TSG là một thể bệnh tổn thương đa cơ quan
duy nhất có ở người mang thai. Điều trị bao
gồm hỗ trợ và chấm dứt thai kỳ. Đó cũng là một
trong những lí do mà tuổi thai ở sản phụ TSG
thường thấp. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến trọng lượng thai khi sinh. Tuổi thai trung
bình trong NC chúng tôi là 37 ± 2,7 tuần. Trong
đó thai thiếu tháng chiếm tỉ lệ 34,7%. Trọng
lượng thai trong NC chúng tôi là 2827,6 ± 875 g.
Tình trạng hạ HA do ức chế giao cảm khi gây
TTS có thể làm giảm đáng kể lưu lượng máu
đến tử cung‐ nhau, dẫn đến kết cục xấu cho thai.
Mặt khác, thai nhi của các sản phụ TSG nặng
thường kém dung nạp với tình trạng hạ HA của
người mẹ (do thai nhi của các sản phụ này
thường có tình trạng chậm phát triển trong tử
cung, giảm tưới máu tử cung – rau hoặc bị thiểu
ối ). Một số báo cáo ghi nhận sự an toàn khi
gây TTS để giảm đau, thậm chí được chứng
minh làm tăng lưu lượng máu qua nhau thai ở
sản phụ TSG(4,8). Trong NC của chúng tôi, trung
vị điểm số Apgar phút thứ nhất là 7 (3 ‐ 8) điểm
phút thứ 5 là 8 (4 ‐ 9) điểm. Tác giả Aya(1) ghi
nhận trung vị điểm số Apgar tương đương ở
phút thứ nhất là 7 (1‐10), tuy nhiên ở phút thứ 5
thì cao hơn NC chúng tôi là 10 (8‐10).
Visalyaputra(14) ghi nhận trung vị điểm Apgar ở
phút thứ 1 và thứ 5 cao hơn NC chúng tôi.
Chúng tôi ghi nhận điểm số Apgar dưới 7 ở
phút thứ nhất là 10,5% và phút thứ 5 là 3,2%
thấp hơn NC của Aya(1) và Visalyaputra(14).
Chúng tôi gặp 17 trường hợp suy thai trường
diễn chiếm tỉ lệ 13,7%. Trong đó, cân nặng thai
nhi là 750g với Apgar 3 – 4 và không có hạ HA
khi gây TTS. Các bé có điểm Apgar dưới 7 đều
rơi vào các trường hợp suy thai trường diễn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của gây tê tủy sống trong mổ lấy thai ở sản phụ tiền sản giật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 168
HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG
TRONG MỔ LẤY THAI Ở SẢN PHỤ TIỀN SẢN GIẬT
Nguyễn Thị Kim Hà*, Nguyễn Thị Phương Thảo*, Nguyễn Thị Thanh**, Lê Hữu Bình***,
Nguyễn Anh Thư***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng bệnh lí phức tạp, chiếm tỉ lệ 5 ‐8% thai kỳ, có thể gây tử
vong cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Sự phong bế hệ thống giao cảm mạnh khi gây tê tủy sống (TTS) cùng với sự giảm
thể tích tuần hoàn ở các sản phụ TSG có thể gây hạ huyết áp nên sẽ ảnh hưởng đến mẹ và con. Tê tủy sống với
bupivacaine kết hợp fentanyl và morphine để giảm tụt huyết áp, giảm đau tốt, kéo dài sau mổ.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chất lượng vô cảm, chất lượng phẫu thuật, hiệu quả giảm đau sau mổ, xác
định tỉ lệ hạ huyết áp, các tác dụng phụ sau TTS và sự an toàn trên con.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt trường hợp. Gây TTS TSG với liều 7 – 8,5 mg
bupivacaine ưu trọng 0,5% phối hợp với 15mcg fentanyl và 0,1mg morphine cho 124 sản phụ TSG mổ lấy thai
trong khoảng thời gian từ tháng 10/2012 đến tháng 4/2013 tại bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí Minh.
Kết quả: Chất lượng giảm đau trong mổ tốt là 97,7%; Chất lượng phẫu thuật tốt là 100%. Thời gian giảm
đau hiệu quả kéo dài sau mổ 24 giờ là 94,4%. Tình trạng huyết động trong mổ ổn định, tỉ lệ hạ huyết áp trong
mổ 28,2%; Tỉ lệ buồn nôn và nôn là 21%. Tỉ lệ lạnh run là 27,4%. Tỉ lệ ngứa là 10,5%. Không ghi nhận trường
hợp nào suy hô hấp trong và sau mổ, không ảnh hưởng đến Apgar thai nhi.
Kết luận: Tê tủy sống mổ lấy thai ở sản phụ TSG là phương pháp vô cảm hiệu quả, ít tụt huyêt áp, ít có tác
dụng phụ.
Từ khóa: tê tủy sống, tiền sản giật, mổ lấy thai.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF SPINAL ANESTHESIA
FOR CESAREAN SECTION IN PREECLAMPTIC PARTURIENTS
NguyenThi Kim Ha, Nguyen Thi Thanh, Nguyen Thi Phuong Thao, Le Huu Binh, Nguyen Anh Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 168 ‐ 174
Background: Preeclampsia is a complex medical syndrome, accounting for 5 ‐8% of pregnancy, can be fatal
to both the mother and child. Sympathetic block during spinal anesthesia together with a reduction circulating
volume in preeclamptic parturients can cause hypotension. Spianal anesthesia with bupivacaine combined
fentanyl and morphine reduced hypotesion and prolonged postoperative analspinal.
Objectives: To assess the quality of perioperative anesthesia, postoperative analgesia, hypotension, side
effects of spinal anesthesia and the safety of child.
Methods: Case‐series. Spinal anesthesia with 7‐8,5 mg bupivacaine combined 15 mcg fentanyl and 0.1 mg
morphine was used for caesarean section in 124 preeclamptic parturients during the period from 10/2012 to
04/2013 at Hung Vuong Hospital.
* Khoa gây mê hồi sức bệnh viện Hùng Vương, ** Bộ môn gây mê hồi sức –Đại học Y Phạm Ngọc Thạch
*** Bộ môn gây mê hồi sức Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Kim Hà ĐT: 0908365774 Email: nguyenthikimha77@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 169
Results: Good perioperative anesthesia was 97.7%. Good surgical quality was 100%. Effective postoperative
analgesia during first 24 hours was 94.4%. Stable hemodynamic during surgery. The rate of hypotension was
28.2%; nausea and vomiting was 21%; shivering was 27.4%; itching was 10.5%. No respiratory depression
during and after surgery. No changes Apgar scores.
Conclusion: Spinal anaesthesia for cesarean section in preeclamptic parturients is considered effective, safe
and less side effects.
Keywords: Spinal anesthesia, preeclampsia, cesarean section
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng bệnh lí
phức tạp, chiếm tỉ lệ 5 ‐ 8% thai kỳ, có thể gây tử
vong cho bà mẹ và trẻ sơ sinh(6). TSG nặng gây
tăng nguy cơ tử vong cho bà mẹ là 0,2% và tăng
tỉ lệ mẹ mắc các bệnh kèm theo là 5% như co
giật, phù phổi, suy thận cấp, suy gan, xuất
huyết, rối loạn đông máu nội mạc, đột quỵ(9). Do
đó, việc chấm dứt thai kỳ và lấy nhau thai ra là
chỉ định điều trị duy nhất(6).Vô cảm để mổ lấy
thai an toàn ở sản phụ TSG là một thách thức
lớn đối với các nhà gây mê hồi sức sản khoa.
Trước đây, tỉ lệ mổ lấy thai ở sản phụ TSG nặng
lên đến 85% và gây mê toàn diện thường được
áp dụng. Ngày nay, gây tê tủy sống (TTS) trong
mổ lấy thai là phương pháp vô cảm được chọn
lựa vì nó tránh được những bất lợi do gây mê
toàn thân gây ra như gia tăng áp lực động mạch
chủ, động mạch phổi, tăng đáp ứng tim mạch
quá mức và có thể gặp đặt nội khí quản khó(13).
Vì các mối nguy hiểm liên quan đến đường thở
khó và hậu quả huyết động khi đặt nội khí quản
nên gây mê toàn diện chỉ được chọn khi gây tê
vùng chống chỉ định(5,7). Mặc khác, sự co mạch là
một yếu tố phổ biến trong TSG, thì phong bế
thần kinh gây giãn mạch khi gây tê vùng là một
lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên, sự phong bế hệ
thống giao cảm mạnh khi gây TTS cùng với sự
giảm thể tích tuần hoàn ở các sản phụ TSG có
thể gây hạ huyết áp nặng hơn nên sẽ ảnh hưởng
đến mẹ và con hơn. Đây là vấn đề cần được
nghiên cứu đánh giá để từng bước hoàn thiện kĩ
thuật, nắm chắc những ứng dụng lâm sàng
trong kĩ thuật gây TTS ở sản phụ TSG.
Chính vì lý do trên, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu “Hiệu quả của gây tê tủy sống trong
mổ lấy thai ở sản phụ tiền sản giật”, qua đó
chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ
phương pháp vô cảm trên cho bác sĩ gây mê hồi
sức sản khoa trong thực hành lâm sàng.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá chất lượng vô cảm trong mổ, chất
lượng phẫu thuật, hiệu quả giảm đau sau mổ.
Xác định tỉ lệ% hạ huyết áp và các tác dụng
phụ sau gây TTS.
Xác định sự an toàn trên con.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu các trường hợp bệnh
Đối tượng nghiên cứu
Các sản phụ được chẩn đoán TSG có chỉ
định mổ lấy thai tại bệnh viện Hùng Vương,
trong thời gian từ 09/10/2012 đến 12/4/2013.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tiêu chuẩn nhận vào
Sản phụ được chẩn đoán TSG dựa trên lâm
sàng và cận lâm sàng, có chỉ định mổ lấy thai
cấp cứu hoặc chương trình, có chỉ định TTS.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đã có biến chứng trên mẹ (xuất huyết não,
sản giật, phù phổi, HC HELLP, nhau bong
non hoặc trên thai như thai chết lưu), có rối
loạn đông máu, tiểu cầu dưới 100.000/mm3, đa
thai, thai bất thường, bệnh lý nội khoa nặng
(bệnh về tim, phổi nặng, thiếu máu nặng),
nguy cơ chảy máu trong mổ (nhau tiền đạo,
nhau bong non), dị ứng thuốc tê, không đồng
ý tham gia nghiên cứu, bệnh tâm thần, không
hợp tác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 170
Cỡ mẫu
Chúng tôi lấy cỡ mẫu 124 trường hợp trong
nghiên cứu này.
Địa điểm nghiên cứu
Khoa gây mê hồi sức bệnh viện Hùng Vương
Phương pháp tiến hành
Sau khi được chấp thuận của Hội đồng
duyệt đề cương, Hội đồng y đức trường Đại
Học Y Dược, Hội đồng khoa học bệnh viện
Hùng Vương 124 sản phụ tiền sản giật trong
tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nhóm
nghiên cứu của chúng tôi. Sau đó, các sản phụ
được kiểm tra hồ sơ bệnh án, xem xét các xét
nghiệm, giấy cam đoan phẫu thuật, giấy đồng
thuận tham gia nghiên cứu và được giải thích
rõ về phương pháp tê tủy sống. Sản phụ được
nghe tim phổi, kiểm tra vùng gây tê trước khi
làm thủ thuật. Sản phụ được truyền dung dịch
Ringerlactat 300 ‐ 500ml, được ghi nhận mạch,
huyết áp, Sp02 trước khi gây tê tủy sống. Sản
phụ được hướng dẫn nằm nghiêng, cúi gập
người cong thắt lưng ra sau, đầu nằm trên một
gối mềm. Bác sĩ gây mê tiến hành gây tê tủy
sống với liều 7‐ 8,5 mg Marcain heavy 0,5%
(theo chiều cao) phối hợp với fentanyl 15 mcg
và 0,1mg morphine. Sau tê sản phụ được đặt
nằm nghiêng trái 15 độ, được thở oxy 3 lít/
phút. Sản phụ mất vận động và mất cảm giác
từ T10 trở lên thì có thể tiến hành phẫu thuật.
Hạ huyết áp được định nghĩa khi huyết áp
tâm thu giảm hơn 30% hoặc giảm dưới 100
mmHg so với huyết áp ghi nhận trước khi gây
TTS khi đó sản phụ được xử trí 6mg Ephedrin
Aguettant tiêm tĩnh mạch để nâng HA. Nhịp
tim chậm được định nghĩa nhịp tim dưới 50
nhịp/ phút và được điều trị với Atropin 0,5 mg
tiêm tĩnh mạch. Huyết áp, mạch, Sp02, điện tim
dược theo dõi 2 phút/lần trong 10 phút đầu và 5
phút/lần liên tục cho đến cuối cuộc mổ.
Sản phụ được theo dõi mức phong bế cảm
giác da bằng phương pháp nhiệt lạnh, mức ức
chế vận đông được đánh giá theo thang điểm
Bromage (độ 0: cử động cả 2 chân và bàn chân,
độ 1: vừa đủ sức gập gối lại và 2 bàn chân cử
động tự do, độ 2: không đủ sức gập gối lại, 2 bàn
chân cử động tự do,độ 3: không cử động cả 2
chân và bàn chân).
Chất lượng vô cảm được đánh giá bởi
người nghiên cứu theo thang điểm NACS: rất
tốt (sản phụ cảm thấy thoải mái trong suốt
cuộc mổ hoặc không đau), tốt (khó chịu hoặc
đau ít, không cần thêm thuốc giảm đau), trung
bình (đau mà yêu cầu thêm thuốc giảm đau),
kém (đau rất nhiều yêu cầu thêm thuốc giảm
đau hơn hoặc chuyển sang gây mê toàn diện)
và chất lượng phẫu thuật (mức độ dãn cơ)
đánh giá theo mức độ hài lòng của phẫu thuật
viên: rất tốt, tốt, trung bình (chấp nhận được),
kém (thất bại).
Thời gian gây tê, thời gian chờ tác dụng, thời
gian mổ, thời gian đạt phong bế cảm giác đến
T4, thời gian tác dụng của thuốc, thời gian liệt
vận động, thời gian giảm đau hiệu quả sau mổ
được ghi nhận. Sử dụng thước VAS (Visual
analog score) từ 0 (không đau) đến 10 (đau
nhiều nhất), để đánh giá mức độ đau sản phụ
sau mổ. Perfalgan 1g /100ml truyền tĩnh mạch
khi VAS ghi nhận lớn hơn hoặc bằng 4.
Ghi nhận các tác dụng phụ: buồn nôn và
nôn (Primperan 10mg / ống tiêm tĩnh mạch
trong trường hợp nôn hoặc sau hai lần buồn nôn
liên tiếp), ngứa, lạnh run được theo dõi (điều trị
bằng sưởi ấm hoặc Pethidine 25mg tiêm tĩnh
mạch chậm), mức độ an thần được theo dõi
trong và sau mổ: 0 (tỉnh táo), 1 (buồn ngủ), 2
(ngủ nhưng dễ dàng đánh thức), 3 (ngủ và
không dễ dàng đánh thức). Suy hô hấp (khi nhịp
thở dưới 10 lần /phút, hoặc Sp02 giảm dưới
90%). Bí tiểu không được đánh giá vì các sản
phụ TSG khi mổ lấy thai đều được đặt ống
thông tiểu 24 giờ đầu sau mổ. Ghi nhận trọng
lượng thai nhi, điểm số Apgar phút thứ 1và
phút thứ 5 của bé sau khi lấy bé ra khỏi tử cung.
Các số liệu được ghi nhận vào bản thu thập
số liệu được in sẵn cho từng bệnh nhân. Số liệu
được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Tính giá
trị trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến định
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 171
lượng, tần số và tỉ lệ phần trăm cho các biến
định tính. Kết quả được trình bày dưới dạng
bảng và biểu đồ.
KẾT QUẢ
Đặc điểm tuổi của đối tượng nghiên cứu
Trong thời gian từ 09/10/2012 đến 12/4/2013,
có 124 sản phụ TSG được mổ lấy thai dưới gây
tê tủy sống tại bệnh viện Hùng Vương gồm TSG
nhẹ 58 BN (46,8%) và TSG nặng 66 BN (53,2%).
Tuổi trung bình là 31,03 ± 5,75 tuổi, nhỏ nhất 18
tuổi, lớn nhất 45 tuổi. Chiều cao trung bình là
155,4 ± 4,96 cm, thấp nhất 144 cm, cao nhất 170
cm. Cân nặng trung bình là 69,06 ± 12,08 kg;
thấp nhất là 45 kg, cao nhất là 116 kg. BMI trung
bình là 28,6 4,4 kg/m2. Tỉ lệ sản phụ béo phì
chiếm 32,3%. Sanh lần 1 là 79 BN (63,7%).
Bảng 1: Chất lượng vô cảm, chất lượng phẫu thuật,
hiệu quả giảm đau sau mổ:
Chất lượng vô cảm trong mổ Số trường hợp Tỉ lệ
(%)
Rất tốt 100 80
Tốt 22 17,7
Trung bình 2 1,6
Kém 0 0
Chất lượng phẫu thuật
Rất tốt 93 75
Tốt 31 25
Trung bình 0 0
Kém 0 0
Giảm đau 24 giờ sau mổ 117 94,4
Chúng tôi ghi nhận vô cảm rất tốt 100
trường hợp (80%), 22 trường hợp vô cảm tốt
(17,7%), vô cảm mức trung bình có 2 trường hợp
(1,6%) và yêu cầu thêm thuốc giảm đau thêm
trong mổ, không có trường hợp nào chuyển
sang phương pháp vô cảm khác.
Thay đổi mạch, huyết áp trong mổ
Tỉ lệ hạ HA trong NC chúng tôi là 28,2%.
HA tâm thu, HA tâm trương, HA trung bình
đều giảm dần sau gây tê, giảm nhiều nhất ở
phút thứ 4 sau đó ổn định trong suốt cuộc mổ.
Không có trường hợp nào hạ HA trầm trọng và
mức độ hạ HA trung bình dưới 30%. Lượng
ephedrin sử dụng trung vị là 6mg. Có 49 trường
hợp (39,5%) không sử dụng ephedrin.
Biểu đồ 1: Thay đổi mạch, HA tâm thu, tâm trương
trong mổ.
Biểu đồ 2: Điểm VAS trung bình của sản phụ trong
24 giờ đầu sau mổ.
Thời gian trung bình yêu cầu thuốc giảm
đau sau mổ là 23,1 ± 4,1giờ. Có 117 trường hợp
(94,4%) không dùng thêm thuốc giảm đau trong
24 giờ đầu sau mổ, 7 trường hợp (5,6%) cần phải
dùng thêm thuốc giảm đau sau mổ.
Bảng 2: Các tác dụng phụ trong và sau mổ:
TRONG MỔ SAU MỔ
Số TH Tỉ lệ% Số TH Tỉ lệ%
Buồn nôn 8 6,5 5 4
Nôn 5 4 8 6,5
Ngứa 2 1,6 11 8,9
Lạnh run 11 8,9 23 18,5
Suy hô hấp 0 0 0 0
Hạ HA 35 28,2
Đặc điểm thai
Trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh là
2827,6 ± 88, thấp nhất 750 g, cao nhất 6000 g.
Bảng 3: Điểm số Apgar của trẻ sơ sinh
Điểm số Apgar Trung vị Tối thiểu –
tối đa
Dưới 7*
1 phút 7 3 - 8 9 (10,5)
5 phút 8 4 - 9 4 (3,2)
* Số trường hợp (tỉ lệ phần trăm)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 172
BÀN LUẬN
Đặc điểm tuổi của đối tượng nghiên cứu
Tuổi là một trong những yếu tố nguy cơ
quan trọng ở sản phụ TSG. Phụ nữ càng lớn tuổi
nguy cơ TSG càng cao. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, nhóm từ 20 đến 40 tuổi chiếm tỉ lệ
97,6%; nhóm tuổi dưới 20 tuổi là 0,8% và trên 40
tuổi là 2,4%. Tỉ lệ mẹ lớn hơn 35 tuổi là 34,7%.
Tình trạng béo phì là một vấn đề khó khăn đối
với người gây mê khi chọn lựa phương pháp vô
cảm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ sản
phụ béo phì là 32,3%, béo phì bệnh lí chiếm
1,6%. TSG là một yếu tố nguy cơ cao khi đặt
NKQ, là một trong những nguyên nhân gây tử
vong cho cả mẹ lẫn con. Từ đó gây tê vùng có
nhiều thuận lợi thiết thực tránh được nguy cơ
đặt NKQ khó ở sản phụ béo phì. Tuy nhiên, khó
xác định mốc giải phẫu khi gây tê tủy sống ở
người béo phì.
Chúng tôi ghi nhận chất lượng vô cảm rất
tốt ở 100 trường hợp (80%), vô cảm tốt ở 22
trường hợp (17,7%), vô cảm mức trung bình 2
trường hợp (1,6%) phải dùng thêm thuốc giảm
đau trong mổ, không có trường hợp nào
chuyển sang phương pháp vô cảm khác. Khi
gây tê vùng, các thuốc nhóm á phiện liên kết
trực tiếp với các receptor làm tăng tác dụng
giảm đau(2). Do đó, có thể phối hợp thêm các
thuốc nhóm á phiện để giảm liều thuốc tê
bupivacain mà vẫn đạt được giảm đau mong
muốn. Có thể do kĩ thuật gây tê cũng có thể do
liều thuốc tê thấp mà chúng tôi không đạt
được giảm đau hoàn toàn 100%.
Để đánh giá chất lượng phẫu thuật của gây
tê tủy sống trong mổ lấy thai, phải tính đến độ
dãn cơ của thành bụng, tạo điều kiện cho phẫu
thuật viên khi lấy thai, đặc biệt trong các
trường hợp sơ sinh non yếu như trong TSG
nặng thì những sang chấn khi lấy thai có thể
gây xuất huyết não cho trẻ sơ sinh. Liều thuốc
tê cao hay thấp có thể sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng phẫu thuật. NC của chúng tôi sử dụng
bupivacain liều thấp nhưng vẫn đạt 100% chất
lượng phẫu thuật tốt có thể do chúng tôi có
phối hợp thêm fentanyl và morphine khi gây
tê. Trong NC của chúng tôi thì chất lượng
phẫu thuật đạt tỉ lệ rất tốt là 93 trường hợp
(75%), tốt 31 trường hợp (25%).
Hạ HA khi gây TTS mổ lấy thai là tác dụng
không mong muốn thường gặp do ức chế thần
kinh giao cảm, làm gia tăng sức chứa mạch máu
tĩnh mạch, giảm trương lực mạch máu hệ thống,
giảm máu tĩnh mạch trở về tim làm giảm cung
lượng tim. Theo Chestnut(13), gây TTS ở TSG
nặng có thể gây hạ HA nhiều do các sản phụ
TSG nặng thường có giảm thể tích trong lòng
mạch. NC trên đối tượng TSG đặc biệt có cả TSG
nặng thì tỉ lệ hạ HA trong NC chúng tôi là
28,2%. HA tâm thu, HA tâm trương, HA trung
bình đều giảm dần sau gây tê, giảm nhiều nhất
ở phút thứ 4 sau đó ổn định trong suốt cuộc mổ.
Không có trường hợp nào hạ HA trầm trọng và
mức độ hạ HA trung bình dưới 30%. Sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ hạ huyết áp
và mức độ hạ huyết áp của sản phụ TSG trong
nghiên cứu của chúng tôi tương tự như của Đào
Trọng Thắng(3) (27,62%), Nguyễn Đức Lam(11)
(21,6%), Aya(1) (24,6%). Aya đã thực hiện nhiều
nghiên cứu để tìm hiểu về tình trạng các sản
phụ TSG ít hạ huyết áp khi gây tê tủy sống so
với sản phụ bình thường. Tác giả đã làm nghiên
cứu so sánh sản phụ TSG với sản phụ mổ lấy
thai thiếu tháng, tác giả ghi nhận trọng lượng
thai hay kích thước nhỏ của tử cung của sản phụ
TSG không liên quan với mức độ hạ huyết áp.
Tác giả Aya cho rằng còn nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến sự ít hạ huyết áp của sản phụ TSG. Ở
sản phụ TSG có tình trạng tăng sức cản mạch
máu, đưa đến tăng huyết áp. Sự co mạch máu
đưa đến đáp ứng viêm quá mức với thai. Kết
hợp với sự rối loạn chức năng nội mạc mạch
máu, đưa đến tăng sản xuất endothelin và
thrombaxan và giảm tổng hợp chất dãn mạch
(NO, prostacyclin). Sự thay đổi này không bị
ảnh hưởng bởi sự phong bế giao cảm của tê tủy
sống, vì thế, sản phụ TSG vẫn có trương lực
mạch máu ở mức cao. Điều này góp phần hạn
chế sự tụt huyết áp ở sản phụ TSG khi tê tủy
sống.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 173
Đau sau mổ là cảm giác khó chịu nhất mà
các sản phụ phải chịu đựng sau mổ lấy thai. Đau
làm cho người mẹ hạn chế vận động từ đó gây
ra những hạn chế trong việc chăm sóc con sau
mổ cũng như sự bài xuất sản dịch, co hồi tử
cung, hạn chế nhu động dạ dầy ‐ ruột, bí tiểu,
gây stress tâm lý Trong TSG nặng, kích thích
đau sau mổ còn gây tăng HA và tăng các biến
chứng của TSG. Do đó, điều trị đau sau mổ ở các
sản phụ TSG nặng không chỉ có ý nghĩa nhân
văn mà còn góp phần làm ổn định huyết
động(12). NC của chúng tôi đã thực việc phối hợp
bupivacain, fentanyl và morphine khi gây TTS
đã ghi nhận thời gian trung bình yêu cầu thuốc
giảm đau sau mổ là 23,1 ± 4,1giờ. Có 117 trường
hợp chiếm 94,4% không có nhu cầu dùng thêm
thuốc giảm đau trong 24 giờ đầu sau mổ, 7
trường hợp còn lại chiếm 5,6% cần phải dùng
thêm thuốc giảm đau sau mổ. Việc phối hợp
morphine khi gây TTS đem lại hiệu quả giảm
đau tốt sau mổ 12 – 24 giờ cho bệnh nhân là cần
thiết vừa tiện lợi và ít tốn kém.
Trong NC của chúng tôi, nhịp thở thay đổi
trung bình từ 19 lần/phút đến 21 lần/phút. Sp02
thay đổi trung bình khoảng 99%. Nhịp thở của
sản phụ trong quá trình phẫu thuật tương đối
ổn định. Độ bão hòa oxy mao mạch (Sp02) cũng
tương đối ổn định trong mổ.
Suy hô hấp là biến chứng cần quan tâm nhất
khi gây TTS, đặc biệt khi phối hợp thuốc gây
nghiện. Morphine ức chế trung tâm hô hấp ở
hành tủy, làm mất nhạy cảm trung tâm này với
sự tăng C02, có thể gây giảm và suy hô hấp.
Trong NC của chúng tôi không ghi nhận trường
hợp nào nhịp thở dưới 10 lần/ phút và Sp02 dưới
90%, mặc dù có 3 TH cân nặng trên 100 kg và
32,3% sản phụ béo phì.Vì nguy cơ suy hô hấp rất
cao ở bệnh nhận béo phì đặc biệt khi có sử dụng
thêm thuốc gây nghiện để TTS.
Buồn nôn và nôn là những than phiền nhiều
nhất sau triệu chứng đau. NC chúng tôi ghi
nhận tần số buồn nôn, nôn trong lúc mổ là 13
trường hợp (10,5%) và sau mổ là 13 trường hợp
(10,5%). Tỉ lệ nôn và buồn nôn trong NC của
chúng tôi là 21%. Nôn, buồn nôn có thể xảy ra
trong mổ hoặc sau mổ. Nếu xảy ra trong mổ
ngay sau gây tê thường do hạ HA. Năm 2011,
Đào Trọng Thắng(3) thực hiện NC đánh giá hiệu
quả của TTS trên 105 sản phụ TSG. Tác giả ghi
nhận tỉ lệ nôn và buồn nôn trong mổ là 9,61%
tương đương với số liệu chúng tôi là 10,5%. Tỉ lệ
hạ HA của Đào Trọng Thắng(3) là 27,62% của
chúng tôi là 28,2%. Năm 2010, Nguyễn Đức
Lam(11) thực hiện NC so sánh hiệu quả và tác
dụng phụ của gây TTS với gây mê NKQ trong
mổ lấy thai ở sản phụ TSG nặng. Tác giả ghi
nhận tỉ lệ buồn nôn, nôn trong và sau mổ là 10%
thấp hơn nhiều so với NC của chúng tôi là 21%.
Có thể do tác giả đã dự phòng tiêm tĩnh mạch
Primperan 10 mg trước khi gây TTS, cũng có thể
do tỉ lệ hạ HA là 21,6% thấp hơn NC của chúng
tôi. Nôn và buồn nôn sau mổ chủ yếu liên quan
đến việc sử dụng các thuốc nhóm á phiện trong
và sau mổ gây tác động lên trung tâm nôn.
Ngứa là tác dụng phụ thường gặp khi gây tê
khoang dưới nhện có sử dụng thuốc nhóm á
phiện. Ngứa thường gặp hơn với morphine so
với các thuốc khác thuộc nhóm á phiện. Trong
NC của chúng tôi có phối hợp morpnine và
fentanyl khi gây TTS có tỉ lệ ngứa là 10,5%
Giảm thân nhiệt, lạnh run trong và sau mổ
thường thấy ở sản phụ giảm đau trục thần kinh
mổ lấy thai. Lạnh run tuy không nguy hiểm
nhưng gây khó chịu. Gây tê trục thần kinh làm
ức chế trung tâm điều hòa nhiệt, làm giảm
ngưỡng co mạch và run. Mức độ giảm thân
nhiệt và run thay đổi tùy theo kĩ thuật gây tê,
thuốc tê và nhiệt độ cơ bản của bệnh nhân.
Phong bế cảm giác với gây TTS gây ức chế trung
tâm điều hòa nhiệt mạnh hơn gây tê ngoài màng
cứng, có thể ảnh hưởng đến ngưỡng và cường
độ run(10). Trong NC của chúng tôi, tỉ lệ lạnh run
trong mổ là 8,9%, sau mổ là 18,5%, tỉ lệ chung là
27,4%. Qua các NC, nhận thấy việc phối hợp
thêm fentanyl và morphine khi gây TTS có thể
làm giảm tỉ lệ lạnh run.
TSG là một thể bệnh tổn thương đa cơ quan
duy nhất có ở người mang thai. Điều trị bao
gồm hỗ trợ và chấm dứt thai kỳ. Đó cũng là một
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 174
trong những lí do mà tuổi thai ở sản phụ TSG
thường thấp. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến trọng lượng thai khi sinh. Tuổi thai trung
bình trong NC chúng tôi là 37 ± 2,7 tuần. Trong
đó thai thiếu tháng chiếm tỉ lệ 34,7%. Trọng
lượng thai trong NC chúng tôi là 2827,6 ± 875 g.
Tình trạng hạ HA do ức chế giao cảm khi gây
TTS có thể làm giảm đáng kể lưu lượng máu
đến tử cung‐ nhau, dẫn đến kết cục xấu cho thai.
Mặt khác, thai nhi của các sản phụ TSG nặng
thường kém dung nạp với tình trạng hạ HA của
người mẹ (do thai nhi của các sản phụ này
thường có tình trạng chậm phát triển trong tử
cung, giảm tưới máu tử cung – rau hoặc bị thiểu
ối). Một số báo cáo ghi nhận sự an toàn khi
gây TTS để giảm đau, thậm chí được chứng
minh làm tăng lưu lượng máu qua nhau thai ở
sản phụ TSG(4,8). Trong NC của chúng tôi, trung
vị điểm số Apgar phút thứ nhất là 7 (3 ‐ 8) điểm
phút thứ 5 là 8 (4 ‐ 9) điểm. Tác giả Aya(1) ghi
nhận trung vị điểm số Apgar tương đương ở
phút thứ nhất là 7 (1‐10), tuy nhiên ở phút thứ 5
thì cao hơn NC chúng tôi là 10 (8‐10).
Visalyaputra(14) ghi nhận trung vị điểm Apgar ở
phút thứ 1 và thứ 5 cao hơn NC chúng tôi.
Chúng tôi ghi nhận điểm số Apgar dưới 7 ở
phút thứ nhất là 10,5% và phút thứ 5 là 3,2%
thấp hơn NC của Aya(1) và Visalyaputra(14).
Chúng tôi gặp 17 trường hợp suy thai trường
diễn chiếm tỉ lệ 13,7%. Trong đó, cân nặng thai
nhi là 750g với Apgar 3 – 4 và không có hạ HA
khi gây TTS. Các bé có điểm Apgar dưới 7 đều
rơi vào các trường hợp suy thai trường diễn.
KẾT LUẬN
TTS là phương pháp hữu hiệu có thể áp
dụng cho phẫu thuật lấy thai với sản phụ tiền
sản giật đặc biệt là tiền sản giật nặng. Chất
lượng giảm đau trong mổ tốt chiếm tỉ lệ 97,7%,
chất lượng phẫu thuật tốt chiếm 100%. Hiệu
quả giảm đau tốt kéo dài 24 giờ sau mổ chiếm
tỉ lệ là 94,4%.
Tình trạng huyết động trong mổ tương đối
ổn định, tỉ lệ hạ HA là 28,2% không có trường
hợp nào hạ HA trầm trong khó hồi phục.
Tỉ lệ buồn nôn và nôn là 21%. Tỉ lệ lạnh run
là 27,4%. Tỉ lệ ngứa là 10,5%. Không ghi nhận
trường hợp nào suy hô hấp trong và sau mổ.
Không ảnh hưởng đến Apgar thai nhi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aya AG, et al (2005). ʺSpinal anesthesia‐induced hypotension:
a risk comparison between patients with severe preeclampsia
and healthy women undergoing preterm cesarean deliveryʺ.
Anesth Analg, 101, (3), pp 869‐875.
2. Chu C, et al (1995). ʺThe effect of intrathecal bupivacaine with
combined fentanyl in cesarean sectionʺ. Acta Anaesthesiol Sin,
33, (3), pp.149 ‐ 54.
3. Đào Trọng Thắng, Nguyễn Văn Chừng, Trương Quốc Việt,
Ngô Thị Kim Phụng (2012). ʺHiệu quả của gây tê tủy sống
trong mổ lấy thai với mẹ bị tiền sản giậtʺ. Tạp chí y học TP Hồ
Chí Minh, 16, (1), tr.398 ‐ 405.
4. Dyer RA, et al (2008). ʺHemodynamic changes associated
with spinal anesthesia for cesarean delivery in severe
preeclampsiaʺ. Anesthesiology, 108, (5), pp 802‐11.
5. Endler GC, Mariona FG, et al (1988). ʺAnesthesia‐related
maternal mortality in Michigan, 1972 to 1984ʺ. Am J Obstet
Gynecol, 159, (1), pp 187‐93.
6. Fernando R. (2007). ʺGerard W. Ostheimer ʺWhatʹs New in
Obstetric Anesthesiaʺ Lectureʺ. Anesthesiology, 106, (3), pp
615‐21.
7. Hawkins J L, et al (1997). ʺAnesthesia‐related deaths during
obstetric delivery in the United States, 1979‐1990ʺ.
Anesthesiology, 86, (2), pp 277‐ 84.
8. Jouppila P, Jouppila R, et al (1982). ʺLumbar epidural
analgesia to improve intervillous blood flow during labor in
severe preeclampsiaʺ. Obstet Gynecol, 59, (2), pp.158‐61.
9. Labib MG, Baha MS (2007). Gestational hypertension–
preeclampsia and eclampsia. Management of High‐Risk
Pregnancy. 15th ed. Blackwell, pp 271.
10. Leslie K, Sessler D I (1996). ʺReduction in the shivering
threshold is proportional to spinal block heightʺ.
Anesthesiology, 84, (6), pp.1327‐31.
11. Nguyễn Đức Lam, Nguyễn Hữu Tú, Nguyễn Quốc Tuấn
(2010). ʺSo sánh hiệu quả và các tác dụng phụ của gây tê tủy
sống với gây mê nội khí quản để mổ lấy thai ở bệnh nhân tiền
sản giật nặng ʺ. Y học thực hành số 744, tr 101‐105.
12. Phạm Minh Đức (2004). ʺSinh lý đauʺ. chuyên đề sinh lý học,
tr.138 ‐ 153.
13. Polley LS (2009). ʺHypertensive Disordersʺ. Chestnutʹ s
Obstetric Anesthesia: Principles and practice, pp.975 ‐ 1000.
14. Visalyaputra S, et al (2005). ʺSpinal versus epidural anesthesia for
cesarean delivery in severe preeclampsia: a prospective
randomized, multicenter study .ʺ Anesth Analg, 101, (3), pp 862‐8.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_gay_te_tuy_song_trong_mo_lay_thai_o_san_phu_tie.pdf