KẾT LUẬN
4.1. Kết luận
- Một cá thể trưởng thành bọ đuôi kìm màu đen
Euborellia annulipes có thể ăn trung bình 11,05 sâu
non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trên một ngày.
- Biến động mật độ bọ đuôi kìm đen Euborellia
annulipes trên đồng ruộng tăng ở tháng 1 - 3, sau đó
có chiều hướng giảm dần cho đến tháng 7, 8 và tăng
dần ở các tháng 11, 12 lúc mía trước thu hoạch. Mật
độ bọ đuôi kìm ở ruộng mía gốc không đốt lá cao
hơn rõ rệt so với mía tơ và mía gốc có đốt lá.
- Việc thả bọ đuôi kìm ăn thịt Euborellia annulipes
trên ruộng mía với mật độ 3.000 con/ha, thả 1 lần duy
nhất vào thời điểm tháng 5 làm giảm 3,06 - 3,26% về
cây bị hại; lóng bị hại giảm từ 1,57 - 2,52% và chỉ
số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với đối chứng không
thả bổ sung. Năng suất quy 10 CCS tăng 8,51 tấn/ha
vượt tương ứng 8,41% so với công thức không thả bổ
sung bọ đuôi kìm.
4.2. Đề nghị
Cần khuyến cáo sử dụng các tác nhân sinh học
hiệu quả như sử dụng bọ đuôi kìm trong phòng
chống sâu đục thân mía.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của bọ đuôi kìm phòng chống sâu đục thân bốn vạch đầu nâu hại mía, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
115
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
HIỆU QUẢ CỦA BỌ ĐUÔI KÌM PHÒNG CHỐNG SÂU ĐỤC THÂN
BỐN VẠCH ĐẦU NÂU HẠI MÍA
Đỗ Đức Hạnh1, Dương Công Thống1, Mai Văn Quân2, Trịnh Xuân Hoạt2,
Nguyễn Văn Liêm2, Đỗ Văn Tường1, Nguyễn Thị Tân1, Trần Văn Sơn1
TÓM TẮT
Nghiên cứu hiệu quả của bọ đuôi kìm (Euborellia annulipes Lucas) phòng chống sâu 4 vạch đầu nâu
(Chilo tumidicostalis Hamsonp) tại Viện Nghiên cứu Mía đường và vùng mía nguyên liệu huyện Châu Thành, tỉnh
Tây Ninh từ tháng 1 đến tháng 12/2017. Kết quả cho thấy, trung bình mỗi ngày 1 bọ đuôi kìm trưởng thành có thể ăn
11,05 sâu non tuổi 1 của loài sâu đục thân 4 vạch đầu nâu. Mật độ bọ đuôi kìm trên ruộng mía tại Tây Ninh biến động
từ 3,6 - 18,9 con/100 m2, đạt mức bình quân 10,6 con/100 m2. Mật độ bọ đuôi kìm tăng từ tháng 1 đến tháng 3, sau
đó giảm dần và giảm mạnh ở tháng 7, 8, sau đó tăng ở tháng 11, 12. Lô ruộng mía gốc không đốt lá sau thu hoạch có
mật độ đuôi kìm cao hơn hẳn so với ruộng mía tơ và mía gốc đốt lá sau thu hoạch (19,5 so với 5,3 và 6,9 con/100 m2
tương ứng). Công thức thả bọ đuôi kìm làm giảm từ 0,17 - 0,32% chỉ số hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu gây ra
và đồng thời làm tăng năng suất quy 10 CCS tương ứng 8,41% so với công thức đối chứng.
Từ khóa: Cây mía, bọ đuôi kìm, sâu đục thân 4 vạch đầu nâu
1 Viện Nghiên cứu Mía đường; 2 Viện Bảo vệ thực vật
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sâu đục thân 4 vạch đầu nâu có tên khoa học
là Chilo tumidicostalis Hamsonp, thuộc họ ngài
sáng (Pyralidae), thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera).
Loài sâu này gây hại khá phổ biến ở các nước
Bangladesh, Myanmar, Ấn Độ, Nepal, Thailand,
Australia (Bleszynski, 1970; Miah et al., 1983; David
& Aswaramoorthy, 1990; Suasa-ard, 2000). Tại Việt
Nam, sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu là loài
mới lần đầu tiên được phát hiện tại vùng trồng
mía ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh năm 2014
(với 6,300 ha bị gây hại, trong đó có khoảng 500 ha
bị gây hại nghiêm trọng từ 30 - 70%). Khi cây mía bị
hại, ngọn mía bị héo và chết khô rất nhanh. Sâu có
khả năng phát sinh nhanh và gây hại tập thể ở hầu
hết các giai đoạn sinh trưởng của cây mía. Đặc biệt,
sâu gây hại nặng ở các vùng đất thịt nặng, có mưa
nhiều ẩm độ cao và giai đoạn dễ mẫn cảm nhất là
mía cuối vươn lóng và trước thu hoạch. Nếu không
kiểm soát được sự lan truyền của chúng thì có thể
gây nên thiệt hại lớn về năng suất và hàm lượng
đường trong cây mía. Hiện nay các biện pháp riêng
lẻ phòng chống sâu đục thân mía 4 vạch đầu nâu
đang gặp nhiều khó khăn, vì cây mía là cây lưu gốc
nhiều năm, bộ giống mía trên đồng khá phong phú,
địa hình trồng mía đa dạng, sinh khối cây mía lớn,
sâu ẩn nấp trong thân cây nên việc phòng chống
hiệu quả không cao. Do vậy, việc quản lý tổng hợp
IPM đối với sâu đục thân 4 vạch đầu nâu là hết sức
cần thiết để bảo vệ và sử dụng các loài thiên địch của
sâu hại, nhằm khống chế quần thể sâu hại phát triển
dưới ngưỡng gây hại kinh tế, bảo vệ cây trồng. Qua
nhiều năm, Viện Nghiên cứu Mía đường đã điều tra,
thu thập được 37 loài ký sinh, bắt mồi trên cây mía
ở vùng Đông Nam bộ. Ngoài những loài như ong
mắt đỏ màu vàng Trichogramma chilonis, ong đen
ký sinh trứng Telenomus beneficien, ong kén trắng
Cotesia flavipes thì loài bọ đuôi kìm Euborellia
annulipes là loài ăn thịt bắt gặp nhiều nhất, đây là
một trong những loài thiên địch quan trọng góp
phần kiểm soát tốt các loài sâu đục thân gây hại trên
ruộng mía (Đỗ Ngọc Diệp, 2002; Cao Anh Đương,
2004). Xuất phát từ thực tế trên, thí nghiệm “Đánh
giá hiệu quả của bọ đuôi kìm Euborellia annulipes
Lucas phòng chống sâu đục thân 4 vạch đầu nâu
Chilo tumidicostalis Hamsonp hại mía tại Tây Ninh”
được thực hiện.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống mía KK3 có nguồn gốc từ Thái Lan, đã
được công nhận giống cho sản xuất thử tại các vùng
Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và Tây
Nam bộ theo Quyết định số 135/QĐ-BNN-TT ngày
12/01/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, hiện đang
được trồng phổ biến tại vùng mía Đông Nam bộ.
- Sâu non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu Chilo
tumidicostalis, bọ đuôi kìm trưởng thành Euborellia
annulipes
- Hộp nhựa nuôi sâu, ống nghiệm, kính lúp tay,
chổi lông, dao, kéo.
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của bọ
đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm.
116
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
- Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên
đồng ruộng.
- Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của việc
thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas
ngoài đồng.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
a) Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của bọ
đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm
Bọ đuôi kìm được nuôi theo quy trình hiện hành
của Bộ môn Bảo vệ thực vật - Viện Nghiên cứu Mía
đường. Bọ đuôi kìm được thu thập từ đồng ruộng,
nuôi giữ trong các hộp nhựa, bổ sung thức ăn là sâu
đục thân hại mía, sâu gạo và thay thế nguồn sâu
đục thân bằng thức ăn cám mèo để sử dụng cho
thí nghiệm. Theo dõi khả năng ăn mồi của bọ đuôi
kìm được thực hiện đối với pha trưởng thành, sau
khi bỏ đói bọ trong 24 giờ trong điều kiện phòng
thí nghiệm. Thức ăn dùng cho bọ đuôi kìm trong
thí nghiệm này là ấu trùng tuổi 1 của sâu đục thân
mía 4 vạch đầu nâu. Thí nghiệm thực hiện với
30 cá thể bọ đuôi kìm trưởng thành, mỗi cá thể được
nuôi trong hộp nhựa (kích thước 21 ˟ 17 ˟ 8 cm).
Đảm bảo nguồn thức ăn cho bọ đuôi kìm luôn đầy
đủ. Theo dõi, ghi nhận kết quả thí nghiệm khả năng
ăn mồi hàng ngày của bọ đuôi kìm đen Euborellia
annulipes liên tục trong 5 ngày. Chỉ tiêu theo dõi là
khả năng ăn sâu đục thân 4 vạch đầu nâu của bọ
đuôi kìm/ngày.
b) Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên đồng
ruộng
Sự biến động của bọ đuôi kìm được điều tra định
kỳ mỗi tháng một lần trên cả ruộng mía tơ và mía
gốc Đông Xuân, mỗi vụ điều tra, ghi nhận trên 3
ruộng trồng giống mía KK3 với diện tích > 1,0 ha.
Trên mỗi ruộng, tiến hành điều tra theo phương
pháp 5 điểm chéo góc, không cố định điểm, tịnh tiến
không lặp lại, mỗi điểm điều tra 12 m2, bóc lá khô lá
già và vén lá dưới gốc để đếm thu bắt bọ đuôi kìm.
Chỉ tiêu theo dõi là mật độ bọ đuôi kìm con/100 m2
(Cao Anh Đương, 2004).
c) Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của việc
thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas
ngoài đồng
Thử nghiệm được bố trí diện rộng không lặp
lại, gồm 2 công thức (CT), mỗi công thức 0,5 ha.
CT1: Thả 3.000 con bọ đuôi kìm/ha, thả duy nhất
1 lần khi mía được 5 tháng tuổi; CT2 (đ/c): Không
thả bọ đuôi kìm.
- Phương pháp điều tra và đánh giá sâu đục
thân mía thực hiện theo quy định tại Quy chuẩn kỹ
thuật Quốc gia QCVN-01-38-2010/BNNPTNT về
phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng
(Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010). Tiến hành điều
tra 5 điểm trên 2 đường chéo góc/công thức, mỗi
điểm điều tra là 12 m2. Theo dõi các chỉ tiêu: Tỷ lệ
cây, lóng bị hại do sâu 4 vạch đầu nâu gây ra, ở các
thời điểm 4 và 6 tháng sau thả bọ đuôi kìm; năng
suất và chất lượng mía.
Mật độ bọ đuôi kìm (con/100 m2) = Tổng số bọ đuôi kìm (con)
Diện tích điều tra (m2) ˟
100
Tỷ lệ cây, lóng bị hại (%) = Tổng số cây, lóng bị sâu hại
Tổng số cây, lóng điều tra ˟
100
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được thu thập và xử lý trên phần mềm
Excel và phân tích thống kê T-TEST trên phần mềm
MSTATC.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 đến
tháng 12 năm 2017 tại Phòng Thí nghiệm côn
trùng - Viện Nghiên cứu Mía đường tại Bến Cát,
Bình Dương và vùng mía nguyên liệu huyện Châu
Thành, tỉnh Tây Ninh.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của
bọ đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm
Sau khi bị bỏ đói 1 ngày, loài bọ đuôi kìm đen ăn
từ 10 - 19 con sâu 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trong ngày
thứ 1 và ở mức bình quân trên 30 cá thể thí nghiệm là
16,10 con/ngày, những ngày sau đó mức độ ăn giảm
dần xuống và 5 ngày sau thí nghiệm bọ đuôi kìm đen
chỉ ăn ở mức trung bình 7,17 con/ngày. Như vậy, qua
số liệu cho thấy cứ một cá thể bọ đuôi kìm trưởng
thành màu đen trung bình mỗi ngày có thể ăn 11,05
ấu trùng tuổi 1 của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu.
117
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Bảng 1. Khả năng ăn thịt của một con bọ đuôi kìm
đối với sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1
tại phòng thí nghiệm
Đợt thí
nghiệm
Sức tiêu thụ con mồi của bọ đuôi kìm
(con/ngày)
1 2 3 4 5
1 14,93 13,87 9,80 8,27 7,93
2 17,27 11,93 10,80 9,27 6,40
TB 16,10 12,90 10,30 8,77 7,17
3.2. Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên
đồng ruộng
Kết quả hình 1 cho thấy, mật độ bọ đuôi kìm
màu đen Euborellia annulipes trên ruộng mía tơ
Đông Xuân và mía gốc Đông Xuân có đốt lá sau thu
hoạch qua các tháng luôn thấp hơn ruộng mía gốc
Đông Xuân không đốt lá sau thu hoạch (mật độ con/
100 m2 trung bình tháng tương ứng 5,3 và 6,9 con so
với 19,5 con). Biến động mật độ đuôi kìm trên mía
tơ và ruộng mía gốc có đốt lá từ 0,8 - 13,3 con/100 m2
và 1,7 - 15,0 con/100 m2. Mật độ thấp ở tháng 1 và
tăng lên đến tháng 3 và có xu hướng giảm dần xuống
tháng 7, 8 sau đó tăng lại mạnh lên ở tháng 11, 12
(mía giai đoạn thu hoạch). Trong khi ở lô ruộng mía
gốc không đốt lá mật độ đuôi kìm ở mức cao ở tháng
1 đến tháng 3 và có xu hướng giảm dần đến tháng
8, sau đó tăng dần đến tháng 11, 12 (mía giai đoạn
thu hoạch). Thời điểm mật độ bộ đuôi kìm thấp nhất
tháng 6 đến tháng 9 trùng vào các tháng có lượng
mưa lớn, ẩm độ không khí cao, điều này cho thấy
biến động mật độ bọ đuôi kìm phụ thuộc rất nhiều
vào lượng mưa, ẩm độ. Bên cạnh đó, loại mía và
điều kiện canh tác cũng ảnh hưởng rất lớn đến mật
độ và biến động mật độ bọ đuôi kìm trên các ruộng
mía. Kết quả điều tra biến động bọ đuôi kìm vụ mía
Đông Xuân năm 2017 cũng khá tương đồng với kết
quả nghiên cứu điều tra vụ mía Đông Xuân qua các
tháng từ 2001 - 2003 của Cao Anh Đương tại vùng
Đông Nam bộ (Cao Anh Đương, 2004).
Hình 1. Đồ thị biến động mật độ bọ đuôi kìm Euborelia annulipes
trên các vụ mía và mật trung bình của sâu 4 vạch đầu nâu tại Châu Thành Tây Ninh (2017)
Ghi chú: MĐĐKMT: Mật đô bọ đuôi kìm mía tơ; MĐĐKMGKĐL: mật độ bọ đuôi kìm mía gốc không đốt lá;
MĐĐKMGCĐ: mật độ bọ đuôi kìm mía gốc có đốt lá; MĐS4VĐN: mật độ sâu bốn vạch đầu nâu.
Qua hình 1, dễ dàng nhận thấy lợi ích của việc
giữ nguyên lá sau thu hoạch, vừa đảm bảo ẩm độ
cho ruộng mía vào mùa khô vừa làm nơi trú ẩn cho
các loài thiên địch có ích bao gồm bọ đuôi kìm đen.
Những tác động của thời tiết được thể hiện rõ rệt
thông qua sự thay đổi ẩm độ. Vào mùa mưa, khi ẩm
độ không khí tăng cao, mật độ bọ đuôi kìm trên đồng
ruộng sụt giảm, nhưng đồng thời với đó là sự tăng
nhanh mật độ của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu trong
khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 9. Chính vì sự
biến động này, để kiểm soát tốt sâu đục thân 4 vạch
đầu nâu bằng thiên địch, việc thả bổ sung bọ đuôi
kìm trong giai đoạn cuối tháng 4 đầu tháng 5 ngay
khi có sự xuất hiện của loài sâu đục thân này là rất
cần thiết.
3.3. Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của
việc thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes
Lucas ngoài đồng
Kết quả bảng 3 cho thấy: Hiệu quả của việc thả bọ
đuôi kìm Euborellia annulipes đều làm giảm sự thiệt
hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu gây ra. Trong
đó, tại thời điểm 4 và 6 tháng sau khi thả bọ đuôi
kìm tỷ lệ thiệt hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu
giảm từ 3,06 - 3,26% về cây bị hại; lóng bị hại giảm từ
1,57 - 2,52% và chỉ số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với
đối chứng không thả bổ sung.
Bảng 2. Ảnh hưởng của việc thả bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas
đến tỷ lệ cây, lóng bị hại và chỉ số hại thời điểm tháng sau thả (%)
Công thức
Tỷ lệ cây bị hại Tỷ lệ lóng bị hại Chỉ số hại
4 tháng 6 tháng 4 tháng 6 tháng 4 tháng 6 tháng
Thả bọ đuôi kìm 4,01 6,06 1,64 2,99 0,07 0,18
Không thả đuôi kìm 7,27 9,12 3,21 5,51 0,24 0,50
118
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Qua đó cho thấy, để phòng chống sâu đục thân 4
vạch đầu nâu, ngoài những yếu tố như bảo vệ nguồn
thiên địch trong tự nhiên, chúng ta cần chú ý thả bổ
sung các loài thiên địch để ký sinh, bắt mồi. Trong
đó, thả bổ sung loài bọ đuôi kìm đen diệt trừ sâu đục
thân 4 vạch đầu nâu mang lại hiệu quả phòng trừ
khá tốt, an toàn với con người và đảm bảo được môi
trường sinh thái điều này sẽ góp phần giúp canh tác
mía bền vững hơn.
Bảng 3. Ảnh hưởng của việc thả bọ đuôi kìm
Euborellia annulipes đến năng suất và chất lượng mía
Công thức
Năng
suất thực
thu
(tấn/ha)
Chất
lượng
mía
(CCS)
Năng
suất quy
10 CCS
(tấn/ha)
Thả bọ đuôi kìm 97,38 11,26 109,65
Không thả bọ
đuôi kìm 90,55 11,17 101,14
Năng suất thực thu trên công thức có thả bọ đuôi
kìm đạt 97,38 tấn/ha, tăng 6,83 tấn/ha, tuy nhiên,
chữ đường ở công thức này cao hơn không đáng
kể so với đối chứng (11,26 CCS so với 11,17 CCS).
Năng suất quy 10 CCS ở công thức có thả bổ sung bọ
đuôi kìm tăng so với công thức không thả bổ sung
bọ đuôi kìm là 8,51 tấn/ha. Điều này cho thấy, biện
pháp dùng bọ đuôi kìm để phòng chống sâu đục
thân 4 vạch đâu nâu có khả năng làm giảm chỉ số hại
rõ rệt và làm tăng năng suất mía tại Tây Ninh.
IV. KẾT LUẬN
4.1. Kết luận
- Một cá thể trưởng thành bọ đuôi kìm màu đen
Euborellia annulipes có thể ăn trung bình 11,05 sâu
non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trên một ngày.
- Biến động mật độ bọ đuôi kìm đen Euborellia
annulipes trên đồng ruộng tăng ở tháng 1 - 3, sau đó
có chiều hướng giảm dần cho đến tháng 7, 8 và tăng
dần ở các tháng 11, 12 lúc mía trước thu hoạch. Mật
độ bọ đuôi kìm ở ruộng mía gốc không đốt lá cao
hơn rõ rệt so với mía tơ và mía gốc có đốt lá.
- Việc thả bọ đuôi kìm ăn thịt Euborellia annulipes
trên ruộng mía với mật độ 3.000 con/ha, thả 1 lần duy
nhất vào thời điểm tháng 5 làm giảm 3,06 - 3,26% về
cây bị hại; lóng bị hại giảm từ 1,57 - 2,52% và chỉ
số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với đối chứng không
thả bổ sung. Năng suất quy 10 CCS tăng 8,51 tấn/ha
vượt tương ứng 8,41% so với công thức không thả bổ
sung bọ đuôi kìm.
4.2. Đề nghị
Cần khuyến cáo sử dụng các tác nhân sinh học
hiệu quả như sử dụng bọ đuôi kìm trong phòng
chống sâu đục thân mía.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2010.
QCVN 01-38:2010/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật
Quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại
cây trồng. Ban hành theo Thông tư số 71/2010/TT-
BNNPTNT ngày 10/12/2010, 53 trang.
Đỗ Ngọc Diệp, 2002. Nghiên cứu sâu đục thân mía và
biện pháp phòng trừ chúng ở miền Đông Nam bộ.
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp. Trường Đại học Nông
nghiệp I, Hà Nội.
Cao Anh Đương, 2004. Nghiên cứu một số loài thiên địch
(côn trùng kí sinh, bắt mồi) và lợi dụng chúng trong
phòng trừ tổng hợp sâu đục thân mía vùng Bến Cát,
tỉnh Bình Dương và phụ cận. Luận án Tiến sĩ Nông
nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Bleszynski S., 1970. A revision of the world species of
Chilo Zincken (Lephidoptera: Pyralydae). Bullentin
of the British Museum (Natural History) Entomology,
London, 25, pp101-195.
David H. & Easwaramoorthy S., 1990. Biological
control of Chilo spp. in sugarcane. Insect Science and
its Application, 11, pp 733-748.
Miah MAH., Karim MA., Khuda AKMQE., Alam MZ
& Islam MN., 1983. Control of sugarcane topshoot
borer and stemborer. Indian Journal of Agricultural
Sciences, 53, pp 590-592.
Suasa-ard W., 2000. Chilo tumidicostalis (Hampson)
(Lepidoptera: Pyralidae) and its natural enemies in
Thailand. Proceedings of the IV Sugarcane Entomology
Workshop, ISSCT, Thailand, pp10-16.
Efficency of earwigs against stemborer on sugarcane
Do Duc Hanh, Duong Cong Thong, Mai Van Quan, Trinh Xuan Hoat,
Nguyen Van Liem, Do Van Tuong, Nguyen Thi Tan, Tran Van Son
Abstract
Study on efficiency of earwigs (Euborellia annulipes) for controlling borer (Chilo tumidicostalis) on sugarcane was
carried out in the Sugarcane Research Institute and on experimental fields in Tay Ninh province during 12 months
of 2017. The result showed that each earwig ate 11.05 one year old larva of borer Chilo tumidicostalis per day. Density
of earwigs on sugarcane field varried from 3.6 - 18.9 reached earwigs/100 m2 with an average of 10.6 earwigs/100 m2.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_cua_bo_duoi_kim_phong_chong_sau_duc_than_bon_vach_d.pdf