Hiệu quả của bùn thải bia và bùn cá được xử lý phơi nắng trên sinh trưởng và năng suất rau trồng trong nhà lưới

Cả hai nguồn bùn thải BB-30 và BC- 50 sau khi xử lý qua phơi nắng đều phù hợp cho việc sử dụng làm phân hữu cơ. Hàm lượng dưỡng chất đa lượng N, P, K của hai nguồn bùn thải đều ở mức cho phép, hàm lượng vi lượng, kim loại nặng và thành phần VSV gây hại đều dưới ngưỡng gây hại, phù hợp sử dụng làm phân hữu cơ. Ẩm độ ban đầu của hai loại bùn thải này tương đối cao nên việc xử lý hai nguồn bùn bằng phương pháp phơi nắng trực tiếp vừa làm giảm ẩm độ vừa góp phần diệt các nguồn vi sinh vật môi trường gây bệnh là cần thiết. Thêm vào đó BB-30 và BC-50 sau xử lý có hàm lượng dinh dưỡng cao nhưng độ xốp rất thấp nên sự phối trộn của BB và BC được xử lý với bùn mía giúp gia tăng độ tơi xốp của hai nguồn bùn. Vì vậy hai nguồn bùn thải được phối trộn với bã bùn mía khô được xem là nguồn chất hữu cơ hiệu quả bón cho đất. Qua kết quả phân tích cho thấy mật số VSV gây bệnh trong cải bẹ xanh ở các nghiệm thức được bón BC/BB phối trộn với bùn mía có xu hướng thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng đất ngoại trừ mật số Coliforms trong nghiệm thức BC:BM (50:50). Tuy nhiên, mật số của nhóm vi sinh vật gây bệnh đều vượt ngưỡng cho phép trên rau ăn lá, có thể là do mật số của các nhóm vi khuẩn này hiện diện trong đất, trong khi các nguồn phân hữu cơ chưa thể hiện vai trò ức chế nguồn vi sinh vật gây bệnh cho người hiện diện trong đất. Trong quá trình chuẩn bị đất trồng thí nghiệm mẫu đất được phơi khô không khí và được được trộn với phân hữu cơ trước khi trồng cải và trong quá trình phát triển các lá cải phủ mặt đất và ẩm độ đất trong chậu cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm vi sinh vật này phát triển. Kết quả này được thể hiện rõ ở nghiệm thức đối chứng chỉ sử dụng đất và bón phân vô cơ cho cải.

pdf16 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của bùn thải bia và bùn cá được xử lý phơi nắng trên sinh trưởng và năng suất rau trồng trong nhà lưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 81 HIỆU QUẢ CỦA BÙN THẢI BIA VÀ BÙN CÁ ĐƯỢC XỬ LÝ PHƠI NẮNG TRÊN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT RAU TRỒNG TRONG NHÀ LƯỚI Đỗ Thị Xuân1*, Nguyễn Thị Phương2, Nguyễn Mỹ Hoa1, Trần Nam Kha3 và Trương Thùy Linh1 1 Trường Đại học Cần Thơ (Email: dtxuan@ctu.edu.vn) 2 Trường Đại học Đồng Tháp 3Công ty TNHH Nông Thiên Việt Ngày nhận: 15/11/2017 Ngày phản biện: 10/12/2017 Ngày duyệt đăng: 20/12/2017 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả của xử lý bùn bia (BB) và bùn cá (BC) qua phơi nắng để làm phân hữu cơ nhằm cải thiện năng suất của rau cải. BB và BC sau khi được xử lý phơi nắng đạt các mức ẩm độ 10%, 30% và 50% và được phân tích các thành phần hóa học, kim loại nặng, mật số vi sinh vật (VSV) gây bệnh. BB và BC sau xử lý phơi nắng được phối trộn với bùn mía (BM) và bón tương đương 2 tấn/ha cho thí nghiệm trồng cải xanh (Brassica juncea) trong điều kiện nhà lưới. Kết quả phân tích BB và BC cho thấy các chỉ tiêu hóa học, mật số VSV gây bệnh và kim loại nặng sau khi xử lý đều đạt dưới ngưỡng qui định đối với phân hữu cơ. Tỉ lệ nẩy mầm của cải ở NT BB-30 và BC- 50 cao hơn NT đối chứng. Các NT được bón phân hữu cơ BB: BM (50:50), BC:BM (50:50) và BC:BM (20:80) có trọng lượng tươi và khô cao hơn NT đối chứng và NT bón phân hữu cơ bã bùn mía. Xử lý phơi nắng BB đạt ẩm độ 30% và BC đạt ẩm độ 50% có hiệu quả giúp tăng sinh trưởng và năng suất của cải. Tuy nhiên, mật số Coliforms và E. coli hiện diện trong cải ở thí nghiệm này vẫn cao hơn ngưỡng giới hạn mật số VSV gây bệnh trong rau ăn sống. Vì thế yếu tố xử lý đất trồng rau là rất cần thiết để giảm mầm bệnh từ đất. Từ khóa: Bùn bia, bùn cá, cải bẹ xanh, sự nẩy mầm, vi sinh vật gây bệnh. Trích dẫn: Đỗ Thị Xuân, Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Mỹ Hoa, Trần Nam Kha và Trương Thùy Linh, 2017. Hiệu quả của bùn thải bia và bùn cá được xử lý phơi nắng trên sinh trưởng và năng suất rau trồng trong nhà lưới. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 02: 81-96. *Tiến sĩ Đỗ Thị Xuân, Giảng viên Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 82 1. GIỚI THIỆU Hiện nay, cả nước có hơn 350 cơ sở sản xuất bia với lượng bùn thải bia tương đương 6 triệu tấn/năm (Bộ Công thương, 2009). Ngoài ra, với hơn 429 nhà máy chế biến thủy sản, lượng bùn thải thải ra môi trường ước tính cả nước khoảng 858 tấn/ngày (Võ Phú Đức, 2013). Các nghiên cứu gần đây cho thấy hai nguồn bùn thải bia và bùn thủy sản có hàm lượng dinh dưỡng và chất hữu cơ cao (Ki et al., 1979; Kanagachandran and Jayaratne, 2006; Võ Thị Kiều Thanh và ctv., 2012; Nguyễn Thị Phương và ctv., 2016) và được phép quản lý và thải ra như nguồn chất thải thường (Võ Phú Đức, 2013). Mặc dù vậy, nếu số lượng của các nguồn bùn thải này thải ra ngày càng nhiều, không có phương án xử lý và sử dụng chất thải kịp thời thì về lâu dài gây hại đến môi trường (Thomas and Rahman, 2006) do sự hiện diện một số vi sinh vật (VSV) môi trường gây bệnh, từ đó gây hậu quả và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đất, nước và sức khỏe cộng đồng (Saviozzi et al., 2001; Thomas and Rahman, 2006). Các tính chất của bùn thải phụ thuộc vào chất lượng của bùn thải và phương pháp xử lý (Singh and Agrawal, 2008). Có nhiều phương pháp xử lý bùn thải như xử lý sinh học bao gồm sự phân hủy của các vi sinh vật kỵ khí (anaerobic digestion), sự phân hủy do các nhóm vi sinh vật háo khí ưa nhiệt trung bình (mesophilic aerobic digestion) và sự phân hủy bởi các nhóm vi sinh vật háo khí ưa nhiệt cao (thermophilic aerobic digestion) và các phương pháp xử lý phi sinh học như bổ sung vôi, ủ bùn thải làm compost, sử dụng hơi nước khử trùng (Goldfarb et al., 1999; Cabaret et al., 2002; Hodgson et al., 2004). Tuy nhiên, trở ngại của các phương pháp này là bùn thải xử lý chưa đáp ứng được yêu cầu theo qui định, do đó việc sử dụng ánh sáng mặt trời để khử trùng và làm ổn định tính chất của bùn thải được xem là phương pháp hiệu quả (Seginer and Bux, 2006). Mặt khác, việc sử dụng hai nguồn bùn thải không qua phương pháp ủ phân sẽ rút ngắn được thời gian xử lý bùn và chủ động được nguồn phân hữu cơ bón cho cây trồng. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả của xử lý bùn thải qua phơi nắng để làm phân hữu cơ nhằm cải thiện năng suất của rau cải. 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Vật liệu nghiên cứu Bùn thải bia và bùn cá được thu là sản phẩm cuối cùng của quá trình xử lý nước thải từ nhà máy sản xuất bia và chế biến thủy sản. Hai nguồn bùn thải được ép loại bỏ nước trước khi thải ra môi trường. Mẫu bùn cá (BC) được thu tại nhà máy chế biến thủy sản Hậu Giang. Bùn thải bia (BB) được thu tại nhà máy sản xuất bia Tiền Giang. Vật liệu bùn mía (BM) được thu tại nhà máy mía đường Vị Thanh, Hậu Giang để phối trộn với nguồn bùn thải đã xử lý phơi nắng như là nguồn cung cấp chất xơ. Các mẫu bùn sau khi thu được trữ Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 83 trong túi plastic 50kg và được vận chuyển về phòng thí nghiệm. Các mẫu bùn được trộn đều, được cân 300g mỗi mẫu bùn cho phân tích ẩm độ, pH, EC, chất hữu cơ, đạm tổng số, lân tổng số, cation trao đổi (CEC), mật số vi sinh vật gây bệnh (mật số Coliforms, E. coli, Salmonella) và hàm lượng kim loại nặng Mn, Cd và Pb. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp phân tích chỉ tiêu vi sinh vật môi trường Cân 10g mỗi loại bùn thải cho vào chai 250ml thêm 90ml buffer phosphate (39,3g Na2HPO4.12H2O và 31,2g NaH2PO4.2H2O pha trong 1 lít nước khử khoáng) đã tiệt trùng, lắc một giờ ở tốc độ 150 vòng/phút. Dung dịch của hai loại bùn thải được xác định mật số vi sinh vật E. coli, Coliforms và Salmonella theo phương pháp của Pond et al., (2000). 2.2.2. Phương pháp xử lý phơi nắng đối với hai nguồn bùn thải Hai nguồn bùn được chuyển vào khay nhựa và trải đều với độ dày của lớp bùn là 4 cm, phơi khô không khí đến ẩm độ 70%, tiến hành phơi nắng trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời từ 9 giờ sáng cho đến 3 chiều, đảo trộn mẫu mỗi 30 phút/lần. Thu mẫu lần 1 khi mẫu bùn cá hoặc bùn bia phơi trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời được 2 giờ (ẩm độ 50%), thu mẫu lần 2 khi mẫu bùn được phơi trực tiếp dưới nắng 3 giờ (ẩm độ 30%) và lần 3 khi mẫu bùn phơi dưới ánh nắng mặt trời được 4 giờ (ẩm độ sẽ còn 10%). Các mẫu thu được để vào túi plastic kín và trữ vào tủ lạnh 4ºC. Mẫu bùn mía (BM) được phơi nắng trực tiếp về đến ẩm độ 20%. Nguồn bùn mía được sử dụng để phối trộn với mẫu bùn cá (BC) và bùn bia (BB) được xử lý phơi nắng. Đánh giá các chỉ tiêu chất hữu cơ, đạm tổng số, lân tổng số, mật số Coliforms, E. coli, Salmonella sau khi xử lý phơi nắng của mẫu BC và BB. Mật số vi sinh vật gây bệnh được xác định bằng phương pháp được trình bày ở mục 2.2.1. 2.2.3. Thí nghiệm khảo sát tỉ lệ nảy mầm của cải xanh (Brassica juncea) trên giá thể bùn bia và bùn cá đã được xử lý phơi nắng Các nguồn bùn thải sau khi được xử lý bằng phương pháp phơi nắng ở mục 2.2.2 và được sử dụng để tiến hành thí nghiệm đánh giá sự nẩy mầm của cải bẹ xanh (Warman, 1999). Đất thu từ khu vực xung quanh nhà lưới bộ môn Khoa học đất được phơi khô không khí và được nghiền nhỏ qua rây 2mm, phân hữu cơ bả bùn mía (công ty phân bón P.P.E) và hạt giống cải bẹ xanh chịu mưa TN 53 (Công ty Trang Nông). * Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được thực hiện trong khay và được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với tám nghiệm thức (Bảng 1) và ba lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Khối lượng giá thể (đất hoặc bùn được xử lý hoặc phân hữu cơ) được sử dụng cho mỗi khay là 0,5 kg/ khay. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 83 Bảng 1: Các nghiệm thức được thực hiện cho thí nghiệm đánh giá sự nẩy mầm của cải bẹ xanh được ươm trên giá thể của các nguồn bùn bia và bùn cá được xử lý phơi nắng * Phương pháp thực hiện: hạt cải được rửa sạch, loại bỏ các hạt lép, ngâm hạt cải bẹ xanh theo hướng dẫn trên bao bì, sạ 100 hạt vào các khay và tưới phun sương để giữ ẩm cho các nghiệm thức (khoảng 60% ẩm độ đất). Ở ba ngày đầu sau khi sạ, các khay được tưới phun sương mỗi hai giờ một lần. Khi các cây mầm đã phát triển, mỗi ngày tưới phun sương 3 lần. Thí nghiệm được thực hiện trong thời gian 14 ngày khi có hơn 50% hạt giống nẩy mầm trong tất cả các khay. * Các chỉ tiêu đánh giá tại thời điểm thu hoạch bao gồm: ghi nhận phần trăm nẩy mầm, chiều cao cây mầm, trọng lượng tươi của cải mầm được xác định bằng cách thu hoạch tất cả các phần thực vật phía trên mặt đất, trọng lượng khô của cải mầm được xác định bằng phương pháp sấy mẫu cải mầm ở 105ºC trong thời gian 14 giờ. Các nghiệm thức BB-10, BC-10 và PHC bã bùn mía không có sự nảy nầm của hạt cải sau 14 ngày gieo do quá trình xử lý phơi nắng của hai nguồn BB- 10, BC-10 trong thời gian dài để mẫu bùn đạt ẩm độ 10% thì hai nguồn bùn này rất khô cứng, không thể nghiền nhỏ trước khi thực hiện thí nghiệm, nên thí nghiệm đã loại bỏ ba nghiệm thức BB- 10, BC-10 và PHC bả bùn mía. 2.2.4. Đánh giá sự sinh trưởng và năng suất của cải xanh (Brassica juncea) được trồng trong đất có bón hai nguồn bùn thải. Từ kết quả của thí nghiệm mục 2.2.3, hai mẫu BB xử lý 30% ẩm độ (BB-30) và mẫu bùn cá xử lý 50% ẩm độ (BC- 50) có tỉ lệ nẩy mầm của cải xanh cao hơn mẫu cải trồng trong nghiệm thức đối chứng (đất) được sử dụng làm phân hữu cơ bón cho cải xanh. Mẫu BB-30 và BC-50 được sử dụng như là nguồn cung cấp đạm và bổ sung thêm nguồn BM nhằm làm tăng độ tơi xốp của bùn thải. Mẫu bùn mía được phơi khô và xác định các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh cho người được thực hiện như mô tả ở Nghiệm thức Công thức 1 Đối chứng (Đất) 2 Bùn bia ẩm độ 10% (BB-10) 3 Bùn bia ẩm độ 30% (BB-30) 4 Bùn bia ẩm độ 50% (BB-50) 5 Bùn cá ẩm độ 10% (BC-10) 6 Bùn cá ẩm độ 30% (BC-30) 7 Bùn cá ẩm độ 50% (BC-50) 8 PHC bã bùn mía Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 85 mục 2.2.1. Các mẫu bùn được xử lý được trộn với bùn mía theo tỉ lệ 50:50 và 20:80 (w/w) (Lâm Ngọc Tuyết 2017). Chuẩn bị đất thí nghiệm: đất, phân hữu cơ bã bùn mía và giống cải xanh được chuẩn bị như mục 2.2.3. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong chậu với sáu nghiệm thức và ba lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Mỗi chậu chứa 7kg đất khô kiệt. Liều lượng phân hữu cơ (hai mẫu bùn xử lý và được phối trộn với bùn mía cho từng loại bùn dựa vào kết quả nghiên cứu của Lâm Ngọc Tuyết (2017) được sử dụng ở các nghiệm thức là 2 tấn/ha và bón vào chậu một ngày trước khi sạ cải (Trần Thị Ba, 1999). Các nghiệm thức được trình bày ở Bảng 2. Bảng 2: Các nghiệm thức được thực hiện cho thí nghiệm đánh giá sinh trưởng và năng suất cải xanh Nghiệm thức Công thức phối trộn Tỉ lệ phối trộn của bùn thải với bùn mía(a) 1 Đối chứng (Đất) 2 Đất+ (BB-30: Bùn mía) 20:80 (*) 3 Đất+ (BB-30: Bùn mía) 50:50 4 Đất+ (BC-50: Bùn mía) 20:80 5 Đất+(BC-50: Bùn mía) 50:50 6 Đất+ PHC bã bùn mía Ghi chú: BB-30: bùn bia được xử lý nhiệt ở ẩm độ 30%; BC-50 bùn cá được xử lý nhiệt ở ẩm độ 50%; (*) Tỉ lệ phối trộn giữa bùn thải và bùn mía được chọn trên kết quả nghiên cứu của Lâm Ngọc Tuyết (2017). Phương pháp thực hiện: Các hạt cải bẹ xanh được xử lý theo mục 2.2.3 và được gieo 10 hạt vào các chậu. Tưới nước ở cùng liều lượng cho các nghiệm thức để giữ ẩm. Khi cây cao khoảng 5 cm tiến hành tỉa bỏ để lại 3 cây cải/ chậu. Phân bón được sử dụng theo khuyến cáo qui trình trồng cải xanh của Trần Thị Ba (1999) với công thức cho phân bón là 55 kg N – 32 kg P2O5 – 46 kg K2O (kg/ 1000m2). Rau được tưới hai lần/ngày vào buổi sáng và khoảng 4- 5h chiều mỗi ngày. Thí nghiệm được thực hiện trong thời gian 30 ngày. Khi kết thúc thí nghiệm tiến hành thu hoạch cải. * Các chỉ tiêu đánh giá: Ghi nhận chiều cao cây (đo chiều cao cải xanh tính từ mặt đất đến đỉnh lá của 3 cây/chậu), đếm số bẹ lá/cây, cân trọng lượng tươi và trọng lượng khô của cây, kiểm tra mật số E. coli, Coliforms và Salmonella của cải sau khi thu hoạch được thực hiện theo phương pháp mô tả ở mục 2.2.1. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 86 * Xử lý số liệu: các chỉ tiêu mật số E. coli, Coliforms và Salmonella, tỉ lệ nẩy mầm, các chỉ tiêu nông học của cải mầm và cải xanh của các nghiệm thức được đánh giá qua phép thống kê ANOVA, so sánh trung bình nghiệm thức bằng phép thử LSD. Sử dụng phần mềm MINITAB 16.0. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Đánh giá thành phần kim loại nặng trong hai nguồn bùn thải Qua kết quả Bảng 3 cho thấy, mẫu BB và BC có hàm lượng Zn, Mn, Cu dao động từ 63 - 984mg/kg cho Zn và 26-38,59 mg/kg cho Mn, 27,60- 47,37mg/kg cho Cu. Hàm lượng Cd, Pb hiện diện trong nguồn BC và BB dao động từ 0,069 – 0,081mg/kg cho Cd và 0,058 – 0,129mg/kg cho Pb. Kết quả phân tích trên cho thấy các chỉ tiêu này thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu của Fytili and Zanbaniotou (2008); Rebah et al. (2009); Trương Quốc Phú (2012). Theo tiêu chuẩn QCVN 07/2009/BTNMT và QCVN 50 /2013/ BTNMT thì hàm lượng kim loại nặng và chất thải nguy hại trong hai mẫu bùn bia và bùn cá dưới ngưỡng cho phép có trong các nguyên vật liệu để sản xuất phân hữu cơ. Bảng 3: Một số chỉ tiêu hóa học và kim loại nặng có trong nguồn bùn bia và bùn cá được thu tại Tiền Giang và Hậu Giang Nguồn bùn Một số chỉ tiêu hóa học và kim loại nặng hiện diện trong hai mẫu bùn pH(1) EC(1) (mS/cm) Mn (mg/kg) Zn (mg/kg) Fe (%Fe2O3) Cu (mg/kg) Pb (mg/kg) Cd (mg/kg) Bùn bia 6,56 2,10 26,00 984 0,56 27,60 0,13 0,08 Bùn cá 7,60 2,30 38,59 63 0,28 47,37 0,06 0,07 Ngưỡng cho phép (mg/l)(2) 15 0,5 Ghi chú: (1 ) pH và EC của mẫu bùn được trích với nước theo tỉ lệ 1:2,5; (2) hàm lượng các kim loại nặng dưới ngưỡng cho phép qui định hàm lượng kim loại nặng có trong bùn thải theo QCVN 50:2013/BTNMT. 3.2 Đánh giá thành phần dinh dưỡng trong hai nguồn bùn trước và sau khi xử lý nhiệt Qua kết quả ở Bảng 3, giá trị pH của nguồn BB và BC dao động trong khoảng 6,56 - 7,60 và thấp hơn giá trị pH (7,95-8,17) của bùn cống thải. Giá trị EC của BB và BC (2,1 – 2,3 mS/cm) cao hơn giá trị EC từ bùn cống thải (EC = 0,47 - 0,53mS/cm (Bùi Thị Nga và ctv., 2014). Qua kết quả phân tích cho thấy giá trị pH của hai nguồn bùn thải đạt giá trị trung tính, giá trị EC thấp và thích hợp dể sử dụng như là nguồn phân hữu cơ. Hai chỉ tiêu này có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 87 trưởng phát triển của cây trồng, hoạt động vi sinh vật đất, độ hữu dụng của dưỡng chất trong đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv., 2014). Hàm lượng đạm tổng số (Nts) có trong mẫu BB và BC lần lượt là 2,43 – 4,38% (Bảng 4). Qua quá trình xử lý phơi nắng hàm lượng Nts của nguồn BB-30 và BC-50 không thay đổi đáng kể, cao hơn hàm lượng đạm tổng số của bùn cống thải (Trần Phương Đông, 2013), bùn đáy ao nuôi tôm thâm canh nước mặn (Nguyễn Văn Mạnh, 2015) và đạt yêu cầu so với quy chuẩn của phân hữu cơ. Mẫu bùn bia và bùn cá có hàm lượng lân tổng số (Pts) lần lượt là 10,7 - 7,17%. Các mẫu BB và BC sau xử lý phơi nắng theo từng ẩm độ có hàm lượng Pts cao và chiếm khoảng 8,05 - 11,09% (Bảng 4). Giá trị này tương tự như kết quả phân tích bùn cống thải của Anderson (1959), Fytili and Zanbaniotou (2008) và nguồn bùn bia của Võ Thị Kiều Thanh và ctv. (2012). Hàm lượng kali tổng số (Kts) của BB và BC dao động từ 0,23% đến 1,13%. Hàm lượng Kts (Bảng 4) từ nguồn vật liệu BB và BC sau xử lý phơi nắng ở từng ẩm độ dao động trong khoảng 0,19 - 1,58%. Kết quả này tương tự như kết quả nghiên cứu của Ki et al. (1979), Võ Thị Kiều Thanh và ctv. (2012), Trương Quốc Phú và ctv. (2012). Qua kết quả phân tích hai nguồn bùn thải trước và sau khi xử lý phơi nắng cho thấy hàm lượng CHC, đạm tổng số, lân tổng số, kali tổng số và hàm lượng kim loại nặng đều đạt so với yêu cầu của phân hữu cơ theo Thông tư số 36/2010/TT-BNNPTNT. 3.2. Đánh giá các nguồn vi sinh vật môi trường hiện diện trong hai nguồn bùn thải trước và sau khi xử lý nhiệt Qua kết quả ở Bảng 4 cho thấy hai nguồn BB và BC khi chưa xử lý phơi nắng đều có sự hiện diện Coliforms lần lượt là 5,4x106 CFU/g vật liệu và 4,5x107 CFU/g vật liệu. Mật số E. coli khi chưa xử lý nhiệt đạt lần lượt 5,4x105 CFU/g và 5,4x106 CFU/g vật liệu. Mật số của vi khuẩn E. coli. và Coliforms gây bệnh cho người hiện diện trong hai nguồn bùn thải cao hơn ngưỡng cho phép (QCVN 24: 2009/ BTNMT và QCVN 07: 2009 / BTNMT). Riêng Salmonella không phát hiện có trong hai nguồn BB và BC trước và sau khi xử lý phơi nắng. Ở các nghiệm thức (NT) BB đã xử lý phơi nắng thì mật số Coliforms giảm đáng kể, trong ngưỡng cho phép (Bảng 4). Đối với nguồn BC sau khi xử lý phơi nắng ở NT BC-50 có mật số Coliforms giảm còn 1710 CFU/g, NT BC-30 thì mật số Coliforms giảm còn 754 CFU/g và NT BC-10 có mật số Coliforms giảm còn 720 CFU/g. Mật số E. coli giảm đáng kể sau khi xử lý phơi nắng ở NT BC-50 còn 754 CFU/g, BC-30 giảm còn 387 CFU/g (Bảng 4). Nguồn bùn mía có mật số Coliforms 2700 CFU/g và mật số E. coli là 541 CFU/g đều dưới ngưỡng cho phép. Sau quá trình xử lý bằng phương pháp phơi nắng hai nguồn bùn thải thì Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 88 mật số VSV gây bệnh đều giảm so với trước khi xử lý và có mật số VSV môi trường dưới ngưỡng gây hại. Vì vậy hai nguồn BB và BC đã xử lý và bùn mía được sử dụng để tiến hành thí nghiệm đánh giá sự sinh trưởng của cải xanh. Bảng 4: Thành phần dinh dưỡng và mật số vi sinh vật có trong hai nguồn bùn trước và sau khi xử lý phơi nắng. Mẫu bùn Chỉ tiêu hóa học của bùn Chỉ tiêu sinh học của bùn (CFU/g bùn khô) N P K (%) CHC Coliforms E. coli BB(trước xử lý) 2,43 10,7 0,23 42,39 5,4x106 5,4x105 BB-50 2,61 11,19 0,2 41,87 1045 486 BB-30 2,57 10,9 0,19 41,13 609 29 BC(trước xử lý) 4,28 7,17 1.13 61,62 4,5x107 5,4x106 BC-50 5,36 8,05 1,09 59,92 1710 754 BC-30 3,57 8,23 1,38 35,74 720 387 BM 2700 541 Ngưỡng cho phép <3000(a) 102 – 103 (b) Ghi chú: (a) Ngưỡng qui định theo QCVN 24: 2009/BTNMT; (b) QCVN 07:2009/BTNMT. BB: bùn bia tươi từ nhà máy sản xuất bia Tiền Giang; KHP: không phát hiện; BB-50: Bùn bia được xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50%; BB-30: Bùn bia được xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30%; BC: Bùn cá tươi được thu từ nhà máy chế biến cá Hậu Giang; BC-50: Bùn cá được xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50%; BC-30: Bùn cá được xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30%; BM: bùn mía được phơi nắng. 3.4. Đánh giá sự nẩy mầm của cải bẹ xanh (Brassica juncea) được gieo trên các giá thể bùn xử lý phơi nắng Tỉ lệ nảy mầm và chiều cao chồi cải bẹ xanh sau 14 ngày gieo Qua kết quả thí nghiệm cho thấy tỉ lệ nẩy mầm của cải bẹ xanh trên bốn giá thể BB-30, BB-50, BC-30, BC-50 dao động trong khoảng 92,3% (BC-30) và 97,3% (BC-50) ở giai đoạn 14 ngày sau khi gieo. Tuy nhiên, tỉ lệ nẩy mầm của các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức đối chứng với tỉ lệ nẩy mầm là 91% (Bảng 5). Chiều cao chồi cải xanh dao động từ 5,63 cm đến 7,92 cm. Nghiệm thức BB- 30 và BC-50 có chiều cao chồi cao nhất lần lượt là 7,92cm và 7,88 cm và khác biệt ở mức ý nghĩa 5% so với NT đối chứng và các nghiệm thức còn lại. Sinh khối tươi và khô của mầm cải bẹ xanh sau 14 ngày gieo Sinh khối tươi của cải bẹ xanh sau 14 ngày gieo dao động từ 5,73 g đến 9,68 g/khay. Nghiệm thức BB-30 và BC-50 có sinh khối tươi cao nhất lần lượt là 9,24 g và 9,68g/khay và khác biệt ở mức ý nghĩa 5% so với NT đối chứng. Sinh khối khô của mầm cải bẹ xanh dao Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 89 động từ 0,08g đến 1,25g/khay. Sinh khối khô của cải mầm ở các nghiệm thức được gieo trên giá thể bùn có xử lý cao hơn và khác biệt ở mức ý nghĩa 5% so với nghiệm thức đối chứng. Nghiệm thức BC-50 cho sinh khối khô cao nhất là 1,25 g/khay và khác biệt ở mức ý nghĩa 5% so với NT đối chứng 0,08 g/khay và các NT còn lại. Các NT BB- 30, BB-50 và BC-30 có sinh khối khô cao hơn lần lượt là 0,76 g/khay, 0,64 g/khay và 0,74 g/khay cao hơn và khác biệt ở mức ý nghĩa 5% so với NT đối chứng. Bảng 5: Kết quả thí nghiệm đánh giá sự nảy mầm của hạt cải bẹ xanh trên các giá thể Nghiệm thức Tỉ lệ nẩy mầm (%) Chiều cao chồi (cm/chồi) Sinh khối tươi (g/ khay) Sinh khối khô (g/khay) Đối chứng (Đất) 91,00 5,63 b 5,73 b 0,08 c BB-30 96,33 9,72 a 9,24 a 0,76 b BB-50 95,33 6,53 ab 7,31 ab 0,64 b BC-30 92,33 6,62 ab 7,67 ab 0,74 b BC-50 97,33 7,88 a 9,68 a 1,25 a CV(%) 4,11 5,3 10,2 18,2 Ghi chú: Các ký tự a,b,c cho giá trị khác biệt ý nghĩa thống kê 5% . BB-30: bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30%; BB-50: bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50%; BC-30: bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30%; BC-50: bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50%. Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng của phân hữu cơ là đánh giá các hợp chất gây độc cho cây trồng (phytotoxicity) thông qua phương pháp đánh giá sự nảy mầm của hạt gống và các vi sinh vật gây bệnh môi trường (Lannotti và ctv., 1993). Qua kết quả xử lý mẫu bùn và đánh giá sự nảy mầm của cải bẹ xanh cho thấy ở các nghiệm thức bùn có xử lý nhiệt thì mật số vi sinh vật môi trường gây bệnh giảm dưới ngưỡng cho phép và đạt yêu cầu cho việc sử dụng các nguồn bùn thải làm phân hữu cơ tuy nhiên đối với chỉ tiêu đánh giá tỉ lệ nẩy mầm của cải xanh thì hai nghiệm thức BB-30 và nghiệm thức BC-50 có tỉ lệ nẩy mầm cao và đáp ứng được yêu cầu đối với nguồn bùn cho việc sử dụng làm phân hữu cơ. Ở hai nghiệm thức này, chiều cao chồi, trọng lượng tươi và khô của cải mầm phát triển tốt, cao khác biệt ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại. Do đó BB-30 và BC-50 được tiếp tục sử dụng như là nguồn phân hữu cơ bón cho cải bẹ xanh. 3.5 Đánh giá năng suất của cải bẹ xanh (Brassica Juncea) được bón phân hữu cơ từ hai nguồn bùn bia và bùn cá sau khi xử lý phơi nắng phối trộn với bùn mía Số bẹ/cây Dựa vào kết quả Bảng 6 cho thấy NT BB:BM (50:50), BC:BM (50:50) và BC:BM (20:80) có số bẹ dao động trong khoảng 8,7 – 10,2 bẹ nhiều hơn và khác Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 90 biệt ở mức ý nghĩa 5% so với NT đối chứng (7,62 bẹ/cây) nhưng không khác biệt với các nghiệm thức còn lại. Qua kết quả cho thấy các nghiệm thức sử dụng bùn bia và bùn cá xử lý có phối trộn với bùn mía ở tỉ lệ thích hợp có số bẹ/cây nhiều hơn NT đối chứng và tương đương với nghiệm thức sử dụng phân hữu cơ bùn mía. Kết quả này cho thấy phân hữu cơ bùn thải từ nhà máy sản xuất bia và chế biến cá chứa đầy đủ dưỡng chất giúp cải xanh tăng trưởng tốt hơn và điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu về sử dụng phân hữu cơ giúp cải thiện chất lượng đất và tăng hiệu quả sử dụng phân vô cơ (Dương Minh Viễn, 2011; Trần Thị Ba và ctv., 2009; Nguyễn Mỹ Hoa và Trịnh Thu Trang, 2008) Chiều cao cây Kết quả Bảng 6 cho thấy chiều cao cải bẹ xanh ở NT BB:BM (50:50) là 30,9 cm, cao hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5% so với NT đối chứng (Đất) nhưng không khác biệt so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả trên có thể là do chất hữu cơ làm tăng khả năng đệm và các chất dinh dưỡng chủ yếu là đạm, lân và làm tăng hiệu quả của phân hóa học khi bón vào đất nên các nghiệm thức có bón phân hữu cơ có chiều cao cây tương đối cao hơn so với nghiệm thức không bón phân hữu cơ và có thể một phần do đặc tính sinh học của cải xanh (Nguyễn Mỹ Hoa và Trịnh Thị Thu Trang, 2008; Dương Minh Viễn, 2011; Cao Văn Phụng và ctv., 2010). Trọng lượng tươi và khô của cải bẹ xanh Trọng lượng tươi của cải dao động trong khoảng 40,02 - 113,18g/chậu (Bảng 6). Ở tất cả các NT có sử dụng bùn bia (BB) và bùn cá (BC) phối trộn với bùn mía thì có trọng lượng tươi cao hơn và có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5% so với nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức PHC- bùn mía lần lượt là 40,02g và 45,24g/chậu. Trọng lượng khô của cải bẹ xanh dao động từ 6,24 – 8,33g/ chậu. Ở tất cả các NT có sử dụng BB và BC thì có trọng lượng khô cao hơn và có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5% so với nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức PHC- bùn mía lần lượt là 6,24g và 7,16g/chậu. Trong đó NT BC:BM (50:50) có trọng lượng khô cao nhất là 8,33g/chậu cao hơn và có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5% so với nghiệm thức đối chứng và các nghiệm thức còn lại. Các nghiệm thức có sử dụng BB-30 và BC-50 làm phân bón đạt trọng lượng tươi và trọng lượng khô cao hơn so nghiệm thức đối chứng và NT PHC Bùn mía. Thêm vào đó tỉ lệ phối trộn của BB và BC với bùn mía ở tỉ lệ 50:50 thì cả trọng lượng tươi và khô của cải bẹ xanh cao và khác biệt so với nghiệm thứ đối chứng điều này cho thấy khi sử dụng hai nguồn bùn có tỉ lệ phối trộn phù hợp giúp cải thiện năng suất cũng như chất lượng cải bẹ xanh (Bảng 6). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 91 Kết quả này phù hợp với nghiên cứu Nguyễn Mỹ Hoa và Trịnh Thu Trang (2008) cho thấy phân hữu cơ cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho cây trồng, các kích thích tố sinh dưỡng và các vitamin giúp tăng hiệu quả sử dụng phân hóa học làm cho cây trồng phát triển tốt hơn khi chỉ bón phân hóa học hoặc chỉ bón phân hữu cơ. Bảng 6: Đánh giá một số chỉ tiêu của cải bẹ xanh được bón phân hữu cơ từ hai nguồn bùn được xử lý Nghiệm thức Số bẹ/cây Chiều cao cây (cm/cây) Sinh khối tươi (g/ chậu) Sinh khối khô (g/chậu) Đối chứng (Đất) 7,62 b 24,3 b 40,02 b 6,24 e BB:BM (50:50) 9,17 a 30,9 a 95,91 a 7,93 b BC:BM (50:50) 10,2 a 28,03 ab 113,18 a 8,33 a BB:BM (20:80) 8,67 ab 27,7 ab 88,92 a 7,54 cd BC:BM (20:80) 9,73 a 27,73 ab 86,81 a 7,79 bc PHC bùn mía 8,63 ab 26,67 ab 45,24 b 7,16 d CV (%) 6,4 6,6 14,4 13,3 Ghi chú: Các ký tự a,b cho giá trị khác biệt ý nghĩa thống kê 5%. BB:BM (50:50): bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 50: 50; BB:BM (20:80): bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 20: 80; BC:BM (50:50): bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 50: 50; BC:BM (20:80): bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 20: 80; PHC-bùn mía: phân hữu cơ bã bùn mía (công ty PPE). 3.6. Khảo sát mật số vi sinh vật môi trường gây bệnh có trong cải bẹ xanh Từ kết quả phân tích được trình bày ở Bảng 7 cho thấy mật số Coliforms ở các nghiệm thức bón BC/BB có phối trộn với BM và NT đối chứng đều vượt ngưỡng cho phép, trong đó NT BC phối trộn với BM tỉ lệ (50:50) có mật số Coliforms cao nhất là 5,3 x 104, và vượt ngưỡng gây hại theo Quyết định 04: 2007/QĐ-BNN trong sản xuất rau an toàn. Mật số E. coli ở các nghiệm thức phối trộn BC/BB với BM tỉ lệ (20: 80) và nghiệm thức chỉ bón phân hữu cơ bả bùn mía nằm trong ngưỡng cho phép nhưng NT đối chứng (đất) và NT BC được phối trộn với BM (50:50), có mật số vượt ngưỡng cho phép của QCVN 8- 3:2012/BYT (Bảng 7). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 92 Bảng 7: Mật số vi sinh vật gây bệnh trong cải xanh khi thu hoạch Ghi chú: BB:BM (50:50): bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 50: 50; BC:BM (50:50): bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 50: 50; BB:BM (20:80): bùn bia xử lý phơi nắng ở ẩm độ 30% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 20: 80; BC:BM (20:80): bùn cá xử lý phơi nắng ở ẩm độ 50% phối trộn với bùn mía với tỉ lệ 20: 80; PHC-bùn mía: phân hữu cơ bã bùn mía (công ty PPE). (a) Ngưỡng giới hạn mật số Coliforms theo Quyết đinh 04:2007/QĐ-BNN trong sản xuất rau an toàn; (b) Ngưỡng giới hạn mật số E. coli theo QCVN 8-3: 2012/BYT đối với rau ăn sống; KHP: không phát hiện. Cả hai nguồn bùn thải BB-30 và BC- 50 sau khi xử lý qua phơi nắng đều phù hợp cho việc sử dụng làm phân hữu cơ. Hàm lượng dưỡng chất đa lượng N, P, K của hai nguồn bùn thải đều ở mức cho phép, hàm lượng vi lượng, kim loại nặng và thành phần VSV gây hại đều dưới ngưỡng gây hại, phù hợp sử dụng làm phân hữu cơ. Ẩm độ ban đầu của hai loại bùn thải này tương đối cao nên việc xử lý hai nguồn bùn bằng phương pháp phơi nắng trực tiếp vừa làm giảm ẩm độ vừa góp phần diệt các nguồn vi sinh vật môi trường gây bệnh là cần thiết. Thêm vào đó BB-30 và BC-50 sau xử lý có hàm lượng dinh dưỡng cao nhưng độ xốp rất thấp nên sự phối trộn của BB và BC được xử lý với bùn mía giúp gia tăng độ tơi xốp của hai nguồn bùn. Vì vậy hai nguồn bùn thải được phối trộn với bã bùn mía khô được xem là nguồn chất hữu cơ hiệu quả bón cho đất. Qua kết quả phân tích cho thấy mật số VSV gây bệnh trong cải bẹ xanh ở các nghiệm thức được bón BC/BB phối trộn với bùn mía có xu hướng thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng đất ngoại trừ mật số Coliforms trong nghiệm thức BC:BM (50:50). Tuy nhiên, mật số của nhóm vi sinh vật gây bệnh đều vượt ngưỡng cho phép trên rau ăn lá, có thể là do mật số của các nhóm vi khuẩn này hiện diện trong đất, trong khi các nguồn phân hữu cơ chưa thể hiện vai trò ức chế nguồn vi sinh vật gây bệnh cho người hiện diện trong đất. Trong quá trình chuẩn bị đất trồng thí nghiệm mẫu đất được phơi khô không khí và được được trộn với phân hữu cơ trước khi trồng cải và trong quá trình phát triển các lá cải phủ mặt đất và ẩm độ đất trong chậu cao đã tạo điều kiện thuận Mẫu Mật số vi sinh vật ( CFU/g chất khô) Coliforms E.coli Salmonella Đối chứng (Đất) 7400 1710 0 BB:BM (50:50) 6 000 1100 0 BC:BM ( 50:50) 53000 1700 0 BB:BM (20:80) 3800 754 0 BC:BM (20:80) 5400 387 0 PHC Bùn mía 1782 712 0 Ngưỡng cho phép(*) < 10 (a) 100 – 1000 (b) KPH Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 93 lợi cho các nhóm vi sinh vật này phát triển. Kết quả này được thể hiện rõ ở nghiệm thức đối chứng chỉ sử dụng đất và bón phân vô cơ cho cải. 4. KẾT LUẬN Việc xử lý hai nguồn bùn thải bằng phương pháp phơi nắng giúp giảm mật số vi sinh vật môi trường gây bệnh cho người dưới ngưỡng cho phép và không làm thay đổi hàm lượng dinh dưỡng có trong hai nguồn BB và BC. Sử dụng trực tiếp hai nguồn BB-30 và BC-50 qua quá trình xử lý phơi nắng không ảnh hưởng đến tỉ lệ nẩy mầm của hạt cải bẹ xanh. Hai nguồn này được phối trộn với bùn mía ở các tỉ lệ khác nhau làm phân hữu cơ bón cho cải xanh giúp tăng năng suất của cải xanh nhưng chưa có hiệu quả trong việc ức chế vi sinh vật gây bệnh cho người hiện diện trong đất trồng cải. Do đó, cần nghiên cứu xử lý đất cho phù hợp kết hợp với bón phân hữu cơ BB và BC để đạt chất lượng rau ăn lá. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được sự hỗ trợ kinh phí từ Trường Đại học Cần Thơ. Cảm ơn sự góp ý của phản biện và Ban Biên tập của tạp chí. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson, M.S., 1959. Fertilizing characteristics of sewage sludge. Water environment federation. Sewage and Industrial waste, 6: 678- 682. 2. Bùi Thị Nga, Phạm Việt Nữ, Đoàn Thị Anh Thu, Nguyễn Mỹ Hoa, Châu Minh Khôi, Trương Thị Nga, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thị Như Ngọc, và Trịnh Công Đoàn, 2014. Nghiên cứu sử dụng bùn cống thải sản xuất phân hữu cơ tại thành phố Cần Thơ. Đề tài Khoa học và công nghệ thành phố Cần Thơ. 3. Cabaret, J., S. Geerts, M. Madeline, C. Ballandonne and D. Barbier, 2002. The use of urban sewage sludge on pastures—the cysticercosis threat. Vet. Res., 33: 575-597. 4. Cao Văn Phụng, Stephanie Brich, Nguyễn Thủy Tiên và Richard Bell, 2010. Xử lý chất thải rắn bằng nuôi trùn đất – bao gồm tiềm năng về thị trường và sản phẩm thu hồi phân trùn và trùn đất làm thức ăn cho cá, phân tích tài chính và lợi ích cho tiểu nông. Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL. 36 trang. 5. Dương Minh Viễn, Trần Kim Tính, Võ Thị Gương. 2011. Ủ phân hữu cơ và hiệu quả cải thiện chất lượng đất và năng suất cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Chi nhánh TPHCM.136 trang. 6. Fytili, D. and A. Zabaniotou, 2008. Utilization of sewage sludge in EU application of old and new methods - A review. Renewable and sustainable energy reviews, 12: 116 – 140. 7. Goldfarb, W., U. Krogmann and C. Hopkins, 1999. Unsafe sewage sludge or beneficial biosolids? Liability, planning, and management issues regarding the land application of sewage treatment residuals. Boston College Environ. Aff. Law Rev., 26: 687. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 94 8. Hodgson, C.J., J. Perkins and J.C. Labadz, 2004. The use of microbial tracers to monitor seasonal variations in effluent retention in a constructed wetland. Water Res., 38: 3833-3844. 9. Kanagachandran, K. and R. Jayaratne, 2006. Utilization potential of brewery waste water sludge as an organic fertilizer. Journal of the institute of brewing, 112: 92 – 96. 10. Ki, W., B. Ahn and T. Park, 1979. Studies on the activated sludge of food industries for animal feed. 2. Nutritive value of brewery's activated sludge. Korean journal of food science & technology, 11: 1 – 7. 11. Lâm Ngọc Tuyết, 2017. Ủ phân hữu cơ từ bùn thải của nhà máy sản xuất bia và chế biến thủy sản ở Đồng Bằng sông Cửu Long. Luận văn thạc sĩ ngành Khoa học đất. Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ. 12. Lannotti, D.A., T. Pang, B.L. Toth, D.L. Elwell, H.M. Keener and H.A.J. Hoitink, 1993. A quantitative respirometric method for monitoring compost stability. Compost Sci. Util., 1: 52–65. 13. Ngô Ngọc Hưng, Nguyễn Quốc Khương và Trần Ngọc Hữu, 2014. Ảnh hưởng của bón cân đối dưỡng chất lên năng suất của bắp lai trồng trên đất phù sa không được bồi. Tạp chí Nông Nghiệp và phát triển nông thôn, 15: 59 – 64. 14. Nguyễn Mỹ Hoa và Trịnh Thị Thu Trang, 2008. Sự khoáng hóa đạm trên một số loại đất phèn vùng ĐBSCL. Tạp chí Khoa học Đất. 15. Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Mỹ Hoa, Đỗ Thị Xuân, Võ Thị Thu Trân và Lâm Ngọc Tuyết, 2016. Đặc tính bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải của nhà máy sản xuất bia và chế biến thủy sản. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 45a: 74-81. 16. Nguyễn Văn Mạnh, 2015. Nghiên cứu phương pháp ủ phân hữu cơ từ bùn đáy ao nuôi tôm thâm canh nước mặn. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường. Đại học Cần Thơ. 17. Rebah, F. B., D. Prévost, R. D.Tyagi and L. Belbahri, 2009. Poly-β- hydroxybutyrate production by fast- growing Rhizobia cultivated in sludge and in industrial wastewater. Applied biochemistry and biotechnology 158(1): 155-163. 18. Saviozzi, A., R. Levi-Minzi, R. Cardelli, and R. Riffaldi, 2001. A comparison of soil quality in adjacent cultivated, forest and native grassland soils. Plant and soil, 233(2): 251-259. 19. Seginer, I. and M. Bux, 2006. Modeling solar drying rate of wastewater sludge. Dry. Technol., 24: 1353-1363. 20. Singh, R.P.; Agrawal, M, 2008. Potential benefits and risks of land application of sewage sludge. Waste.Manage. 28: 347-358 Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 95 21. Thomas, K. and P. Rahman, 2006. Brewery wastes. Strategies for sustainability. A review. Aspects of Applied Biology, 80: 147 – 153. 22. Trần Phương Đông, 2013. Nghiên cứu sử dụng chế phẩm Biomix ủ bùn cống thải phối trộn với vật liệu hữu cơ. Luận văn Thạc sĩ ngành Khoa học môi trường, Khoa Môi trường, Trường Đại học Cần Thơ. 23. Trần Thị Ba, Võ Thị Bích Thủy, Phùng Thị Nguyệt Hồng, Nguyễn Mỹ Hoa, Lê Phú Duy và Tô Như Ái, 2009. Hiệu quả phân hữu cơ sinh học lên năng suất rau muống tại Phụng Hiệp. Tỉnh Hậu Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 11: 335 – 344. 24. Trương Quốc Phú, Trần Kim Tín và Huỳnh Trường Giang, 2012. Khả năng sử dụng bùn thải ao nuôi vá tra (Pangasianodon Hypophthalmus) thâm canh cho canh tác lúa. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 24a: 135 – 143. 25. Võ Phú Đức, 2013. Xây dựng quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ nguồn bùn thải phát sinh trong quá trình chế biến cá tra. Đề tài Khoa học và công nghệ tỉnh Đồng Tháp. 26. Võ Thị Kiều Thanh, Lê Thị Ánh Hồng và Phùng Huy Huấn, 2012. Nghiên cứu sản xuất phân vi sinh cố định đạm từ bùn thải nhà máy bia Việt Nam. Tạp chí sinh học, 34(3SE):137- 144. 27. Warman P.R., 1999. Evaluation of seed germination and growth tests for assessing compost maturity. Compost science and Utilization. 7(3):33- 37. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 96 EFFICIENCY OF DRIED BEER AND CATFISH SLUDGE WASTES ON GROWTH AND YEILD OF VEGETABLE GROWN UNDER THE GREENHOUSE CONDITION Do Thi Xuan1, Nguyen Thi Phuong2, Nguyen My Hoa1, Tran Nam Kha3 và Truong Thuy Linh1 1 Can Tho University (Email: dtxuan@ctu.edu.vn) 2 Dong Thap University 3Nong Thien Viet Co,. Ltd. ABSTRACT This study was conducted with an aim to evaluate the efficiency of dried beer (BB) and catfish sludges (BC) as organic fertilizer on growth and yield of vegetables. The sludge wastes were treated by directly exposing under the sunshine at three levels of waste moistures i.e. 10%, 30% and 50% to treat human pathogens. The treated sludge wastes of BB and BC were analyzied chemical, heavy metal contaminants, and human pathogens (disease causing mirobes) parameters. These treated sludges were mixed with sugar filter cake (BM) and applied with a dose of two tons per hecta for mustard planting in the greenhouse. Results showed that population of human pathogens and heavy metal properties of BB and BC after treated were below the standard permission for organic fertilizer. The germination percentage of mustard seeds on the BB-30 and BC-50 substrace treaments was significantly higher than that on the control treatment. Fresh and dry weight of mustard biomass grown on the treatments applied by BB:BM (50:50), BC:BM (50:50) and BC:BM (20:80) were significantly higher than those on the control and sugarcane filter cake fertilizer treatments. The treated wastes of BB-30 and BC-50 had improved growth and yield of mustrard. However, population of pathogens including Coliforms and E. coli inhabiting mustard leaves of these treatments were exceeded the standard limits for vegetables. Therefore, the effective treatment of soil surface for growing vegetables plays important roles to eliminate soil population of human pathogens. Key words: beer sludge waste, catfish sludge, murstard, germination, human pathogen.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_bun_thai_bia_va_bun_ca_duoc_xu_ly_phoi_nang_tre.pdf
Tài liệu liên quan