Xét về các biến chứng, dùng bóng IABP có
thể sẽ có 3 nhóm biến chứng chính như sau: biến
chứng mạch máu, biến chứng nhiễm trùng và
biến chứng giảm tiểu cầu. Trong 2 nhóm bệnh
nhân của chúng tôi, tỉ lệ các biến chứng gặp
phải tương đối thấp và không có sự khác biệt về
tỉ lệ biến chứng giữa 2 nhóm (5 ca vs 4 ca), trong
đó chúng tôi gặp chủ yếu là biến chứng giảm
tiểu cầu (có thể do bóng hoặc do sử dụng
Heparin), chỉ có 1 trường hợp bệnh nhân bị
thiếu máu cục bộ ở chân có dùng bóng. Theo các
tác giả nước ngoài, trong tất cả các biến chứng,
biến chứng thuyên tắc chi thường gặp nhất với
tỷ lệ từ 8% đến 42% tùy tác giả. Một nghiên cứu
mới đây tại Đức(12) nhận xét rằng những người
bị biến chứng thuyên tắc mạch máu chi có tỷ lệ
tử vong cao hơn đáng kể (60% so với 30%,
p<0,001) so với nhóm không mắc phải biến
chứng này. Nhiều báo cáo khác cũng cho kết
quả tương tự. Người ta đã nêu ra các yếu tố
được xem là yếu tố nguy cơ độc lập của biến
chứng mạch máu khi dùng IABP như sau: nữ
giới, tiền sử bệnh mạch máu ngoại biên, có bệnh
tiểu đường đi kèm. Vài yếu tố nguy cơ khác như
thời gian dùng bóng kéo dài, hút thuốc lá, cao
huyết áp cũng được đề cập tới. Và thời gian
dùng bóng trong cả 2 nhóm cũng không khác
biệt (107 giờ vs 134 giờ, với giá trị p không có ý
nghĩa thống kê). Điều này cho thấy việc dùng
bóng khá an toàn, cho dù sử dụng bóng sớm thì
các biến chứng và thời gian dùng bóng cũng
không kéo dài hơn. Theo nhiều chuyên gia, tỉ lệ
nhiễm trùng do dùng bóng đối xung cũng khá
thấp, nếu bóng được dùng không quá 7 ngày
(168 giờ). Nhưng vấn đề là cần thao tác tuyệt đối
vô trùng khi đặt bóng, thường xuyên theo dõi
chân catheter nơi đặt bóng, để kịp thời phát hiện
nhiễm trùng nếu có.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của dùng bóng đối xung sớm trên các bệnh nhân nguy cơ cao được phẫu thuật tim hở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 109
HIỆU QUẢ CỦA DÙNG BÓNG ĐỐI XUNG SỚM
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN NGUY CƠ CAO ĐƯỢC PHẪU THUẬT TIM HỞ
Lê Trung Hiếu*, Huỳnh Khiêm Huy*
TÓM TẮT
Sử dụng bóng đối xung sớm cho các bệnh nhân có nguy cơ cao cần phẫu thuật tim hở ngày càng trở nên
phổ biến trên thế giới.
Mục tiêu: nhằm đánh giá hiệu quả của việc dùng bóng đối xung sớm có làm giảm: thời gian thở máy, thời
gian nằm hồi sức, tỉ lệ nhiễm trùng, suy thận, tử vong tại hồi sức hay không.
Phương pháp: dữ liệu được thu thập hồi cứu trên 65 ca, chia làm 2 nhóm, nhóm đặt bóng sớm (đặt trước
mổ, trong mổ, hoặc trong 12 giờ đầu sau mổ), và nhóm chứng. Phân tích thống kê và xử lý số liệu 2 nhóm với
phần mềm SPSS.
Kết quả: nhóm dùng bóng sớm so với nhóm chứng giảm rõ rệt lần lượt như sau: thời gian thở máy 90 giờ
so với 243 giờ (p=0,001); thời gian nằm hồi sức 9 ngày so với 16 ngày (p = 0,014); tỉ lệ suy thận cấp 8 ca so với
11 ca (p = 0,05); tỉ lệ nhiễm trùng 5 ca so với 9 ca (p = 0,036); tỉ lệ tử vong 3 ca so với 5 ca (p = 0,165).
Kết luận: dùng bóng sớm cho các bệnh nhân có nguy cơ cao cần phẫu thuật tim hở giúp mang lại hiệu quả
tốt.
Từ khóa: bóng đối xung nội động mạch chủ IABP, thời gian thở máy, thời gian nằm hồi sức, nhiễm trùng,
suy thận, tử vong hồi sức.
ABSTRACT
EFFICACY OF EARLY INTRA-AORTIC BALLOON PUMPING IN HIGH-RISK PATIENTS
UNDERGONE OPEN HEART SURGERY
Le Trung Hieu, Huynh Khiem Huy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 109 - 115
Early intraaortic balloon pumping (IABP) in high - risk patients having open heart surgery is becoming
more frequent over the world.
Purpose: determine the efficacy of IABP based on the following criteria: ventilation time, ICU stay,
prevalence of infection, acute renal insufficience, mortality.
Methods: Retrospectively collected data for 65 patients, devided in 2 groups: group with preoperative,
intraoperative, or in 12 hours postoperative IABP usage and control group. Statistical analysis with SPSS
software.
Results: the prevalence of those criteria is significantly decreased in study group compared with the control
group: ventilation time 90 hours vs 243 hours (p=0.001); ICU stay 9 days vs 16 days (p0.014); prevalence of
acute renal insufficience 8 cases vs 11 cases (p=0.05); prevalence of infection 5 cases vs 9 cases (p=0.036);
mortality 3 cases vs 5 cases (p=0.165).
Conclusion: the use of preoperative, intraoperative, or in 12 hours postoperative intraaortic balloon pump
(IABP) in high - risk patients will have the good result.
Key words: Intra-aortic balloon counterpulsation; ventilation time; ICU stay; infection; acute renal
* Bệnh viện Tâm Đức, Tp. HCM
Tác giả liên lạc: Bs Lê Trung Hiếu, ĐT: 0985734614, Email: bsletrunghieu@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 110
insufficience; mortality.
MỞ ĐẦU
Ngày nay, tại nước ta, theo đà tiến bộ của y
học, ngày càng có nhiều bệnh nhân mắc bệnh
tim được chữa trị, kể cả được phẫu thuật. Tuy
nhiên, do sự phát triển không đồng đều giữa
thành thị và nông thôn, nên không phải bệnh
nhân nào cũng được chữa trị và phẫu thuật
sớm. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của
ngành thông tim can thiệp trong những năm
gần đây, các bệnh nhân cần được phẫu thuật bắc
cầu nối động mạch vành thường đã vào giai
đoạn cuối của bệnh với tình trạng thiếu máu cơ
tim nặng do hẹp nhiều nhánh động mạch vành
và chức năng tim kém. Vì thế, tại bệnh viện
chúng tôi, các bệnh nhân có nguy cơ cao như:
chức năng thất trái kém, có nhiều bệnh lý đi kèm
theo như tăng huyết áp, tiểu đường, suy thận
mạn tínhcần phẫu thuật tim chiếm một tỉ lệ
khá cao. Khi phẫu thuật cho các bệnh nhân này,
việc hỗ trợ tuần hoàn trong ngắn hạn với bóng
đối xung nội động mạch chủ (IABP) là rất cần
thiết. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là cần phải
dùng bóng vào thời điểm nào là tốt nhất cho
việc hồi sức bệnh nhân. Vì thế, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này để xem liệu việc sử dụng
bóng trước, trong, hoặc sớm ngay sau mổ
những trường hợp bệnh nặng như trên có giúp
cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân hay không.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Bệnh nhân
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu
mô tả cắt ngang và thu thập số liệu từ 65 ca
nguy cơ cao từ tháng 05 / 2006 đến tháng 06 /
2011 được phẫu thuật tim hở tại bệnh viện tim
Tâm Đức (Bảng 1). Tuổi trung bình của các
bệnh nhân là 43 tuổi. Bệnh nhân được chia
làm 02 nhóm. Nhóm được đặt bóng IABP
sớm, có nghĩa là bệnh nhân được đặt bóng
chủ động trước mổ vì tình trạng suy tim nặng,
hoặc đặt bóng trong khi mổ vì khó cai máy
tuần hoàn ngoài cơ thể, hoặc đặt bóng trong
vòng 12 giờ đầu tiên tại hồi sức vì chức năng
thất trái kém với EF trên siêu âm < 30%.
Nhóm chứng là nhóm được đặt bóng muộn,
có nghĩa là những bệnh nhân được đặt bóng
muộn hơn 12 giờ sau khi qua tới hồi sức, hoặc
những bệnh nhân nặng nhưng không được sử
dụng bóng đối xung IABP tại hồi sức (do
không có phương tiện). Nguy cơ cao được
định nghĩa là có chức năng thất trái trước mổ
hoặc sau mổ kém (với EF đo được trên siêu
âm thành ngực hoặc qua thực quản < 30%),
đau thắt ngực không ổn định không đáp ứng
với điều trị nội khoa hoặc nhồi máu cơ tim
trước mổ. Trong cả 2 nhóm, tỉ lệ các bệnh
nhân có các yếu tố nguy cơ tim mạch kèm
theo như tiểu đường, tăng huyết áp, hút thuốc
lá, rối loạn lipid máu hầu như không khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Hầu hết những bệnh
nhân trong nghiên cứu đều suy tim trước mổ
với phân độ NYHA ≥ 3, và có chức năng thận
đánh giá qua GFR trước mổ tương đối tốt.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm Đặt IABP muộn (n= 26)
Đặt IABP
sớm (n=39)
p
value
Tuổi 43,46 (±19) 42,49 (±12) 0,82
Nam 13 26 0,179
BMI 18,86 (±3,8) 19,66 (±3,6) 0,389
Đái tháo đường 1 4 0,342
Tăng huyết áp 4 8 0,602
Hút thuốc lá 2 8 0,16
Rối loạn lipid máu 1 2 0,809
NHYA ≥ 3 7 18 0,118
GFR 56 (±14) 67(±19) 0,013
Chỉ số tim / lồng
ngực 0,61(±0,07) 0,68(±0,12) 0,014
EUROscore
STANDARD 2,77 3,64 0,135
Đặc điểm phẫu thuật
Phần lớn bệnh nhân được phẫu thuật van
tim và bắc cầu động mạch vành. Trong đó
chiếm tỉ lệ nhiều nhất là phẫu thuật sửa và/hoặc
thay 02 van bao gồm van 2 lá và van động mạch
chủ (50% và 41%), các bệnh nhân mổ bắc cầu
động mạch vành có hoặc không có kết hợp với
phẫu thuật van tim cũng chiếm 1 tỷ lệ khá cao
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 111
(23% và 13%). Những bệnh nhân được phẫu
thuật 1 van 2 lá hoặc van động mạch chủ chiếm
tỉ lệ thấp hơn. Thấp nhất là những bệnh nhân
được phẫu thuật 3 van (van 2 lá, van động mạch
chủ, van 3 lá) và những bệnh nhân được phẫu
thuật bắc cầu động mạch vành đơn độc. Như
vậy, đặc tính bệnh tật ở cả 2 nhóm là khá tương
đồng nhau. Tất cả các bệnh nhân đều được sử
dụng tuần hoàn ngoài cơ thể trong lúc mổ, với
nhiệt độ cơ thể trong khoảng từ 300C đến 370C
tùy theo phẫu thuật viên. Bảo vệ cơ tim bằng
dung dịch tinh thể lạnh ngắt quảng theo đường
xuôi dòng (antegrade) hoặc ngược dòng
(retrograde)
(Bảng 2).
Bảng 2
ĐẶC ĐIỂM
ĐẶT
MUỘN (n=
26)
ĐẶT SỚM
(n=39)
p
value
Loại phẫu thuật
một van 3 (11,5%) 6 (15,3%)
hai van 13 (50%) 16 (41%)
ba van 2 (7,6%) 6 (15,3%)
van + bắc cầu
mạch vành 6 (23%) 5 (13%)
mạch vành 2 (7,6%) 6 (15,3%)
Thời gian tuần
hoàn ngoài cơ thể 108,42 142,97 0,004
Thời gian kẹp
động mạch chủ 64,69 79,87 0,04
LVFE(%) lúc đặt
IABP 28,65 29,59 0,737
Phương tiện
Bóng đối xung nội động mạch chủ: chúng
tôi sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ
loại 8F của Datascope hoặc 7F của Insightra, đặt
theo kỹ thuật có sheat hoặc không sheat qua ngã
động mạch đùi, sau đó kiểm tra lại trên XQ để
điều chỉnh vị trí đầu bóng khi có điều kiện. Máy
bơm bóng là Datascope CS100.
Phân tích thống kê
Phân tích thống kê với phần mềm SPSS.
KẾT QUẢ
Chúng tôi cùng phân tích các tiêu chí như:
thời gian thở máy trung bình, thời gian nằm hồi
sức trung bình, LVEF lúc chuyển trại, suy thận
cấp sau mồ, nhiễm trùng, tử vong tại hồi sức
giữa 2 nhóm trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
phân tích 2 yếu tố là thời gian dùng bóng và tỉ lệ
biến chứng do bóng gây ra ở cả 2 nhóm. Mục
đích là để xem xét có sự khác biệt về thời gian
dùng bóng và tỉ lệ biến chứng ở nhóm dùng
sớm so với nhóm chứng hay không. Kết quả
phân tích thu được như sau (Bảng 3).
Bảng 3
ĐẶC ĐIỂM
ĐẶT
MUỘN
(n= 26)
ĐẶT
SỚM
(n=39)
p value
Thời gian thở máy
trung bình (giờ) 243 90 0,001
Thời gian dùng vận
mạch trung bình
(ngày)
13 5 <0,001
Thời gian nằm hồi
sức trung bình
(ngày)
16 9 0,014
LVEF (%) trung
bình lúc chuyển trại 36,15 37,08 0,815
Suy thận có lọc thận 11 8 0,05
Nhiễm trùng 9 5 0,036
Biến chứng của
bóng 4 5 0,483
Thời gian dùng
bóng (giờ) 135 107 0,25
Tử vong hồi sức 5 3 0,165
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi là nhằm đánh giá
hiệu quả của việc sử dụng bóng đối xung nội
động mạch chủ một cách chủ động và sớm cho
những trường hợp suy tim nặng trước và sau
mổ có ảnh hưởng như thế nào đến các vấn đề
thường được quan tâm trong hồi sức như thời
gian nằm hồi sức, thời gian thở máy, tỉ lệ nhiễm
trùngnhư đã trình bày trong bảng kết quả như
trên (Bảng 3). Qua đó xem xét áp dụng việc chỉ
định sử dụng bóng IABP chủ động hơn trong
phẫu thuật tim nói chung.
Về yếu tố thời gian thở máy, nhóm đặt bóng
sớm rút ngắn đáng kể thời gian thở máy, trung
bình là gần 04 ngày (90 giờ), so với nhóm đặt
muộn là hơn 10 ngày (243 giờ) (p=0,001). Trước
đây, khi bệnh nhân chưa được dùng bóng IABP,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 112
chúng tôi thường phải duy trì máy thở cho bệnh
nhân đến khi nào thấy cải thiện chức năng tim
trên lâm sàng và trên siêu âm, khi đó mới cai
máy thở. Bởi lẽ, như chúng ta đều biết, khi bệnh
nhân thở máy, công của tim được giảm đi 1 cách
đáng kể, nhờ đó tim có cơ hội để hồi phục chức
năng. Nhưng nhiều tác giả(12) cũng chứng minh
rằng bệnh nhân ở hồi sức thở máy trên 48 giờ thì
nguy cơ nhiễm trùng phổi cũng gia tăng 1 cách
đáng kể theo thời gian thở máy. Khi dùng bóng
chủ động, chúng tôi cố gắng cai máy thở sớm
cho bệnh nhân mà không sợ ảnh hưởng đến
chức năng thất trái, vì bóng đối xung là 1 trong
những phương tiện hỗ trợ thất trái rất hiệu quả.
Việc cai thở máy sớm rất có ý nghĩa trong việc
phòng ngừa và kiểm soát viêm phổi thở máy
đối với bệnh nhân nằm hồi sức. Tỉ lệ nhiễm
trùng ở nhóm sử dụng bóng sớm cũng giảm 1
cách rõ rệt 5 ca so với nhóm chứng là 9 ca nhiễm
trùng (p < 0,05). Nhiễm trùng ở đây chúng tôi
định nghĩa là những ca có kết quả cấy định
danh được vi trùng (cấy đàm, cấy máu, cấy chân
catheter, chân điện cực). Điều này có được là
do chủ động rút ngắn thời gian thở máy, cho
bệnh nhân ngồi dậy (mặc dù còn đang dùng
bóng IABP), ho khạc, vận động và tập vật lý trị
liệu sớm, kết hợp với thường xuyên chăm sóc
những vị trí xâm lấn dễ có nguy cơ nhiễm trùng
như chân catheter, điện cựcNhư chúng ta đều
biết, nhiễm trùng luôn là vấn đề đau đầu với
những người làm hồi sức. Nó làm kéo dài thời
gian nằm hồi sức, kéo dài thời gian nằm viện,
tăng chi phí rất đáng kể cho bệnh viện và bệnh
nhân, không những thế, nó còn làm tăng tỉ lệ tử
vong.
Khi xem xét đến yếu tố suy thận cấp sau mổ,
chúng tôi thấy có sự cải thiện có ý nghĩa giữa
nhóm đặt bóng sớm và nhóm chứng (8 ca so với
11 ca, p=0,05). Suy thận cấp sau mổ cũng là vấn
đề thường gặp khi phẫu thuật những ca bệnh
nặng, với những yếu tố nguy cơ như trên đã
trình bày. Điều trị suy thận cấp sau mổ thường
phải kết hợp nhiều yếu tố như: cải thiện huyết
động, cải thiện cung lượng tim, giảm thiểu các
tác nhân gây độc cho thận, bên cạnh việc tiến
hành thẩm phân phúc mạc hoặc lọc thận liên
tục. Trên thực tế, khi không có hỗ trợ của bóng
IABP, việc cải thiện huyết động chủ yếu dựa
vào thuốc vận mạch, nhưng 1 số trong những
thuốc này (VD: noradrenaline) lại làm giảm tưới
máu thận, do đó tình trạng suy thận cấp sẽ lâu
hồi phục. Khi có bóng đối xung hỗ trợ, huyết
động được cải thiện khá tốt, cung lượng tim
mau hồi phục hơn, bên cạnh việc dùng ít thuốc
vận mạch và với liều thấp, đó là những yếu tố
góp phần giúp cải thiện tình trạng suy thận cấp
sau mổ.
Như đã nói ở trên, khi quyết định dùng
bóng IABP sớm cho bệnh nhân, chúng tôi chủ
trương dùng ít thuốc vận mạch, dùng 1 hoặc 2
thứ thuốc, thường là Dobutamine và
Adrenaline, và dùng với liều lượng thấp
(Dobutamine 5 – 6 µg/kg/phút, Adrenaline tối
đa 0,1 µg/kg/phút). Chúng tôi căn cứ vào các
dấu hiệu lâm sàng tại hồi sức để đánh giá tình
trạng cung lượng tim và tưới máu mô. Nếu
bệnh nhân tỉnh táo, tay chân ấm, không bị toan
chuyển hóa, nồng độ lactate máu không cao,
chúng tôi chủ động giảm liều thuốc vận mạch.
Có lẽ vì thế, thời gian sử dụng thuốc vận mạch
cũng được rút ngắn 1 cách đáng kể giữa nhóm
dùng bóng sớm (5 ngày) so với nhóm dùng
bóng muộn (13 ngày) và so sánh này có ý nghĩa
thống kê với p< 0,001. Việc dùng thuốc vận
mạch liều thấp và rút ngắn thời gian dùng vận
mạch không chỉ có lợi về mặt kinh tế, nhưng về
mặt sinh lý bệnh, điều này còn giúp tế bào cơ
tim giảm bớt nhu cầu tiêu thụ oxy (vốn là vấn
đề phải gặp khi dùng vận mạch liều cao kéo
dài). Bên cạnh đó, tác dụng hỗ trợ của bóng đối
xung IABP càng làm giảm nhu cầu tiêu thụ oxy
tế bào cơ tim và làm tăng tưới máu mạch vành.
Qua đó, tim sẽ mau có cơ hội hồi phục.
Việc rút ngắn thời gian thở máy, giảm tỉ lệ
nhiễm trùng, giảm bớt tình trạng suy thận cấp
sau mổ, giảm thời gian dùng thuốc vận mạch
sau mổ, vật lý trị liệu sớm như đã trình bày ở
trên sẽ rút ngắn thời gian nằm hồi sức của bệnh
nhân. Nhóm đặt bóng sớm có thời gian nằm hồi
sức trung bình là 9 ngày, so với nhóm chứng là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 113
16 ngày (với p = 0,014). Thời gian nằm hồi sức
rút ngắn sẽ làm giảm đáng kể chi phí điều trị
cho các bệnh nhân nặng, trong đó phải kể đến
chi phí do dùng thuốc vận mạch và thuốc kháng
sinh. Giảm thời gian nằm hồi sức và nằm viện
còn giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện
cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân có cơ hội hồi
phục nhanh hơn.
Khi xem xét đến yếu tố chức năng tim của
bệnh nhân lúc ra khỏi hồi sức, bằng việc đo
phân suất tống máu EF của thất trái, chúng tôi
thấy chức năng thất trái trung bình ở cả 2
nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa (36%
so với 37%). Điều này có thể lý giải là do các
bệnh nhân trước mổ hầu hết đều có suy tim
nặng trong 1 thời gian khá dài trước mổ. Đa
số NYHA trước mổ đều ≥ 3. Với chức năng
tim trước mổ kém như vậy, cho dù có sự hỗ
trợ của bóng đối xung, cho dù đã được phẫu
thuật, nhưng quãng thời gian ngắn ngủi vài
ngày nằm tại hồi sức là không đủ để có thể cải
thiện chức năng tim một cách đáng kể. Bóng
đối xung chỉ giúp cải thiện chức năng tim 1
phần, nhanh chóng đưa bệnh nhân ra khỏi
đợt suy tim cấp sau mổ. Nhưng để cải thiện
chức năng tim thêm nữa thì đòi hỏi phải có 1
thời gian dài theo dõi và điều trị nội khoa.
Tỉ lệ tử vong trong hồi sức ở nhóm dùng
bóng sớm cũng thấp hơn nhóm chứng (7,6%
so với 19,2%), mặc dù giá trị p = 0,16 chưa đủ
thuyết phục, có lẽ do cỡ mẫu nghiên cứu còn
nhỏ. Antonio S và các cộng sự(1) đã thực hiện
1 nghiên cứu so sánh nhằm đánh giá hiệu quả
khi đặt bóng đối xung sớm cho các bệnh nhân
phẫu thuật CABG ngay khi có xảy ra biến
chứng nhồi máu cơ tim chu phẫu với nhóm
chứng không có biến chứng và không dùng
bóng đối xung, tác giả phân tích các kết quả
lâm sàng, sinh hóa, siêu âm khi bệnh nhân
còn nằm viện và theo dõi tiếp 2 năm sau khi
ra viện. Kết quả tại ICU, nhóm biến có
troponine I cao nhưng không bao giờ đạt giá
trị chẩn đoán nhồi máu cơ tim (p<0,001), chức
năng thất trái kém tại hồi sức nhưng hồi phục
nhanh chóng sau đó. Thời gian thở máy, thời
gian nằm viện và tỉ lệ sống còn sau 2 năm ở cả
2 nhóm là như nhau. Feola và cộng sự(9) đã
ghi nhận trong số lượng bệnh nhân được mổ
bắc cầu CABG có chức năng thất trái thấp, các
bệnh nhân được đặt bóng IABP trước mổ có tỉ
lệ nhồi máu cơ tim và tử vong sau mổ thấp
hơn 1 cách đáng kể so với nhóm không có
IABP. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng đã
chứng minh hiệu quả rõ rệt của việc dùng
bóng IABP trước mổ. Trong 1 nghiên cứu
đoàn hệ về nhồi máu cơ tim cần phải mổ bắc
cầu CABG, Creswell và cộng sự(7) đã chứng
minh khuynh hướng dùng bóng IABP trước
mổ có thể làm giảm tỉ lệ bệnh tật và tử vong
giai đoạn sau mổ. Một nghiên cứu đoàn hệ
khác của Dietl và cộng sự(8) chứng minh lợi
ích sống còn của việc dùng bóng IABP trước
mổ trên những bệnh nhân có phân suất tống
máu thất trái EF trước phẫu thuật nhỏ hơn
25%. Thêm vào đó, các tác giả còn chọn ra
nhiều yếu tố dự đoán cho việc cần thiết sử
dụng bóng trong và sau mổ trên những bệnh
nhân này như: mổ lại, đau thắt ngực không
ổn định, hẹp thân chung, nhồi máu cơ tim cấp
trong vòng 7 ngày, bệnh nhân có NYHA III-
IV. Điều này chứng tỏ rằng các bệnh nhân
CABG có phân suất tống máu dưới 25% và 1
hay nhiều hơn các yếu tố kể trên là những
bệnh nhân cần được đặt bóng trước mổ.
Gần đây, một loạt những báo cáo của
Christenson và các cộng sự từ Geneva(2,4,3,5) đã
mô tả kết quả của 2 nghiên cứu tiền cứu ngẫu
nhiên có kiểm chứng (được tiến hành tại 1 trung
tâm). Họ kết luận rằng việc đặt bóng đối xung
trước mổ cho những bệnh nhân mổ mạch vành
CABG có nguy cơ cao có thể làm giảm tử vong
và thời gian nằm viện sau mổ. Các nguy cơ cao
ở đây được định nghĩa là có 2 trong số các tiêu
chuẩn sau: đau thắt ngực không ổn định trơ với
điều trị nội khoa, phân suất tống máu < 40%,
hẹp thân chung trên 70%, hoặc phải mổ lại.
Tổng cộng, trong nhóm chứng có 11 trong số 50
bệnh nhân tử vong, so với nhóm đặt IABP có 3
trong số 62 bệnh nhân tử vong (p = 0,007).
Tuy vậy, việc sử dụng bóng đối xung 1 cách
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 114
tối ưu trong phẫu thuật tim vẫn còn nhiều bàn
cãi, không chỉ tại Việt Nam mà ngay cả trên thế
giới. Vài tranh luận liên quan đến định nghĩa
như thế nào là bệnh nhân nguy cơ cao. Tại một
vài trung tâm, người ta còn lo ngại về việc sử
dụng bóng sẽ làm gia tăng chi phí và tăng tỉ lệ
các biến chứng cho bệnh nhân. Tuy nhiên,
những lợi ích từ việc sử dụng bóng IABP sớm
trong phẫu thuật tim làm cải thiện tưới máu
mạch vành, tưới máu cơ tim, ổn định huyết
động trước, trong và sau khi mổlà những điều
mà hầu hết các tác giả đều công nhận.
Sử dụng bóng đối xung trong mổ nhằm hỗ
trợ cai tuần hoàn ngoài cơ thể từ lâu đã được
áp dụng trong phẫu thuật tim. Tỉ lệ sống còn
của những bệnh nhân cần IABP hỗ trợ trong
mổ là hơn 50%, trong khi những bệnh nhân
này nếu không được hỗ trợ hầu như sẽ tử
vong, không ngưng được tuần hoàn ngoài cơ
thể. Đối với bệnh nhân ở hồi sức, việc dùng
bóng muộn (trên 12 giờ sau khi qua hồi sức)
thường đi cùng với một tiên lượng không khả
quan. Nhiều tác giả đã cho thấy rằng việc
dùng bóng muộn tại hồi sức hậu phẫu tim
cho kết quả không khác gì với những bệnh
nhân không được dùng bóng đối xung, xét về
tỉ lệ các biến chứng như nhiễm trùng, suy
thận, thời gian nằm viện, tỉ lệ tử vong
Xét về các biến chứng, dùng bóng IABP có
thể sẽ có 3 nhóm biến chứng chính như sau: biến
chứng mạch máu, biến chứng nhiễm trùng và
biến chứng giảm tiểu cầu. Trong 2 nhóm bệnh
nhân của chúng tôi, tỉ lệ các biến chứng gặp
phải tương đối thấp và không có sự khác biệt về
tỉ lệ biến chứng giữa 2 nhóm (5 ca vs 4 ca), trong
đó chúng tôi gặp chủ yếu là biến chứng giảm
tiểu cầu (có thể do bóng hoặc do sử dụng
Heparin), chỉ có 1 trường hợp bệnh nhân bị
thiếu máu cục bộ ở chân có dùng bóng. Theo các
tác giả nước ngoài, trong tất cả các biến chứng,
biến chứng thuyên tắc chi thường gặp nhất với
tỷ lệ từ 8% đến 42% tùy tác giả. Một nghiên cứu
mới đây tại Đức(12) nhận xét rằng những người
bị biến chứng thuyên tắc mạch máu chi có tỷ lệ
tử vong cao hơn đáng kể (60% so với 30%,
p<0,001) so với nhóm không mắc phải biến
chứng này. Nhiều báo cáo khác cũng cho kết
quả tương tự. Người ta đã nêu ra các yếu tố
được xem là yếu tố nguy cơ độc lập của biến
chứng mạch máu khi dùng IABP như sau: nữ
giới, tiền sử bệnh mạch máu ngoại biên, có bệnh
tiểu đường đi kèm. Vài yếu tố nguy cơ khác như
thời gian dùng bóng kéo dài, hút thuốc lá, cao
huyết áp cũng được đề cập tới. Và thời gian
dùng bóng trong cả 2 nhóm cũng không khác
biệt (107 giờ vs 134 giờ, với giá trị p không có ý
nghĩa thống kê). Điều này cho thấy việc dùng
bóng khá an toàn, cho dù sử dụng bóng sớm thì
các biến chứng và thời gian dùng bóng cũng
không kéo dài hơn. Theo nhiều chuyên gia, tỉ lệ
nhiễm trùng do dùng bóng đối xung cũng khá
thấp, nếu bóng được dùng không quá 7 ngày
(168 giờ). Nhưng vấn đề là cần thao tác tuyệt đối
vô trùng khi đặt bóng, thường xuyên theo dõi
chân catheter nơi đặt bóng, để kịp thời phát hiện
nhiễm trùng nếu có.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
hiệu quả của việc sử dụng bóng đối xung nội
động mạch chủ sớm và chủ động cho những
trường hợp cần phải phẫu thuật tim nhưng có
nguy cơ cao là tương đối tốt. Việc sử dụng
bóng theo chiến lược như vậy không những
giúp giảm tỉ lệ nhiễm trùng, tỉ lệ tử vong, mà
còn rút ngắn thời gian điều trị 1 cách đáng kể.
Mặc dù đây chỉ là 1 nghiên cứu với số bệnh
nhân còn hạn chế, thiết nghĩ rất cần có những
nghiên cứu lớn và toàn diện hơn trong việc sử
dụng thích hợp bóng đối xung nội động mạch
chủ, qua đó giúp cho nhiều bệnh nhân có cơ
hội hồi phục tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baskett RJF et al. (2002): The Intraaortic Balloon Pump in
Cardiac Surgery. Ann Thorac Surg;74:1276–87.
2. Christenson J, Simonet F, Badel P, Schmuziger M. (1997):
Evaluation of preoperative intra-aortic balloon pump support in
high risk coronary patients. Eur J Cardiothorac Surg; 11:1097–
103.
3. Christenson J, Simonet F, Badel P, Schmuziger M. (1999):
Optimal timing of preoperative intraaortic balloon pump
support in high-risk coronary patients. Ann Thorac Surg; 68:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 115
934–9.
4. Christenson J, Simonet F, Badel P, Schmuziger M. (1997): The
effect of preoperative intra-aortic balloon pump support in
patients with coronary artery disease, poor left-ventricular
function (LVEF _ 40%) and hypertensive LV hypertrophy.
Thorac Cardiovasc Surg ; 45:60–4.
5. Christenson J, Simonet F, Schmuziger M. (2000): Economic
impact of preoperative intraaortic balloon pump therapy in
highrisk coronary patients. Ann Thorac Surg; 70:510–5.
6. Corral C, Vaughn C. (1986): Intraaortic balloon counterpulsation:
an eleven-year review and analysis of determinants of survival.
Tex Heart Inst J;13:39–44.
7. Creswell L, Moulton M, Cox J, Rosenbloom M. (1995):
Revascularization after acute myocardial infarction. Ann Thorac
Surg;60:19–26.
8. Dietl C, Berkheimer M, Woods E, Gilbert C, Pharr W, Benoit C.
(1996): Efficacy and cost-effectiveness of preoperative IABP in
patients with ejection fraction of 0.25 or less. Ann Thorac Surg;
62:401–9.
9. Feola M, Wiener L, Walinsky P, et al. (1997): Improved survival
after coronary bypass surgery in patients with poor left
ventricular function: role of intraaortic balloon counterpulsion.
Am J Cardiol 1977;39:1021–6.
10. Kang N, Mark E, and Larbalestier R (2001) Preoperative
Intraaortic Balloon Pumps in High-Risk Patients Undergoing
Open Heart Surgery. Ann Thorac Surg; 72:54 –7)
11. Pennington D, Swartz M, Codd J, Merjavy J, Kaiser G. (1983):
Intraaortic balloon pumping in cardiac surgical patients: a nine-
year experience. Ann Thorac Surg 1983;36: 125–31.
12. R Mastropierro, Bettinzoli M, Bordonali T, Patroni A (2009)
Pneumonia in a Cardiothoracic Intensive Care Unit: Incidence
and Risk Factors. Journal of Cardiothoracic and Vascular
Anesthesia, Vol 23, No 6 (December), pp 780-788
13. Rubinoa AS., Onoratia F, Santarpinoa G, Abdallab K, Caroleob S,
Santangelob E, Renzulli A. (2009) Early intra-aortic balloon
pumping following perioperative myocardial injury improves
hospital and mid-term prognosis. Interactive CardioVascular and
Thoracic Surgery 8 310–315
14. Sirbu. H, Busch T, Aleksic T, et al (2000). Ischemic complication
with intraaortic balloon counter-pulsation: incidence and
management. Cardiovascular Surg; 8: 66-71
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_dung_bong_doi_xung_som_tren_cac_benh_nhan_nguy.pdf