với
nhóm ventolin chỉ có 30% trường hợp. Thể tích
trung bình FEV1 tăng +92±160ml ở nhóm S/F so
với giá trị thể tích trung bình FEV1 giảm -
55±150ml ở nhóm ventolin (p<0,005). Toàn bộ
hai nhóm sau 12 tuần có 13 trường hợp tăng
FEV1 từ trên 10% giá trị căn bản và có 10 trường
hợp tăng dưới 10% giá trị căn bản. Trong 18
trường hợp có giá trị FEV1 biến thiên giảm (gồm
4 trường hợp điều trị S/F và 14 trường hợp dùng
ventolin), có 6 trường hợp giảm xuống một
ngưỡng phân loại mức độ nặng (p<0,0001); cụ
thể có 4 trường hợp với FEV1 ≥ 50% GTTĐ, giảm
xuống <50% GTTĐ ở tuần thứ 12 và 2 trường
hợp với FEV1 ≥ 30% GTTĐ, giảm xuống <30%
GTTĐ ở tuần thứ 12. Tuy nhiên, sự giảm này
không có khác biệt giữa 1 trường hợp điều trị S/F
so với 5 trường hợp dùng ventolin (p=0,33).
Phân tích theo từng giai đoạn của BPTNMT,
kết quả nghiên cứu cho thấy: ở giai đoạn II,
chênh lệch FEV1 so với ban đầu của nhóm S/F là
+5,5±12,6% so với nhóm ventolin là -17,2 ± 16,7%
(p<0,05). Giai đoạn III, không có sự khác biệt về
phần trăm FEV1 thay đổi giữa hai nhóm. Giai
đoạn IV, cũng không có sự khác biệt về biến
thiên FEV1 giữa hai nhóm.
Ngoài ra, trong nghiên cứu này, chúng tôi
cũng khảo sát các yếu tố liên quan đến việc đáp
ứng điều trị như các yếu tố tuổi tác, hút thuốc lá,
tỉ lệ sụt giảm trầm trọng của FEV1 ban đầu. Số
liệu đã thể hiện cho thấy sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,1).
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân
Đa số trường hợp BPTNMT trong nghiên
cứu trên 45 tuổi. Tuổi trung bình được phân bố
trong hai nhóm điều trị không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê, tuổi trung bình đối với nhóm
điều trị S/F = 60,5 ± 13; nhóm điều trị ventolin =
63,1 ± 9,5 (bảng 1). Chúng tôi nhận thấy các
trường hợp trên 60 tuổi mắc bệnh đến cơ sở y tế
có những trở ngại nhất định trong quá trình điều
trị lâu dài như cơ hội phát hiện bệnh lần đầu
thường khi bệnh đã vào giai đoạn trễ (giai đoạn
III hoặc giai đoạn IV), kiến thức về vấn đề tự
chăm sóc tại nhà, sự tuân thủ chế độ điều trị, kỹ
thuật sử dụng phương tiện đưa thuốc vào cơ
thể, bệnh kèm theo phải sử dụng nhiều thuốc,
nhiều tác dụng phụ, nhiều tương tác thuốc chủ
yếu do các thuốc điều trị bệnh kèm theo này.
Ngoài ra, không có sự khác biệt về cân nặng,
chiều cao và BMI giữa hai nhóm S/F và nhóm
ventolin trong nghiên cứu của chúng tôi.
So sánh sự cải thiện FEV1 giữa trị liệu S/F
và Ventolin
Sau 12 tuần điều trị, có 16/21 trường hợp
(76,2%) nhóm S/F tăng được giá trị thể tích FEV1
so với giá trị ban đầu. Thể tích FEV1 trung bình
đối với nhóm này tăng được +92 ± 160ml. Ít hơn,
chỉ 6/20 trường hợp (30%) trong nhóm ventolin
tăng giá trị FEV1. Và thể tích FEV1 trung bình ở
nhóm điều trị này giảm đi -55 ± 150ml, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Theo
nghiên cứu của Mahler(4), với nhóm bệnh nhân
sử dụng S/F bơm hít có liều lượng tương tự như
chúng tôi áp dụng, đã cho kết quả thể tích trung
bình của FEV1 biến thiên +156ml tại thời điểm
kết thúc quan sát; nhóm giả dược trong nghiên
cứu này có FEV1 biến thiên -4ml. Giá trị tăng,
giảm của FEV1 trong nghiên cứu này cao hơn kết
quả của chúng tôi, nhưng giá trị FEV1 trong
nghiên cứu của chúng tôi có trị số trung bình là
44,3±16,8 %GTTĐ, thấp hơn giá trị trong nghiên
cứu của Mahler chọn đối tượng có FEV1 > 65%
GTTĐ. Nhận định đáp ứng hồi phục phế quản
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5
sau 12 tuần điều trị, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ
bệnh nhân đáp ứng theo các ngưỡng hồi phục
10%, 12% của FEV1 so với giá trị ban đầu như
sau: đối với ngưỡng hồi phục từ trên 12%, tỉ lệ
bệnh nhân đáp ứng có 42,9% trường hợp (9/21) ở
nhóm S/F nhiều hơn nhóm điều trị ventolin chỉ
15% trường hợp (3/20), nhưng khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê (p=0,05). Tuy nhiên,
đối với ngưỡng hồi phục từ trên 10%, tỉ lệ bệnh
nhân đáp ứng có 47,6% trường hợp (10/21) ở
nhóm S/F nhiều hơn nhóm điều trị ventolin chỉ
15% trường hợp (3/20), và khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Theo nghiên cứu của
Calverley(2) (2003) đã trình bày kết quả về mức tỉ
lệ hồi phục FEV1 so với trị số cơ bản ban đầu là
+10% ở nhóm sử dụng S/F sau 52 tuần theo dõi
điều trị. Một nghiên cứu khác, Dal Negro(3) nhận
được một kết quả hồi phục FEV1 là +6,6%.
Những nghiên cứu này đã theo dõi trong một
thời khoảng dài hơn và số liệu thống kê FEV1
tính vào thời điểm kết thúc. Riêng kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng có một ý nghĩa
nhất định, vì một đáp ứng hồi phục sớm trong
quá trình theo dõi là cơ sở tiên lượng đáp ứng
điều trị phối hợp corticoid/thuốc giãn phế quản
kéo dài dạng hít định liều.
Nếu theo tiêu chuẩn định nghĩa sự hồi phục
phế quản sau điều trị của Hiệp hội lồng ngực
Hoa Kỳ (ATS) và TCYTTG với ngưỡng hồi phục
FEV1≥12% so với FEV1 căn bản, thì trong nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy sự thay đổi tỉ lệ hồi
phục phế quản sau điều trị là không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Tuy nhiên, khi phân tích
ngưỡng hồi phục FEV1≥10% so với FEV1 căn bản,
thì sự phục hồi phế quản sau điều trị ở nhóm
điều trị S/F nhiều hơn nhóm dùng ventolin một
cách có ý nghĩa thống kê (47,6% so với 15%
trường hợp) (p<0,05). Ngoài ra, chúng tôi cũng
ghi nhận chỉ có 4/21 trường hợp (19%) ở nhóm
S/F có tỉ lệ phục hồi FEV1 giảm so với FEV1 căn
bản. Số trường hợp còn lại, thậm chí sự biến
thiên mức hồi phục FEV1 dưới 8% so với FEV1
căn bản nhưng có một đáp ứng cải thiện rõ về
các triệu chứng khó thở, khả năng gắng sức. Do
vậy, tiêu chuẩn hồi phục FEV1 không thể đại
diện đánh giá triệu chứng tắc nghẽn trên lâm
sàng cũng như dự báo tiên lượng sự đáp ứng
điều trị(6), hoặc không nên dùng chỉ số FEV1 độc
lập để chọn lựa điều.
Cùng với một số nghiên cứu khác(2)(3)(4)(7),
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy điều trị phối
hợp salmeterol/fluticasone dạng hít định liều cho
đáp ứng hiệu quả hơn so với điều trị đơn thuần
bởi salmeterol hoặc fluticasone, cũng có thể gây
ra một tác dụng đáp ứng hồi phục phế quản,
nhưng chỉ biến thiên một lượng nhỏ hơn. Một
cách khác cho sự chọn lựa phương thức kết hợp
formoterol/budesonide dạng bơm hít định liều
cũng cho những kết quả và những nhận định về
hiệu quả hiệp đồng tương tự (8).
Hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là
không đánh giá được sự sụt giảm FEV1 hằng
năm so sánh giữa các nhóm điều trị. Tuy nhiên,
theo nhiều tài liệu trong y văn(9)(10), mặc dù có sự
cải thiện đáp ứng giãn phế quản nhưng điều trị
phối hợp corticoid/thuốc giãn phế quản kéo dài
hoặc điều trị riêng lẽ từng hoạt chất corticoid,
thuốc giãn phế quản kéo dài đơn độc cũng
không ngăn chặn được sự sụt giảm bất thường
của FEV1 hằng năm trên người BPTNMT.
* Nhận xét các yếu tố có khả năng gây ảnh hưởng
bất lợi điều trị: chúng tôi phân tích các yếu tố ước
đoán có nhiều khả năng làm giảm hiệu quả của
điều trị như yếu tố lớn tuổi (> 65 tuổi), phổ biến
với hai lý do: (1) FEV1 căn bản sụt giảm nhiều
theo thời gian, thời gian mắc bệnh đã có một quá
trình dài (2) yếu tố hút thuốc lá, có chỉ số tổng số
gói -năm > 20, và mới vừa cai thuốc lá dưới 12
tháng. Giá trị hồi phục FEV1 đối với các mối
nguy cơ này không có sự khác biệt có ý nghĩa. Vì
vậy, tuổi tác, hút thuốc lá và các vấn đề liên quan
đến thuốc lá rất ít có ảnh hưởng đến tác động
điều trị của corticoid/thuốc giãn phế quản kéo
dài dạng bơm hít.
* Anh hưởng của giai đoạn FEV1 dưới 50%
GTTĐ: đáp ứng hồi phục FEV1 cải thiện được
+11% vào thời điểm kết thúc đánh giá đối với
nhóm có FEV1 căn bản ban đầu < 50%, so với sự
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6
cải thiện +4,6% ở nhóm bệnh nhân có tỉ lệ FEV1
ban đầu ≥ 50% GTTĐ, nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa (p>0,05). Khảo sát thêm sự
thay đổi thể tích FEV1, giá trị thể tích trung bình
FEV1 giữa hai nhóm với FEV1 căn bản dưới và
trên 50% GTTĐ cho kết quả là 109 ml so với 40
ml, và khác biệt này cũng không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Mặt khác, không có sự khác
biệt về các thông số khó thở, khả năng cải thiện
gắng sức giữa hai nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên,
chúng tôi nhận thấy khi điều trị S/F dạng hít
định liều có một tác dụng nhất định cải thiện
chức năng hô hấp, triệu chứng khó thở, khả
năng gắng sức, giảm số cơn kịch phát không chỉ
cho nhóm bệnh có FEV1 ban đầu < 50% GTTĐ,
mà còn hữu ích cho cả nhóm bệnh nhẹ hơn với
FEV1 ban đầu ≥ 50% với những sự cải thiện có
giá trị tương tự. Nhận xét này khác với khuyến
cáo của TCYTTG, chỉ sử dụng corticoid cho
những bệnh nhân nặng với FEV1 < 50% GTTĐ(5).
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có 47,6% trường hợp nhóm S/F bơm hít tăng
FEV1 ≥ 10% giá trị căn bản so với 15% ở nhóm
ventolin (p<0,05). Thể tích FEV1 trung bình biến
thiên +92±160ml ở nhóm S/F so với -55±150ml ở
nhóm ventolin (p<0,005). Trong giai đoạn II của
BPTNMT, FEV1 hồi phục +5,5±12,6% giá trị căn
bản ở nhóm S/F so với -17,2±16,7% ở nhóm
ventolin (p<0,05). S/F cải thiện được chỉ số hô
hấp trong vòng 3 tháng điều trị. Tuy chưa nhận
định được hiệu quả kìm hãm sự sụt giảm FEV1
hằng năm, nhưng đây là cơ sở lựa chọn điều trị
duy trì dài hạn. Có thể đưa chế độ
cocticoid/GPQBD bơm hít điều trị hằng ngày
ngay từ mức độ nhẹ (giai đoạn II) của bệnh với
một hiệu quả hữu ích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burge P.S., Calverley P.M., Jone P.W., Spencer S., Anderson
J.A., Maslen T.K. (2000), “Randomised, double blind, placebo
controlled study of fluticasone propionate in patients with
moderate to severe chronic obstructive pulmonary disease:
the ISOLDE trial”, BMJ No320, pp.1297-1303.
2. Calverley P., Pauwels R., Vestbo J., Jones P., Pride N., Gulsvik
A., et al. (2003), “Combine salmeterol and fluticasone in the
treatment of chronic obstructive pulmonary disease: a
randomised controlled trial”, Lancet, vol.361, pp.449-456.
3. Dal Negro R.W., Pomari C., Tognella S., et al. (2003),
“Salmeterol and fluticasone 50µg/250µg bid in combination
provides a better long-term control than salmeterol 50µg bid
alone and placebo in COPD patients already treated with
theophylline”, Pulm Pharmacol Ther 16, pp.241-246.
4. Mahler D.A., Wire P., Horst D., Chang C.N., Yates J., Fischer
T. et al. (2002), “Effectiveness of fluticasone propionate and
salmeterol combination delivered via the diskus device in the
treatment of chronic obstructive pulmonary disease”, Am J
Respir Crit Care Med, vol.166, number 8, pp.1084-1091.
5. NHLBI/WHO workshop (2003), “Global strategy for the
diagnosis, management, and prevention of chronic
obstructive lung disease-updated 2003”, Global initiative for
chronic obstructivelung disease.
6. Niewoehmer D.E. (2002), “Impact of drug in COPD on
outcome measures other than exacerbations”, Eur Respir Rev,
vol.12, pp.11-12.
7. Stoloff S.W., Stempel D.A., Meyer J., Stanford R.H., Carranza-
Rosenzweis J.R. (2004), “Improve refill persistance with
fluticasone propionate and salmeterol in a single Inhaler
compare with other controlled therapies”, J Allergy Clin
Immunol (In press).
8. Szafranski W., Cukier A., Raminez A., Menga G., Sansoses R.,
Nahabedian S., Peterson S., Olsson H. (2003), “Efficacy and
safety of Budesonide/Formoterol in the management of
chronic obstructive pulmonary disease”, Eur Respir J, number
21, pp.74-81.
9. The Lung Health Study Research Group (2000), “Effect of
inhaled triamcinolone on the decline in pulmonary function
in chronic obstructive pulmonary disease: Lung Health Study
II”, N Engl J Med, vol.343, pp.1902-1909.
10. Vestbo J., Sorensen T., Lange P., Brix A., Torre P., Viskum K.
(1999), “Long-term effect of inhaled budesonide in mild and
moderate chronic obstructive pulmonary disease: a
randomised controlled trial”, Lancet, vol.363, pp.1819-1823.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cai_thien_chuc_nang_ho_hap_sau_bom_hit_salmeterol_f.pdf