Hiệu quả của laser công suất thấp trong kiểm soát đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch

Độ há miệng ở cả 2 nhóm vào ngày thứ nhất và ngày thứ 2 sau phẫu thuật đều giảm đáng kể so với trước phẫu thuật (Bảng 9). Tuy nhiên, ở nhóm có sử dụng laser độ há miệng giảm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng vào ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau phẫu thuật (Bảng 10). Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả giống với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả như Maurizio Ferrante(7), Mutan Hamdi Aras(8), Hakki Oguz Kazancioglu(3). Như vậy, kết quả nghiên cứu này của chúng tôi có thể gợi ý rằng việc sử dụng laser bán dẫn với thông số trên có hiệu quả trong giảm sưng, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. Điều này do tác dụng kháng viêm của laser thông qua tăng hoạt động thực bào, tăng sinh và giãn mạch lympho, giảm tính thấm thành mạch và phục hồi tuần hoàn mạng lưới mao mạch, giảm phù nề(11). Ngoài ra laser công suất thấp có tác dụng kháng viêm do ức chế sự thành lập các IL-6, MCP-1,IL-10 và yếu tố hoại tử mô TNF-(7). Hiệu quả tích lũy của những quá trình đa tương tác này làm tăng tốc chu trình viêm từ đó làm giảm triệu chứng và sớm phục hồi về trạng thái bình thường, do đó nên chiếu laser công suất thấp ngay sau can thiệp.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của laser công suất thấp trong kiểm soát đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 254 HIỆU QUẢ CỦA LASER CÔNG SUẤT THẤP TRONG KIỂM SOÁT ĐAU, SƯNG VÀ KHÍT HÀM SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI LỆCH Đoàn Thị Mỹ Chi*, Nguyễn Thị Bích Lý** TÓM TẮT Mục tiêu: Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả kháng viêm, giảm đau của Laser công suất thấp (AMD LASERS®, Dentsply) sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng với thiết kế nửa miệng được thực hiện trên 30 bệnh nhân khỏe mạnh có hai răng khôn hàm dưới mọc lệch đối xứng nhau. Nhóm thử nghiệm được chiếu Laser có bước sóng 810nm trong miệng, cách vùng nhổ răng khôn 1cm ngay sau phẫu thuật với chế độ liên tục, công suất 0,5W, trong thời gian 30 giây, chiếu 2 lần cách nhau 1 phút. Nhóm chứng, cũng được đặt đầu chiếu Laser trong miệng tại vùng phẫu thuật nhưng không kích hoạt tia Laser. Đánh giá đau, sưng và khít hàm được thực hiện sau phẫu thuật. Kết quả: Mức độ đau sau phẫu thuật ở nhóm có sử dụng Laser thấp hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm có sử dụng Laser có cải thiện độ há miệng, giảm sưng và khít hàm đáng kể so với nhóm chứng. Kết luận: Chiếu Laser công suất thấp tại vùng can thiệp sau phẫu thuật với các thông số dùng trong nghiên cứu này cho thấy có hiệu quả trong giảm đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. Từ khóa: Laser công suất thâp, phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. ABSTRACT THE EFFECT OF LOW-LEVEL LASER THERAPY ON PAIN, SWELLING AND TRISMUS MANAGEMENT AFTER THE SURGICAL REMOVAL OF THE IMPACTED MANDIBULAR WISDOMS Doan Thi My Chi, Nguyen Thi Bich Ly * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 254 - 260 Objectives: Pain, swelling, and trismus are the most common complications after the surgical removal of the impacted lower third molars. The aim of this study was to evaluate the anti-inflammatory and analgesic effects of a low-level laser therapy (AMD LASERS®, Dentsply) applied to the wound appeared after the surgical removal of the impacted lower third molars. Method: A randomized clinical experimental study with split- mouth design was undertaken in 30 healthy patients with two symmetrically impacted lower third molars. The experimental sides were irradiated by a laser with 810nm wavelength, 0.5W output power, immediately after surgery, intraorally, 1cm from the involved area in continuous mode for 30 seconds. The second irradiation was applied after 1 minute with the same dose. On the control side, a handpiece was applied in the same manner without laser activation. Pain, trismus, and swelling were assessed postoperatively. Results: The pain level was lower in the experimental side than in the control side with statistically significant difference. The improvement of the interincisal opening and the remarkable reduction of trismus, swelling were observed when the patients were applied low-level laser therapy * BS RHM khóa 2008-2014- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM ** Bộ môn Phẫu thuật miệng- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: BS Đoàn Thị Mỹ Chi ĐT: 0972597024 Email: doanthimychi@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 255 Conclusion: The application of a low-level laser with the parameters used in this study showed beneficial effects in reducing pain, swelling, and trismus after the removal of the impacted lower third molars. Keywords: low-level laser, removal of impacted lower third molars MỞ ĐẦU Phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch là một trong những phẫu thuật thường gặp nhất trong thực hành nha khoa, nhằm giải quyết và phòng ngừa các biến chứng gây ra bởi răng này(2,6). Đây là một can thiệp xâm lấn gây nhiều triệu chứng đau, sưng hậu phẫu. Thông thường, sử dụng các loại thuốc như giảm đau, thuốc kháng viêm không steroid, corticosteroids tại chỗ hoặc toàn thân giúp kiểm soát các biến chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau can thiệp nhưng lại có thể gây ra những tác dụng phụ như kích thích tiêu hóa, phản ứng dị ứng, nhất là trên những bệnh nhân có cơ địa đặc biệt(1,4). Do đó, việc phát triển những phương pháp thay thế hoặc bổ sung không xâm lấn, an toàn, ít tác dụng phụ ngày càng được các nhà lâm sàng quan tâm. Và một trong những phương pháp mới chính là liệu pháp laser công suất thấp hay còn gọi là laser trị liệu. Gần đây, nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của laser công suất thấp trong giảm sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn nhưng kết quả còn nhiều tranh cãi; điều này có thể là do sự thay đổi trong thiết kế nghiên cứu, khác biệt trong đo lường các biến chứng hậu phẫu cũng như việc sử dụng nhiều loại máy laser với các loại đầu chiếu và các thông số kỹ thuật khác nhau(4,6). Với mong muốn tìm được một phương thức điều trị hỗ trợ tốt nhất cho bệnh nhân nhằm giảm đi những khó chịu sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả của laser công suất thấp trong kiểm soát đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch” với những mục tiêu sau: 1- Xác định cường độ đau sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ở nhóm có sử dụng laser sau phẫu thuật so với nhóm chứng. 2- Xác định mức độ sưng, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ở nhóm có sử dụng laser sau phẫu thuật so với nhóm chứng. 3- Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch của việc điều trị với laser công suất thấp sau phẫu thuật. 4- Đánh giá hiệu quả giảm sưng và khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch của việc điều trị với laser công suất thấp sau phẫu thuật ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng nghiên cứu Mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu thuận tiện gồm các bệnh nhân ở cả hai giới có nhu cầu và chỉ định nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch đến khám và điều trị tại bộ môn Phẫu thuật miệng- Khoa Răng Hàm Mặt-Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2014. Bệnh nhân thõa các tiêu chí chọn mẫu như sau: độ tuổi từ 18-35 tuổi, có sức khỏe toàn thân tốt, có 2 răng khôn hàm dưới lệch tương đương nhau về mức độ khó với độ khó thuộc loại II, III và vị trí độ sâu B, C dựa theo phân loại của Pell và Gregory, đánh giá sự tương đương giữa 2 răng được xác định trên phim toàn cảnh. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu sau khi nghe giải thích rõ về mục đích và yêu cầu của nghiên cứu. Nghiên cứu sử dụng máy AMD LASERS® công suất thấp của Hãng Denstply với các thông số kỹ thuật như sau: Laser diode GaAlAs (Gallium Aluminium Arsen)- Bước sóng: 810nm ± 10 nm- Công suất phát: 0,1 – 7,0 Watts ± 20%- Chế độ phát: xung hay liên tục- Đường kính đầu chiếu: 400 μm. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 256 Hình 1: Máy AMD lasers ® Phương pháp nghiên cứu Đây là nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng với thiết kế nửa miệng. Chuẩn bị bệnh nhân - - Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu được giải thích, thông báo đầy đủ về mục đích nghiên cứu, qui trình phẫu thuật, yêu cầu ghi nhận thông tin, tái khám và ký tên vào mẫu đồng ý tham gia nghiên cứu. Thực hiện phẫu thuật - Bệnh nhân được đánh dấu các điểm mốc trên mặt và ghi nhận các số đo trước phẫu thuật: khoảng cách chân dái tai_khóe miệng, góc hàm_góc mắt ngoài, độ há miệng tối đa. - Tất cả bệnh nhân đều được phẫu thuật theo đúng qui trình kỹ thuật bởi một bác sĩ có kinh nghiệm của bộ môn phẫu thuật miệng và ghi nhận các thông tin trong quá trình phẫu thuật gồm: Lượng thuốc tê sử dụng- Thời gian phẫu thuật. Đối với nhóm thử nghiệm: Ngay sau phẫu thuật, bệnh nhân được mang kính bảo vệ mắt, chiếu laser diode ở vị trí cách ổ răng khôn 1cm, kích thước đầu chiếu 400 m, di chuyển vòng tròn để chiếu trên diện tích có đường kính 2 cm. Các thông số kỹ thuật bao gồm: bước sóng 810nm, công suất chiếu là 0,5 W ± 20% với chế độ liên tục trong 30 giây. Tổng số năng lượng thực sự phát ra được 12,8 J và mật độ năng lượng thực sự là 4 J/cm2. Chiếu 2 lần sau phẫu thuật và giữa 2 lần cách nhau 1 phút để mô giảm nhiệt. Đối với nhóm chứng: Bệnh nhân được mang kính bảo vệ mắt, đầu laser được đưa vào ví trí phẫu thuật, giữ trong cùng thời gian như ở nhóm thử nghiệm nhưng không kích hoạt tia. - Hướng dẫn hậu phẫu: Tất cả các bệnh nhân đều được kê toa thuốc giống nhau gồm: Amoxicillin 500mg * 15 viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên và Ibubrofen 400mg * 9 viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên. Bệnh nhân được dặn dò làm theo hướng dẫn chăm sóc vết thương sau phẫu thuật, hẹn tái khám vào ngày thứ 1 và ngày thứ 2 sau phẫu thuật và cắt chỉ sau 1 tuần. - Đánh giá sau phẫu thuật Đo lường đau: Sau phẫu thuật, bệnh nhân được phát phiếu kiểm soát đau và được hướng dẫn để ghi lại tình trạng và mức độ đau của mình theo thang Likert 7 điểm và thang VAS vào mỗi 2 giờ trong 6h đầu tiên sau khi hết cảm giác tê môi và 24 giờ, 48 giờ sau phẫu thuật, số lượng viên thuốc giảm đau đã uống Đo lường sưng: Mức độ sưng mặt của bệnh nhân được xác định bằng cách dùng thước dây đo theo độ lồi má khoảng cách theo chiều dọc: từ góc mắt ngoài đến góc hàm dưới và theo chiều ngang: từ chân dái tai đến khóe miệng. Đo lường khít hàm: Đánh giá bằng cách đo lường độ há miệng tối đa của bệnh nhân. Xử lí và phân tích số liệu Các thông tin và số liệu thu thập được phân tích và xử lý theo phương pháp thống kê bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu Giới tính Nam Nữ 17 (56,7%) 13 (43,3%) Tuổi trung bình 22 ± 2,51 (18-28) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 257 Mẫu nghiên cứu Phân loại Pell & Gregory I II III A B C 0 29 (96,67%) 1 (3,33%) 0 29 (96,67%) 1 (3,33%) Phân loại Winter Nghiêng gần Thẳng Nằm ngang Nghiêng xa 22 (73,33%) 3 (10%) 5 (16,67%) 0 Bảng 2: Liều lượng thuốc tê và thời gian phẫu thuật Nhóm có sử dụng laser Nhóm chứng p (*) Liều lượng thuốc tê (ống) 9,87 ± 3 10,18 ± 2,79 0,559 Thời gian phẫu thuật (phút) 1,76 ± 0,16 1,69 ± 0,17 0,152 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Để giảm tối đa những yếu tố ảnh hưởng và giúp cho việc đánh giá chính xác hơn mức độ sưng, đau, khít hàm giữa 2 nhóm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch chúng tôi thực hiện nghiên cứu với thiết kế nửa miệng. Với thiết kế nghiên cứu này thì sự phân bố bệnh nhân theo tỉ lệ nam: nữ, độ tuổi, phân loại răng khôn giống nhau cho cả nhóm chứng và nhóm thử nghiệm (Bảng 1). Hơn nữa, tất cả bệnh nhân đều được phẫu thuật bởi một phẫu thuật viên có kinh nghiệm nên thời gian phẫu thuật trung bình giữa 2 nhóm và lượng thuốc tê sử dụng gần như tương đương nhau (Bảng 2). Điều này tạo thuận lợi cho việc đánh giá chính xác mức độ đau của bệnh nhân sau phẫu thuật. Đánh giá mức độ đau Theo thang Likert 7 điểm Trong 6h đầu sau khi hết cảm giác tê môi, mức độ đau cao nhất là mức độ 5 (đau rất nhiều) cho cả 2 nhóm. Tuy nhiên, ở nhóm có sử dụng laser số bệnh nhân ở mức độ đau nhiều và rất nhiều (mức độ 4 và mức độ 5) thấp hơn cũng như số bệnh nhân ở mức độ không đau và đau rất nhẹ (mức độ 0 và mức độ 1) cao hơn so với nhóm chứng. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (kiểm định 2, p= 0,246, 0,068, 0,439 tương ứng với các thời điểm 2h, 4h, 6h sau khi hết cảm giác tê môi) Trong 2 ngày tiếp theo sau phẫu thuật, ở nhóm có sử dụng laser có 1 bệnh nhân có mức độ đau nhiều (mức độ 4), còn lại là không đau đến đau nhẹ (mức độ 0 đến mức độ 2). Ở nhóm chứng, số bệnh nhân không đau và đau rất nhẹ (mức độ 0 và mức độ 1) ít hơn, số bệnh nhân đau nhẹ đến trung bình (mức độ 2 đến mức độ 3) nhiều hơn so với nhóm có sử dụng laser. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (kiểm định 2, p= 0,287, 0,09 tương ứng với các thời điểm T1, T2). Như vậy, đánh giá đau theo thang Likert 7 điểm trong 2 ngày sau phẫu thuật cho thấy ở cả 2 nhóm đều có mức độ đau nhiều nhất là mức độ 5 (đau rất nhiều). Tuy nhiên, nhóm có sử dụng laser thì số bệnh nhân ở mức độ này thấp hơn so với nhóm chứng (3,3% so với 13,4%) và số bệnh nhân đau nhiều nhất ở mức độ 1 (đau rất nhẹ) cao hơn so với nhóm chứng (16,7% so với 0 %), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng đồng nhất với kết quả nghiên cứu của Neckle Claus(9). Theo thang tương đồng nhìn được VAS Bảng 3: Mức độ đau giữa 2 nhóm theo thang VAS Thời điểm 2h 4h 6h T1 T2 Nhóm có sử dụng laser 31,23 ± 23,7 24,23 ± 17,1 20,73 ± 13,7 9,7 ± 12,8 3,9 ± 9,25 Nhóm chứng 41,43 ± 23,8 36,13 ± 18,5 30,27 ± 18,1 15,03 ± 15,56 8,57 ± 11,4 p (*) 0,006 0,002 0,01 0,026 0,022 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Khi đánh giá đau theo thang VAS cho thấy cường độ đau ở nhóm có sử dụng laser thấp hơn nhóm chứng đáng kể (Bảng 3). Điều này giống với nghiên cứu của Hakki Oguz Kazancioglu(3), Neveen Abou El-Soud(10), nhưng trong nghiên cứu của Marta López-Ramírez(6), Maurizio Ferrante(7), E. Darío Amarillas-Escobar(1) lại không ghi nhận sự khác biệt đáng kể này. Trong nghiên cứu của những tác giả này, nhóm thử nghiệm có giảm cường độ đau so với nhóm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 258 chứng nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt về kết quả này có thể do sự khác nhau về thông số chiếu laser sau phẫu thuật và thiết kế nghiên cứu song song của Maurizio Ferrante, E. Darío Amarillas-Escobar cũng phần nào cho thấy yếu tố cơ địa đã ảnh hưởng đến việc đánh giá cảm giác đau. Số lượng thuốc giảm đau đã uống Sau phẫu thuật, đa số bệnh nhân không uống thuốc giảm đau (24 bệnh nhân (80%) ở nhóm có sử dụng laser và 22 bệnh nhân (73,4%) ở nhóm chứng), chỉ có 4 bệnh nhân (13,4%) ở nhóm có sử dụng laser và 3 bệnh nhân (10%) ở nhóm chứng đã uống 1 đến 2 viên. Chỉ có 1 người uống 4 viên và 1 người uống 6 viên ở nhóm chứng và không có ai ở nhóm có sử dụng laser uống nhiều hơn 3 viên giảm đau sau phẫu thuật. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (kiểm định 2, p = 0,656) Bảng 4: Số lượng viên thuốc giảm đau đã uống Nhóm có sử dụng laser Nhóm chứng p (*) Số viên thuốc giảm đau 0,43 ± 0,935 0,83 ± 1,55 0,021 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Từ kết quả nghiên cứu này có thể gợi ý rằng sử dụng laser công suất thấp có hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật. Điều này do laser công suất thấp với bước sóng 810nm có khả năng xuyên mô sâu hơn, tác động trên các giai đoạn khác nhau của quá trình dẫn truyền để tạo ra những tác động giảm đau, tăng tạo -endorphin nội sinh, ngăn chặn sự khử cực của sợi C, tăng sản xuất NO, acetylcholine, giảm bradykinin, ổn định điện thế màng tế bào thần kinh, bình thường hóa kênh ion, tăng cường hệ thống redox của tế bào và tổng hợp ATP(11). Tác dụng kích thích sinh học này của laser công suất thấp đã và đang trở thành phương pháp chọn lựa để điều trị những trường hợp đau khó kiểm soát theo phương pháp điều trị truyền thống như đau trong phẫu thuật nha chu, viêm quanh thân răng, viêm miệng herpes, đau miệng mặt mạn tính, loét áp tơ tái phát, nóng rát miệng, quá cảm ngà... với nhiều hiệu quả tích cực và không gây ra tác dụng phụ nào(12). Đánh giá mức độ sưng mặt Đánh giá mức độ sưng mặt theo chiều ngang Có sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều ngang ở từng thời điểm giữa 2 nhóm, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê (p<0,001) Bảng 5: Mức độ sưng mặt theo chiều ngang ở 2 nhóm so với trước phẫu thuật Thời điểm Nhóm có sử dụng laser Nhóm chứng Trung bình (mm) p(2) Trung bình (mm) p(2) To 105,1 ± 5,63 104,36 ± 6,47 T1 106,96 ± 5,56 0,000 107,53 ± 6,27 0,000 T2 107,36 ± 5,63 0,000 108,96 ± 6,47 0,000 p (1) 0,254 0,021 (1)Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp giữa các thời điểm T0, T1,T2 (2)So sánh với thời điểm trước phẫu thuật, kiểm định t- test bắt cặp Bảng 6: Sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều ngang giữa 2 nhóm ở từng thời điểm Thời điểm Nhóm có sử dụng laser(mm) Nhóm chứng(mm) p (*) T1 1,86 ± 0,97 3,16 ± 1,62 0,000 T2 2,26 ± 0,94 4,6 ± 1,95 0,000 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Trong nghiên cứu này, ở nhóm có sử dụng laser mức độ sưng mặt theo chiều ngang thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (Bảng 5) ở tất cả các thời điểm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống với kết quả nghiên cứu của Maurizio Ferrante(7) và Markovic.A(5). Bên cạnh đó, các tác giả Marta López- Ramírez và E. Darío Amarillas-Escobar(1) lại không ghi nhận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về việc thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều ngang giữa 2 nhóm, mặc dù mức độ sưng mặt ở nhóm laser có thấp hơn so với nhóm chứng. Điều này có thể được giải thích do chúng tôi chiếu 2 lần sau phẫu thuật thay vì chỉ chiếu một lần như trong nghiên cứu của Marta López- Ramírez(6); mặt khác, sự khác biệt còn có thể do khác nhau về thiết kế nghiên cứu và cỡ mẫu giữa các nghiên cứu, với số lượng mẫu nhỏ hơn và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 259 cách thiết kế không phải trên cùng 1 bệnh nhân, nghiên cứu của E. Darío Amarillas-Escobar(1) có thể chưa ghi nhận được sự khác biệt đáng kể nào giữa 2 nhóm vì bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cơ địa. Đánh giá mức độ sưng mặt theo chiều dọc Có sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều dọc ở từng thời điểm giữa 2 nhóm, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê (p<0,001) Bảng 7: Mức độ sưng mặt theo chiều dọc ở 2 nhóm so với trước phẫu thuật Thời điểm Nhóm có sử dụng laser Nhóm chứng Trung bình (mm) p (2) Trung bình (mm) p (2) To 101,63 ± 7,24 102,6 ± 6,95 T1 103,43 ± 7,42 0,000 105,13 ± 6,73 0,000 T2 103,83 ± 7,33 0,000 105,26 ± 6,93 0,000 p (1) 0,468 0,244 (1)Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp giữa các thời điểm T0, T1, T2 . (2)So sánh với thời điểm trước phẫu thuật, kiểm định t-test bắt cặp Bảng 8: Sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều dọc giữa 2 nhóm ở từng thời điểm Thời điểm Nhóm có sử dụng laser(mm) Nhóm chứng(mm) p (*) T1 1,8 ± 0,92 2,53 ± 0,89 0,003 T2 2,2 ± 0,92 2,66 ± 0,92 0,017 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Mức độ sưng mặt theo chiều dọc vào ngày thứ nhất và ngày thứ 2 sau phẫu thuật ở cả 2 nhóm đều tăng đáng kể so với trước phẫu thuật (Bảng 7). Tuy nhiên, mức độ sưng mặt theo chiều dọc ở nhóm có sử dụng laser thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (Bảng 8) Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có khác so với nghiên cứu của Marta López-Ramírez(6), E. Darío Amarillas-Escobar(1) khi không ghi nhận được sự khác biệt đáng kể về sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều dọc so với trước phẫu thuật giữa 2 nhóm. Điều này cũng có thể do những yếu tố như đã được phân tích ở trên, ngoài ra còn có thể do chọn điểm chuẩn khác nhau khiến việc đo khoảng cách phản ánh mức độ sưng mặt do nhổ răng khôn không thấy được sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm Đánh giá độ há miệng Sự thay đổi độ há miệng ở từng thời điểm giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Bảng 9: Độ há miệng của 2 nhóm sau phẫu thuật Thời điểm Nhóm có sử dụng laser Nhóm chứng Trung bình (mm) p (2) Trung bình (mm) p (2) T0 52,13 ± 5,26 51,78 ± 5,37 T1 47,46 ± 7,87 0,000 41,56 ± 9,35 0,000 T2 47,2 ± 8,95 0,000 42,1 ± 9,79 0,000 p (1) 0,02 0,000 (1)Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp giữa các thời điểm T0, T1,T2. (2)So sánh với thời điểm trước phẫu thuật, kiểm định t-test bắt cặp Bảng 10: Mức độ khít hàm giữa 2 nhóm sau phẫu thuật Thời điểm Nhóm có sử dụng laser (mm) Nhóm chứng (mm) p (*) T1 -4,66 ± 4,71 -10,21 ±7,71 0,001 T2 - 4,93± 5,83 - 9,68 ± 7,67 0,003 (*)Kiểm định t-test bắt cặp Độ há miệng ở cả 2 nhóm vào ngày thứ nhất và ngày thứ 2 sau phẫu thuật đều giảm đáng kể so với trước phẫu thuật (Bảng 9). Tuy nhiên, ở nhóm có sử dụng laser độ há miệng giảm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng vào ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau phẫu thuật (Bảng 10). Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả giống với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả như Maurizio Ferrante(7), Mutan Hamdi Aras(8), Hakki Oguz Kazancioglu(3). Như vậy, kết quả nghiên cứu này của chúng tôi có thể gợi ý rằng việc sử dụng laser bán dẫn với thông số trên có hiệu quả trong giảm sưng, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. Điều này do tác dụng kháng viêm của laser thông qua tăng hoạt động thực bào, tăng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 260 sinh và giãn mạch lympho, giảm tính thấm thành mạch và phục hồi tuần hoàn mạng lưới mao mạch, giảm phù nề(11). Ngoài ra laser công suất thấp có tác dụng kháng viêm do ức chế sự thành lập các IL-6, MCP-1,IL-10 và yếu tố hoại tử mô TNF-(7). Hiệu quả tích lũy của những quá trình đa tương tác này làm tăng tốc chu trình viêm từ đó làm giảm triệu chứng và sớm phục hồi về trạng thái bình thường, do đó nên chiếu laser công suất thấp ngay sau can thiệp. KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu thực hiện cho thấy chiếu laser công suất thấp trong miệng, bước sóng 810 nm với các thông số kỹ thuật được dùng trong nghiên cứu này có hiệu quả trong giảm sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch. Mức độ đau, sưng, khít hàm giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, vì vậy chúng tôi khuyến cáo sử dụng laser công suất thấp sau phẫu thuật răng khôn vì đây là điều trị không xâm lấn, tránh những tác dụng phụ của thuốc và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau phẫu thuật răng khôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Amarillas-Escobar E.D, J. Martin Toranzo-Fernández (2010). Use of Therapeutic Laser After Surgical Removal of Impacted Lower Third Molars. American Association of Oral and Maxillofacial Surgeons 68:319-324. 2. Capuzzi P, Montebugnoli L, Vaccaro MA (1994). “Extraction of impacted third molars. A longitudinal prospective study on factors that affect postoperative recovery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol, 77(4): pp.341- 343 3. Hakki Oguz Kazancioglu & Seref Ezirganli & Nihat Demirtas (2012). Comparison of the influence of ozone and laser therapies on pain, swelling, and trismus following impacted third-molar surgery. Lasers Med Sci DOI 10.1007/s10103-013- 1300 4. Hana Kucerová, Tatjana Dostálová, Lucie Himmlová, Jirina Bártová N.Sc.D, And Jirí Mazánek (2000). Low-Level Laser Therapy after Molar Extraction. Journal of Clinical Laser Medicine & Surgery Volume 18, Number 6, Mary Ann Liebert, Inc.Pp. 309-315. 5. Markovic.A, Todorovic.Lj (2007). Effectiveness of dexamethasone and low-power laser in minimizing oedema after third molar surgery: a clinical trial. Int. J. Oral Maxillofac.Surg; 36: 226–229. 6. Marta López-Ramírez, Vílchez-Pérez, Gargallo-Albiol, Arnabat-Domínguez, Gay-Escoda (2011). Efficacy of lowlevel laser therapy in the management of pain, facial swelling, and postoperative trismus after a lower third molar extraction. A preliminary study. Lasers Med Sci. doi:10.1007/s10103-011- 0936-8 7. Maurizio Ferrante (2012). Effect of low-level laser therapy after extraction of impacted lower third molars. Lasers Med Sci. DOI 10.1007/s10103-012-1174-4 8. Mutan Hamdi Aras & Metin Güngörmüş (2010). Placebo- controlled randomized clinical trial of the effect two different low-level laser therapies (LLLT)—intraoral and extraoral—on trismus and facial swelling following surgical extraction of the lower third molar. Lasers Med Sci 25:641–645 DOI 10.1007/s10103-009-0684-1 9. Neckel Claus, Kukiz Paul (2001). A Comparative Study in the Postoperative Outcome of Patients after third molar extraction. J Oral Laser Appl, 1:215 -9. 10. Neveen Abou El-Soud, Hanaa El Shenawy (2010). A Randomized Double Blind Clinical Study on the Efficacy of Low Level Laser Therapy in Reducing Pain After Simple Third Molar Extraction. Macedonian Journal of Medical Sciences. 11. Reza Fekrazad, Nasim Chiniforush, Stephane Ayoub Bouraima, Maryam Valipour, Marjan Aslani, Mohammad Zare, Omid Ashtiani Safari (2012). Low Level Laser Therapy in Management of Complications after Intra Oral Surgeries. Journal of Lasers in Medical Sciences. Volume 3, Number 4. 12. Richard Martin, BS, CLT (2003), Laser-accelerated inflammation/pain reduction and healing. Practical Pain Management, Innovative Medical Group Corporation in Santa Monica,CA. Ngày nhận bài báo: 04/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/02/2015 Người phản biện: TS Tạ Tố Trân Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_laser_cong_suat_thap_trong_kiem_soat_dau_sung_v.pdf
Tài liệu liên quan