Hiệu quả của bọ đuôi kìm phòng chống sâu đục thân bốn vạch đầu nâu hại mía

KẾT LUẬN 4.1. Kết luận - Một cá thể trưởng thành bọ đuôi kìm màu đen Euborellia annulipes có thể ăn trung bình 11,05 sâu non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trên một ngày. - Biến động mật độ bọ đuôi kìm đen Euborellia annulipes trên đồng ruộng tăng ở tháng 1 - 3, sau đó có chiều hướng giảm dần cho đến tháng 7, 8 và tăng dần ở các tháng 11, 12 lúc mía trước thu hoạch. Mật độ bọ đuôi kìm ở ruộng mía gốc không đốt lá cao hơn rõ rệt so với mía tơ và mía gốc có đốt lá. - Việc thả bọ đuôi kìm ăn thịt Euborellia annulipes trên ruộng mía với mật độ 3.000 con/ha, thả 1 lần duy nhất vào thời điểm tháng 5 làm giảm 3,06 - 3,26% về cây bị hại; lóng bị hại giảm từ 1,57 - 2,52% và chỉ số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với đối chứng không thả bổ sung. Năng suất quy 10 CCS tăng 8,51 tấn/ha vượt tương ứng 8,41% so với công thức không thả bổ sung bọ đuôi kìm. 4.2. Đề nghị Cần khuyến cáo sử dụng các tác nhân sinh học hiệu quả như sử dụng bọ đuôi kìm trong phòng chống sâu đục thân mía.

pdf4 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của bọ đuôi kìm phòng chống sâu đục thân bốn vạch đầu nâu hại mía, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
115 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019 HIỆU QUẢ CỦA BỌ ĐUÔI KÌM PHÒNG CHỐNG SÂU ĐỤC THÂN BỐN VẠCH ĐẦU NÂU HẠI MÍA Đỗ Đức Hạnh1, Dương Công Thống1, Mai Văn Quân2, Trịnh Xuân Hoạt2, Nguyễn Văn Liêm2, Đỗ Văn Tường1, Nguyễn Thị Tân1, Trần Văn Sơn1 TÓM TẮT Nghiên cứu hiệu quả của bọ đuôi kìm (Euborellia annulipes Lucas) phòng chống sâu 4 vạch đầu nâu (Chilo tumidicostalis Hamsonp) tại Viện Nghiên cứu Mía đường và vùng mía nguyên liệu huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh từ tháng 1 đến tháng 12/2017. Kết quả cho thấy, trung bình mỗi ngày 1 bọ đuôi kìm trưởng thành có thể ăn 11,05 sâu non tuổi 1 của loài sâu đục thân 4 vạch đầu nâu. Mật độ bọ đuôi kìm trên ruộng mía tại Tây Ninh biến động từ 3,6 - 18,9 con/100 m2, đạt mức bình quân 10,6 con/100 m2. Mật độ bọ đuôi kìm tăng từ tháng 1 đến tháng 3, sau đó giảm dần và giảm mạnh ở tháng 7, 8, sau đó tăng ở tháng 11, 12. Lô ruộng mía gốc không đốt lá sau thu hoạch có mật độ đuôi kìm cao hơn hẳn so với ruộng mía tơ và mía gốc đốt lá sau thu hoạch (19,5 so với 5,3 và 6,9 con/100 m2 tương ứng). Công thức thả bọ đuôi kìm làm giảm từ 0,17 - 0,32% chỉ số hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu gây ra và đồng thời làm tăng năng suất quy 10 CCS tương ứng 8,41% so với công thức đối chứng. Từ khóa: Cây mía, bọ đuôi kìm, sâu đục thân 4 vạch đầu nâu 1 Viện Nghiên cứu Mía đường; 2 Viện Bảo vệ thực vật I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sâu đục thân 4 vạch đầu nâu có tên khoa học là Chilo tumidicostalis Hamsonp, thuộc họ ngài sáng (Pyralidae), thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera). Loài sâu này gây hại khá phổ biến ở các nước Bangladesh, Myanmar, Ấn Độ, Nepal, Thailand, Australia (Bleszynski, 1970; Miah et al., 1983; David & Aswaramoorthy, 1990; Suasa-ard, 2000). Tại Việt Nam, sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu là loài mới lần đầu tiên được phát hiện tại vùng trồng mía ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh năm 2014 (với 6,300 ha bị gây hại, trong đó có khoảng 500 ha bị gây hại nghiêm trọng từ 30 - 70%). Khi cây mía bị hại, ngọn mía bị héo và chết khô rất nhanh. Sâu có khả năng phát sinh nhanh và gây hại tập thể ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng của cây mía. Đặc biệt, sâu gây hại nặng ở các vùng đất thịt nặng, có mưa nhiều ẩm độ cao và giai đoạn dễ mẫn cảm nhất là mía cuối vươn lóng và trước thu hoạch. Nếu không kiểm soát được sự lan truyền của chúng thì có thể gây nên thiệt hại lớn về năng suất và hàm lượng đường trong cây mía. Hiện nay các biện pháp riêng lẻ phòng chống sâu đục thân mía 4 vạch đầu nâu đang gặp nhiều khó khăn, vì cây mía là cây lưu gốc nhiều năm, bộ giống mía trên đồng khá phong phú, địa hình trồng mía đa dạng, sinh khối cây mía lớn, sâu ẩn nấp trong thân cây nên việc phòng chống hiệu quả không cao. Do vậy, việc quản lý tổng hợp IPM đối với sâu đục thân 4 vạch đầu nâu là hết sức cần thiết để bảo vệ và sử dụng các loài thiên địch của sâu hại, nhằm khống chế quần thể sâu hại phát triển dưới ngưỡng gây hại kinh tế, bảo vệ cây trồng. Qua nhiều năm, Viện Nghiên cứu Mía đường đã điều tra, thu thập được 37 loài ký sinh, bắt mồi trên cây mía ở vùng Đông Nam bộ. Ngoài những loài như ong mắt đỏ màu vàng Trichogramma chilonis, ong đen ký sinh trứng Telenomus beneficien, ong kén trắng Cotesia flavipes thì loài bọ đuôi kìm Euborellia annulipes là loài ăn thịt bắt gặp nhiều nhất, đây là một trong những loài thiên địch quan trọng góp phần kiểm soát tốt các loài sâu đục thân gây hại trên ruộng mía (Đỗ Ngọc Diệp, 2002; Cao Anh Đương, 2004). Xuất phát từ thực tế trên, thí nghiệm “Đánh giá hiệu quả của bọ đuôi kìm Euborellia annulipes Lucas phòng chống sâu đục thân 4 vạch đầu nâu Chilo tumidicostalis Hamsonp hại mía tại Tây Ninh” được thực hiện. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu - Giống mía KK3 có nguồn gốc từ Thái Lan, đã được công nhận giống cho sản xuất thử tại các vùng Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ theo Quyết định số 135/QĐ-BNN-TT ngày 12/01/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, hiện đang được trồng phổ biến tại vùng mía Đông Nam bộ. - Sâu non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu Chilo tumidicostalis, bọ đuôi kìm trưởng thành Euborellia annulipes - Hộp nhựa nuôi sâu, ống nghiệm, kính lúp tay, chổi lông, dao, kéo. 2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Nội dung nghiên cứu - Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của bọ đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm. 116 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019 - Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên đồng ruộng. - Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của việc thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas ngoài đồng. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu a) Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của bọ đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm Bọ đuôi kìm được nuôi theo quy trình hiện hành của Bộ môn Bảo vệ thực vật - Viện Nghiên cứu Mía đường. Bọ đuôi kìm được thu thập từ đồng ruộng, nuôi giữ trong các hộp nhựa, bổ sung thức ăn là sâu đục thân hại mía, sâu gạo và thay thế nguồn sâu đục thân bằng thức ăn cám mèo để sử dụng cho thí nghiệm. Theo dõi khả năng ăn mồi của bọ đuôi kìm được thực hiện đối với pha trưởng thành, sau khi bỏ đói bọ trong 24 giờ trong điều kiện phòng thí nghiệm. Thức ăn dùng cho bọ đuôi kìm trong thí nghiệm này là ấu trùng tuổi 1 của sâu đục thân mía 4 vạch đầu nâu. Thí nghiệm thực hiện với 30 cá thể bọ đuôi kìm trưởng thành, mỗi cá thể được nuôi trong hộp nhựa (kích thước 21 ˟ 17 ˟ 8 cm). Đảm bảo nguồn thức ăn cho bọ đuôi kìm luôn đầy đủ. Theo dõi, ghi nhận kết quả thí nghiệm khả năng ăn mồi hàng ngày của bọ đuôi kìm đen Euborellia annulipes liên tục trong 5 ngày. Chỉ tiêu theo dõi là khả năng ăn sâu đục thân 4 vạch đầu nâu của bọ đuôi kìm/ngày. b) Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên đồng ruộng Sự biến động của bọ đuôi kìm được điều tra định kỳ mỗi tháng một lần trên cả ruộng mía tơ và mía gốc Đông Xuân, mỗi vụ điều tra, ghi nhận trên 3 ruộng trồng giống mía KK3 với diện tích > 1,0 ha. Trên mỗi ruộng, tiến hành điều tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc, không cố định điểm, tịnh tiến không lặp lại, mỗi điểm điều tra 12 m2, bóc lá khô lá già và vén lá dưới gốc để đếm thu bắt bọ đuôi kìm. Chỉ tiêu theo dõi là mật độ bọ đuôi kìm con/100 m2 (Cao Anh Đương, 2004). c) Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của việc thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas ngoài đồng Thử nghiệm được bố trí diện rộng không lặp lại, gồm 2 công thức (CT), mỗi công thức 0,5 ha. CT1: Thả 3.000 con bọ đuôi kìm/ha, thả duy nhất 1 lần khi mía được 5 tháng tuổi; CT2 (đ/c): Không thả bọ đuôi kìm. - Phương pháp điều tra và đánh giá sâu đục thân mía thực hiện theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN-01-38-2010/BNNPTNT về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010). Tiến hành điều tra 5 điểm trên 2 đường chéo góc/công thức, mỗi điểm điều tra là 12 m2. Theo dõi các chỉ tiêu: Tỷ lệ cây, lóng bị hại do sâu 4 vạch đầu nâu gây ra, ở các thời điểm 4 và 6 tháng sau thả bọ đuôi kìm; năng suất và chất lượng mía. Mật độ bọ đuôi kìm (con/100 m2) = Tổng số bọ đuôi kìm (con) Diện tích điều tra (m2) ˟ 100 Tỷ lệ cây, lóng bị hại (%) = Tổng số cây, lóng bị sâu hại Tổng số cây, lóng điều tra ˟ 100 2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được thu thập và xử lý trên phần mềm Excel và phân tích thống kê T-TEST trên phần mềm MSTATC. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 12 năm 2017 tại Phòng Thí nghiệm côn trùng - Viện Nghiên cứu Mía đường tại Bến Cát, Bình Dương và vùng mía nguyên liệu huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Nhân nuôi và đánh giá khả năng ăn mồi của bọ đuôi kìm trong điều kiện phòng thí nghiệm Sau khi bị bỏ đói 1 ngày, loài bọ đuôi kìm đen ăn từ 10 - 19 con sâu 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trong ngày thứ 1 và ở mức bình quân trên 30 cá thể thí nghiệm là 16,10 con/ngày, những ngày sau đó mức độ ăn giảm dần xuống và 5 ngày sau thí nghiệm bọ đuôi kìm đen chỉ ăn ở mức trung bình 7,17 con/ngày. Như vậy, qua số liệu cho thấy cứ một cá thể bọ đuôi kìm trưởng thành màu đen trung bình mỗi ngày có thể ăn 11,05 ấu trùng tuổi 1 của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu. 117 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019 Bảng 1. Khả năng ăn thịt của một con bọ đuôi kìm đối với sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1 tại phòng thí nghiệm Đợt thí nghiệm Sức tiêu thụ con mồi của bọ đuôi kìm (con/ngày) 1 2 3 4 5 1 14,93 13,87 9,80 8,27 7,93 2 17,27 11,93 10,80 9,27 6,40 TB 16,10 12,90 10,30 8,77 7,17 3.2. Điều tra sự biến động của bọ đuôi kìm trên đồng ruộng Kết quả hình 1 cho thấy, mật độ bọ đuôi kìm màu đen Euborellia annulipes trên ruộng mía tơ Đông Xuân và mía gốc Đông Xuân có đốt lá sau thu hoạch qua các tháng luôn thấp hơn ruộng mía gốc Đông Xuân không đốt lá sau thu hoạch (mật độ con/ 100 m2 trung bình tháng tương ứng 5,3 và 6,9 con so với 19,5 con). Biến động mật độ đuôi kìm trên mía tơ và ruộng mía gốc có đốt lá từ 0,8 - 13,3 con/100 m2 và 1,7 - 15,0 con/100 m2. Mật độ thấp ở tháng 1 và tăng lên đến tháng 3 và có xu hướng giảm dần xuống tháng 7, 8 sau đó tăng lại mạnh lên ở tháng 11, 12 (mía giai đoạn thu hoạch). Trong khi ở lô ruộng mía gốc không đốt lá mật độ đuôi kìm ở mức cao ở tháng 1 đến tháng 3 và có xu hướng giảm dần đến tháng 8, sau đó tăng dần đến tháng 11, 12 (mía giai đoạn thu hoạch). Thời điểm mật độ bộ đuôi kìm thấp nhất tháng 6 đến tháng 9 trùng vào các tháng có lượng mưa lớn, ẩm độ không khí cao, điều này cho thấy biến động mật độ bọ đuôi kìm phụ thuộc rất nhiều vào lượng mưa, ẩm độ. Bên cạnh đó, loại mía và điều kiện canh tác cũng ảnh hưởng rất lớn đến mật độ và biến động mật độ bọ đuôi kìm trên các ruộng mía. Kết quả điều tra biến động bọ đuôi kìm vụ mía Đông Xuân năm 2017 cũng khá tương đồng với kết quả nghiên cứu điều tra vụ mía Đông Xuân qua các tháng từ 2001 - 2003 của Cao Anh Đương tại vùng Đông Nam bộ (Cao Anh Đương, 2004). Hình 1. Đồ thị biến động mật độ bọ đuôi kìm Euborelia annulipes trên các vụ mía và mật trung bình của sâu 4 vạch đầu nâu tại Châu Thành Tây Ninh (2017) Ghi chú: MĐĐKMT: Mật đô bọ đuôi kìm mía tơ; MĐĐKMGKĐL: mật độ bọ đuôi kìm mía gốc không đốt lá; MĐĐKMGCĐ: mật độ bọ đuôi kìm mía gốc có đốt lá; MĐS4VĐN: mật độ sâu bốn vạch đầu nâu. Qua hình 1, dễ dàng nhận thấy lợi ích của việc giữ nguyên lá sau thu hoạch, vừa đảm bảo ẩm độ cho ruộng mía vào mùa khô vừa làm nơi trú ẩn cho các loài thiên địch có ích bao gồm bọ đuôi kìm đen. Những tác động của thời tiết được thể hiện rõ rệt thông qua sự thay đổi ẩm độ. Vào mùa mưa, khi ẩm độ không khí tăng cao, mật độ bọ đuôi kìm trên đồng ruộng sụt giảm, nhưng đồng thời với đó là sự tăng nhanh mật độ của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 9. Chính vì sự biến động này, để kiểm soát tốt sâu đục thân 4 vạch đầu nâu bằng thiên địch, việc thả bổ sung bọ đuôi kìm trong giai đoạn cuối tháng 4 đầu tháng 5 ngay khi có sự xuất hiện của loài sâu đục thân này là rất cần thiết. 3.3. Thử nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật của việc thả bổ sung bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas ngoài đồng Kết quả bảng 3 cho thấy: Hiệu quả của việc thả bọ đuôi kìm Euborellia annulipes đều làm giảm sự thiệt hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu gây ra. Trong đó, tại thời điểm 4 và 6 tháng sau khi thả bọ đuôi kìm tỷ lệ thiệt hại do sâu đục thân 4 vạch đầu nâu giảm từ 3,06 - 3,26% về cây bị hại; lóng bị hại giảm từ 1,57 - 2,52% và chỉ số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với đối chứng không thả bổ sung. Bảng 2. Ảnh hưởng của việc thả bọ đuôi kìm Euborelia annulipes Lucas đến tỷ lệ cây, lóng bị hại và chỉ số hại thời điểm tháng sau thả (%) Công thức Tỷ lệ cây bị hại Tỷ lệ lóng bị hại Chỉ số hại 4 tháng 6 tháng 4 tháng 6 tháng 4 tháng 6 tháng Thả bọ đuôi kìm 4,01 6,06 1,64 2,99 0,07 0,18 Không thả đuôi kìm 7,27 9,12 3,21 5,51 0,24 0,50 118 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019 Qua đó cho thấy, để phòng chống sâu đục thân 4 vạch đầu nâu, ngoài những yếu tố như bảo vệ nguồn thiên địch trong tự nhiên, chúng ta cần chú ý thả bổ sung các loài thiên địch để ký sinh, bắt mồi. Trong đó, thả bổ sung loài bọ đuôi kìm đen diệt trừ sâu đục thân 4 vạch đầu nâu mang lại hiệu quả phòng trừ khá tốt, an toàn với con người và đảm bảo được môi trường sinh thái điều này sẽ góp phần giúp canh tác mía bền vững hơn. Bảng 3. Ảnh hưởng của việc thả bọ đuôi kìm Euborellia annulipes đến năng suất và chất lượng mía Công thức Năng suất thực thu (tấn/ha) Chất lượng mía (CCS) Năng suất quy 10 CCS (tấn/ha) Thả bọ đuôi kìm 97,38 11,26 109,65 Không thả bọ đuôi kìm 90,55 11,17 101,14 Năng suất thực thu trên công thức có thả bọ đuôi kìm đạt 97,38 tấn/ha, tăng 6,83 tấn/ha, tuy nhiên, chữ đường ở công thức này cao hơn không đáng kể so với đối chứng (11,26 CCS so với 11,17 CCS). Năng suất quy 10 CCS ở công thức có thả bổ sung bọ đuôi kìm tăng so với công thức không thả bổ sung bọ đuôi kìm là 8,51 tấn/ha. Điều này cho thấy, biện pháp dùng bọ đuôi kìm để phòng chống sâu đục thân 4 vạch đâu nâu có khả năng làm giảm chỉ số hại rõ rệt và làm tăng năng suất mía tại Tây Ninh. IV. KẾT LUẬN 4.1. Kết luận - Một cá thể trưởng thành bọ đuôi kìm màu đen Euborellia annulipes có thể ăn trung bình 11,05 sâu non sâu đục thân 4 vạch đầu nâu tuổi 1 trên một ngày. - Biến động mật độ bọ đuôi kìm đen Euborellia annulipes trên đồng ruộng tăng ở tháng 1 - 3, sau đó có chiều hướng giảm dần cho đến tháng 7, 8 và tăng dần ở các tháng 11, 12 lúc mía trước thu hoạch. Mật độ bọ đuôi kìm ở ruộng mía gốc không đốt lá cao hơn rõ rệt so với mía tơ và mía gốc có đốt lá. - Việc thả bọ đuôi kìm ăn thịt Euborellia annulipes trên ruộng mía với mật độ 3.000 con/ha, thả 1 lần duy nhất vào thời điểm tháng 5 làm giảm 3,06 - 3,26% về cây bị hại; lóng bị hại giảm từ 1,57 - 2,52% và chỉ số hại giảm từ 0,17 - 0,32% so với đối chứng không thả bổ sung. Năng suất quy 10 CCS tăng 8,51 tấn/ha vượt tương ứng 8,41% so với công thức không thả bổ sung bọ đuôi kìm. 4.2. Đề nghị Cần khuyến cáo sử dụng các tác nhân sinh học hiệu quả như sử dụng bọ đuôi kìm trong phòng chống sâu đục thân mía. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2010. QCVN 01-38:2010/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng. Ban hành theo Thông tư số 71/2010/TT- BNNPTNT ngày 10/12/2010, 53 trang. Đỗ Ngọc Diệp, 2002. Nghiên cứu sâu đục thân mía và biện pháp phòng trừ chúng ở miền Đông Nam bộ. Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Cao Anh Đương, 2004. Nghiên cứu một số loài thiên địch (côn trùng kí sinh, bắt mồi) và lợi dụng chúng trong phòng trừ tổng hợp sâu đục thân mía vùng Bến Cát, tỉnh Bình Dương và phụ cận. Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Bleszynski S., 1970. A revision of the world species of Chilo Zincken (Lephidoptera: Pyralydae). Bullentin of the British Museum (Natural History) Entomology, London, 25, pp101-195. David H. & Easwaramoorthy S., 1990. Biological control of Chilo spp. in sugarcane. Insect Science and its Application, 11, pp 733-748. Miah MAH., Karim MA., Khuda AKMQE., Alam MZ & Islam MN., 1983. Control of sugarcane topshoot borer and stemborer. Indian Journal of Agricultural Sciences, 53, pp 590-592. Suasa-ard W., 2000. Chilo tumidicostalis (Hampson) (Lepidoptera: Pyralidae) and its natural enemies in Thailand. Proceedings of the IV Sugarcane Entomology Workshop, ISSCT, Thailand, pp10-16. Efficency of earwigs against stemborer on sugarcane Do Duc Hanh, Duong Cong Thong, Mai Van Quan, Trinh Xuan Hoat, Nguyen Van Liem, Do Van Tuong, Nguyen Thi Tan, Tran Van Son Abstract Study on efficiency of earwigs (Euborellia annulipes) for controlling borer (Chilo tumidicostalis) on sugarcane was carried out in the Sugarcane Research Institute and on experimental fields in Tay Ninh province during 12 months of 2017. The result showed that each earwig ate 11.05 one year old larva of borer Chilo tumidicostalis per day. Density of earwigs on sugarcane field varried from 3.6 - 18.9 reached earwigs/100 m2 with an average of 10.6 earwigs/100 m2.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_bo_duoi_kim_phong_chong_sau_duc_than_bon_vach_d.pdf