Nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác
biệt có ý nghĩa về sử dụng thuốc nicardipine
(p=0,29) và ephedrin (p=0,27), nhưng tỉ lệ dùng
thuốc tăng co bóp cơ tim nhóm BIS lại cao hơn có
ý nghĩa so với nhóm không BIS (62,1% so với
37,9%, p = 0,04) (bảng 6), sự khác biệt này có thể
do thời gian kẹp động mạch chủ kéo dài hơn ở
nhóm BIS so với nhóm không BIS (60 phút vs 47
phút, p=0,01).Theo tác giả Nguyễn Thị Quý và cs
“thời gian kẹp động mach chủ là một trong những
yếu tố chính yếu có ảnh hưởng đến tổn thương tế bào
cơ tim, ngoài ra còn có thể do chất lượng của việc tái
tưới máu, bảo vệ cơ tim, các ngã truyền dung dịch liệt
tim hoặc các loại dung dịch liệt tim.”(9).
Gây mê được hướng dẫn bởi giá trị BIS đã
làm giảm lượng thuốc mê vì thế thức tỉnh nhanh
hơn và rút ống nội khí quản sớm hơn. Tuy nhiên
trong phẫu thuật tim, thời gian nằm hồi sức và
thở máy phụ thuộc nhiều yếu tố như tình trạng
tim mạch, sử dụng thuốc vận mạch, loại phẫu
thuật, tình trạng trước mổ, chảy máu sau mổ.
Nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự
khác biệt có ý nghĩa về thời gian rút nội khí quản
của nhóm BIS: 6,5 giờ (3 - 8 giờ) so với nhóm
không BIS: 4,0 giờ (2,3 -10 giờ, p = 0,81) (bảng 7).
Tuy không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm
nhưng thời gian rút ống nội khí quản nhóm BIS
dài hơn do liên quan với tỉ lệ dùng thuốc tăng co
bóp cơ tim nhóm BIS nhiều hơn.
Trong phẫu thuật ngoài tim: những nghiên
cứu của các tác giả Recart(11), Dajun(3) nhận thấy
giảm thời gian rút ống nội khí quản của nhóm
BIS so với nhóm không BIS. Các nghiên cứu khác
không thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm(8).
Kanchi Muralidhah và cs thực hiện trên bệnh
nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành không có
THNCT cũng thấy giảm thời gian rút NKQ 3 ± 2
giờ và 2 ± 1 giờ lần lượt nhóm không BIS và
nhóm BIS. Thời gian hồi tỉnh tương tự giữa 2
nhóm trong một số nghiên cứu(7,12). Các tác giả
thấy rằng có nhiều yếu tố khác hơn là liều thuốc
propofol và isoflurane trong nghiên cứu này ảnh
hưởng đến thời gian rút nội khí quản.
Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi
nằm 1 ngày ở hồi sức (73,8% nhóm BIS, 76,7%
nhóm không BIS), nhóm không BIS không có
trường hợp nào nhưng nhóm BIS có 2,4% trường
hợp nằm đến 7 ngày do liên quan sử dụng thuốc
tăng co bóp cơ tim nhóm BIS nhiều hơn có ý
nghĩa (p= 0,049).
Cũng vậy trong nghiên cứu của Janet D và cs
trên 1.580 bệnh nhân, tác giả không thấy sự khác
biệt thời gian nằm hồi sức. Gía trị BIS trung bình
duy trì mê của tác giả là 47 cũng giống như
nghiên cứu của chúng tôi (BIS = 46), do giảm ít
(4,7%) lượng thuốc mê trong nhóm BIS nên
không gì ngạc nhiên khi thời gian nằm hồi sức
trong nghiên cứu của tác giả là không khác biệt.
Trong một nghiên cứu của Wong và cs(15) khi
thay khớp háng trên bệnh nhân lớn tuổi cho thấy
thời gian hồi tỉnh nhanh hơn ở nhóm BIS khi
duy trì mê bằng sevoflurane nhưng không ảnh
hưởng đến thời gian nằm hồi sức.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của theo dõi BIS trên sự tiêu thụ Sevoflurane và các thông số ở hồi sức trong phẫu thuật tim người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 105
HIỆU QUẢ CỦA THEO DÕI BIS TRÊN SỰ TIÊU THỤ SEVOFLURANE
VÀ CÁC THÔNG SỐ Ở HỒI SỨC
TRONG PHẪU THUẬT TIM NGƯỜI LỚN
Nguyễn Thị Như Hà*, Nguyễn Thị Qúy*
TÓM TẮT
Giảm tiêu thụ thuốc mê và rút ngắn thời gian lưu ống nội khí quản, thời gian nằm hồi sức khi theo dõi độ mê
bằng BIS đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu gây mê phẫu thuật ngoài tim. Tuy nhiên có rất ít nghiên
cứu về hiệu quả này của theo dõi BIS trên phẫu thuật tim. Vì thế chúng tôi thiết kế nghiên cứu này nhằm kiểm tra
có hay không theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS giúp giảm lượng thuốc mê sevoflurane và rút ngắn thời gian nằm hồi
sức cũng như thời gian lưu ống nội khí quản trên phẫu thuật tim người lớn.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên 108 bệnh nhân tuổi từ 18-75 được phẫu thuật van
tim, tất cả dẫn đầu bằng phương pháp gây mê tĩnh mạch nồng độ đích: propofol, sufentanil và duy trì mê bằng
sevoflurane. Nhóm BIS gồm 55 trường hợp và được điều chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm
53 trường hợp và được điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu lâm sàng. So với nhóm không BIS, lượng
sevoflurane nhóm BIS ít hơn 18% (p= 0,03) và không có sự khác biệt có ý nghĩa về thời gian rút ống nội khí quản
(nhóm BIS là 6,5 giờ, nhóm không BIS là 4,0 giờ, p= 0,81), thời gian nằm ở phòng hồi sức cũng tương tự giữa 2
nhóm (1 ngày, p= 0,87).
Kết luận:Theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS đã tiết kiệm được 18% lượng thuốc mê sevoflurane và không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian nằm hồi sức cũng như thời gian lưu ống nội khí quản trong phẫu thuật
van tim người lớn.
Từ khóa: chỉ số lưỡng phổ, phẫu thuật tim, sevoflurane, thời gian rút ống nội khí quản, thời gian nằm hồi
sức.
ABSTRACT
THE EFFECT OF BIS MONITORING ON CONSUMPTION OF SEVOFLURANE AND RECOVERY
PARAMETERS IN ADULT CARDIAC SURGERY.
Nguyen Thi Nhu Ha, Nguyen Thi Quy,
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 105 - 110
Reducing hypnotic medication utilization and shorter duration of intubation, length of stay in intensive care
as anesthesia with BIS monitoring were proven in many studies of non cardiac surgical anesthesia. However,
there are not many researchs on these effectiveness of BIS monitoring in cardiac surgery.This study was designed
to test whether the use of BIS monitoring reduces sevoflurane requirements, duration of intubation and the time to
discharge from the recovery room on adult cardiac surgery. We performed a prospective cohort study on 108
patients aged 18-75 undergoing the heart valve surgery, target control infusion anaesthesia was provided for all
patients by infusion propofol, sufentanil for induction and maintaining anesthesia with sevoflurane. 55 cases in
BIS group was adjusted anesthesia by Gurmanscheme. 53cases in non BIS group was adjusted anesthesia based
on the clinical signs. Compare with non BIS group, patients with BIS group required 18% less sevoflurane
(p=0.03) and there were no significant differences in time of tracheal extubation (BIS group was 6.5 hours, non
* Viện Tim TP.Hồ Chí Minh,
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Như Hà, ĐT: 0938338768, Email: bsnhuha@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 106
BIS group was 4.0 hours, p=0.81), similar length of stay in intensive care(1 day in both groups, p=0.87).
Conclusion: Monitoring of anesthesia with BIS index saved 18 % quantity of Sevoflurane and there were no
significant differences in time of tracheal extubation orlength of stay in intensive care on adult heart valve
surgery.
KEY WORDS:BIS (Bispectral Index), cardiac surgery, sevoflurane, time of tracheal extubation, length of
stay in intensive care.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong phẫu thuật, điều chỉnh đủ độ mê là
mong muốn của tất cả các bác sĩ gây mê, nhằm
tránh mê sâu không cần thiết do quá liều hoặc
mê nông do chưa đủ liều.Đa số các bác sĩ gây mê
dựa trên các dấu hiệu lâm sàng (mạch, huyết áp,
sự cử động của bệnh nhân với các kích thích
đau) để điều chỉnh lượng thuốc mê, tuy nhiên
các dấu hiệu này không đáng tin cậy để đo độ
mê, đặc biệt trong PT tim hay gây mê có dùng
thuốc giãn cơ(6). Có nhiều dụng cụ như: Entropy,
BIS, Narcotrend để theo dõi độ mê nhưng các tác
giả cho rằng BIS ưu việt hơn trong theo dõi độ
mê [www.nice.org.uk/dg6].
BIS là những giá trị được điều chỉnh từ điện
não đồ của bệnh nhân gây mê đã được đưa vào
thực hành lâm sàng để đo độ mê. Nhà sản xuất
(Aspect Medical Systems, Natick, MA) cho rằng
kỹ thuật này làm giảm sử dụng thuốc mê, rút
ngắn thời gian nằm hồi sức và thời gian lưu ống
nội khí quản(10).Vì vậy chúng tôi thiết kế nghiên
cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của BIS trên
lượng thuốc mê sevoflurane và các thông số ở
hồi sức.
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp nghiên cứu
Đoàn hệ tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân từ 18-75 tuổi, được phẫu
thuật trên van tim từ tháng 4-2012 đến 4-2014 tại
Viện Tim, có ASA I-III, NYHA từ I-III, EF >50%,
PAPS < 60 mmHg. Không có sử dụng thuốc
hướng tâm thần, thuốc á phiện, BMI <23, không
có đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn, men gan (SGOT
và SGPT) <2 lần bình thường, Creatinine máu <
200 umol/l, không bị dị ứng với một trong số các
thuốc trong nghiên cứu, nghe và trả lời bằng
tiếng Việt.
Phương pháp tiến hành
Tất cả bệnh nhân được tiền mê Atarax
1mg/kg 1 giờ trước khi đến phòng mổ. Tại
phòng mổ bệnh nhân được gắn các thiết bị theo
dõi như ECG, SpO2, đặt 2 đường truyền tĩnh
mạch, huyết áp xâm lấn. Nhóm bệnh nhân được
theo dõi độ mê bằng BIS chuẩn bị như sau: lau
trán bệnh nhân bằng alcool, đợi khô sẽ dán điện
cực để theo dõi độ mê như đề nghị của nhà sản
xuất. Cuối cùng kháng trở sẽ được đo ở mỗi
miếng điện cực nhằm đảm bảo tiếp xúc tốt. Sau
đó bộ cảm nhận thu các tín hiệu từ vỏ não và
đưa vào bộ phận chuyển tín hiệu kỹ thuật số để
tính toán thành trị số không có đơn vị từ 0-100.
Khi tỉnh táo, BIS từ90-100, BIS =0: vỏ não bị ức
chế hoàn toàn, BIS <40: mê sâu. Trong gây mê
nên duy trì BIS 40 – 60.
Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: 55
trường hợp được theo dõi bằng BIS (nhóm BIS),
53 trường hợp theo dõi độ mê dựa trên các dấu
hiệu lâm sàng (nhóm không BIS). Tất cả được
dẫn đầu gây mê bằng phương pháp TCI:
propofol và sufentanil. Truyền sufentanil trước
với nồng độ 0,35-0,4 ng/ml, khi đạt được nồng
độ này tại não mới bắt đầu truyền propofol khởi
đầu 1,5 µg/ml và tăng dần mỗi 0,5 µg/ml cho đến
khi bệnh nhân mất tri giác (OAA/S ≤ 2) thì tiêm
thuốc dãn cơ rocuronium 1mg/kg và đặt nội khí
quản tùy theo mỗi nhóm: nhóm BIS đặt nội khí
quản khi giá trị BIS =60 và sau 1 phút tiêm
rocuronium, nhóm không BIS đặt nội khí quản
khi OAAS < 2 và sau 1 phút tiêm rocuronium.
Cả 2 nhóm duy trì thuốc mê thể khí
sevoflurane và oxy, với lưu lượng khí mới 3
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 107
l/phút và có theo dõi nồng độ khí mê, CO2 bằng
máy Dragger Vamos. Nhóm BIS điều chỉnh độ
mê theo sơ đồ Gurman (bảng 1), nhóm không
BIS điều chỉnh độ mê dựa trên dấu hiệu lâm
sàng (cử động, chảy nước mắt, toát mồ hôi) và
giữ cho sự thay đổi của mạch, huyết áp trung
bình trong khoảng ± 20% so với giá trị ban đầu.
Duy trì thuốc mê đến lúc hoàn tất may da. Dùng
atropin khi nhịp tim< 40 l/phút, hoặc các thuốc
vận mạch như nicardipine, epinephrine khi cần.
Cả 2 nhóm bệnh nhân khi đến phòng hồi sức
đều tiếp tục thông khí cơ học, giảm đau bằng
morphin ± perfalgan truyền tĩnh mạch và an
thần bằng propofol 1–2 mg/kg/giờ truyền tĩnh
mạch liên tục cho đến khi hết hay giảm chảy
máu, nhiệt độ cơ thể 36,5 - 37oC, tưới máu mô tốt,
huyết động ổnsẽ ngưng thuốc propofol và tính
là thời điểm t0. Theo dõi và tập thở khi bệnh nhân
tỉnh táo, rút ống nội khí quản khi đủ tiêu chuẩn
và ghi nhận mấy giờ kể từ thời điểm t0.
Ghi nhận các trị số BIS, nồng độ propofol,
sevoflurane, mạch, huyết áp, dấu hiệu lâm sàng
và áp lực tĩnh mạch trung tâm tại các thời điểm:
bệnh nhân mới đến phòng mổ, mất tri giác,
trước soi thanh quản, soi thanh quản, sau đặt nội
khí quản 2 phút, trước và sau rạch da 2 phút,
trước và sau cưa xương ức 2 phút, giai đoạn
trước THNCT, trong THNCT, trước ngưng
THNCT 5 phút và sau ngưng 15 phút, xỏ chỉ
thép, may da.
Bảng 1: Sơ đồ quyết định của Gurman
BIS
HATB > 120%
giá trị cơ bản
HATB
bình
thường
HATB < 120% giá trị
cơ bản
BIS >
60
Tăng thuốc mê,
có thể dùng
thuốc dãn mạch
Tăng
thuốc mê
Bù dịch và hoặc thuốc
vận mạch rồi tăng thuốc
mê.
40<BI
S<60
Dùng thuốc dãn
mạch. Lý tưởng.
Bù dịch và hoặc dùng
thuốc vận mạch
BIS <
40
Dùng thuốc dãn
mạch, giảm
thuốc mê.
Giảm
thuốc mê.
Giảm thuốc mê, có thể
bù dịch và hoặc dùng
thuốc vận mạch.
Phân tích và xử lý số liệu
Thống kê mô tả đặc tính mẫu giữa 2 nhóm
trước mổ, trong và sau mổ. Thống kê mô tả các
biến số kết cuộc: lượng trung bình sevofluran
của 2 nhóm. Trung bình ± độ lệch chuẩn (nếu
biến có phân phối bình thường) hoặc trung vị
nếu biến không có phân phối bình thường.
Thống kê phân tích: dùng phép kiểm χ2 với các
biến định tính và các biến phân nhóm, phép
kiểm T-test với các biến định lượng. Tất cả
phương pháp thống kê và phân tích được thực
hiện bằng phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác
biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm về đặc điểm dân số
trước mổ như: tỉ lệ nam/nữ, tuổi, cân nặng, BMI,
ASA, NYHA, EF, PAPS, tỉ lệ nhịp xoang/rung
nhĩ hay bệnh cao huyết áp đi kèm (bảng 2 và 3).
Cũng không khác biệt về loại phẫu thuật, thời
gian duy trì sevo hay thời gian THNCT, chỉ có sự
khác biệt có ý nghĩa về thời gian gây mê (p =
0,02) và thời gian kẹp động mạch chủ (p = 0,01)
của nhóm BIS dài hơn nhóm không BIS (bảng 4).
Lượng thuốc trung bình sevoflurane nhóm
BIS: 13,3 ± 2,6 ml/giờ ít hơn có ý nghĩa so với
nhóm không BIS 15,7± 3,4 ml/giờ (p= 0,03)
(giảm 18%)(bảng 5). Chúng tôi chỉ phỏng vấn
1 lần sau phẫu thuật, không có trường hợp
nào nằm mơ hay thức tỉnh trong mổ và trong
suốt cuộc mổ không có trường hợp nào chảy
nước mắt, hay cử động.
Thời gian rút nội khí quản trung bình nhóm
BIS: 6,5 giờ (3- 8 giờ), nhóm không BIS: 4,0 giờ
(2,3- 10 giờ), tuy nhiên không có sự khác biệt có ý
nghĩa (p=0,81) (bảng 7).Thời gian nằm hồi sức
trung bình nhóm BIS: 1 ngày (1 ngày- 2 ngày) và
nhóm không BIS: 1 ngày (1 ngày-1,25 ngày),
không có sự khác biệt về thời gian nằm hồi sức
giữa 2 nhóm (P= 0,867) (bảng 7).
Bảng 2 : Đặc điểm chung của bệnh nhân trước mổ
Nhóm BIS
N = 55 (%)
Không BIS
N = 53 (%)
P
Nam 29 (52,7) 20 (37,7) 0,14
Tuổi*(năm) 43,7 ± 13,9 46,4± 11,6 0,33
Cân nặng*(Kg) 53,4 ± 6,9 52,5± 6,5 0,40
BMI* 21 ± 1,9 20,7± 1,5 0,21
* TB ± ĐLC. BMI: chỉ số khối cơ thể.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 108
Bảng 3 : Đặc điểm bệnh lý tim mạch trước mổ
Nhóm BIS (%) Không BIS(%) P
ASA II 42,9 63,7 0,09
ASA III 57,1 36,3
NYHA I 2,9 6,1 0,70
NYHA II 65,7 57,7
NYHA III 31,4 36,2
EF* (%) 67,2 ± 7,5 65,7± 9,7 0,54
PAPS*(mmHg) 42,2 ± 15 40,8± 13,6 0,65
Rung nhĩ 36,4 35,5 0,92
Cao huyết áp(n) 2 2 0.91
* TB ± ĐLC. EF: phân suất tống máu. PAPS: áp lực động
mạch phổi tâm thu.
Bảng 4 : Đặc điểm của bệnh nhân trong mổ
Nhóm BIS
N = 55 (%)
Không BIS
N = 53 (%)
P
PT 1 van 30 (54,5) 32 (60,3) 0,85
PT 2 van 21 (38,2) 18 (33,9)
PT 3 van 4 (7,3) 3 (5,8)
TG duy trì sevo (giờ) 3,3 3,0 0,29
TG gây mê* (giờ) 3,8 ± 0,6 3,5 ± 0,6 0,02
TG THNCT* (phút) 88,0 ± 31,0 78,1± 18,2 0,08
TG kẹp ĐMC (phút) 60 47 0,01
* TB ± ĐLC. TG: thời gian. ĐMC: động mạch chủ. THNCT:
tuần hoàn ngoài cơ thể.
Bảng 5 : Lượng thuốc mê trong phẫu thuật
Nhóm BIS
N = 55 (%)
Không BIS
N = 45 (%)
P
Lượng sevoflurane*
(ml/giờ) 13,3 ± 2,6 15,7± 3,4
0,03
* TB ± ĐLC
Bảng 6: Các thuốc dùng trong phẫu thuật
Nhóm BIS
N = 55 (%)
Không BIS
N = 53 (%)
P
Lượng sufentanil (Ɣ) 112 111 0,28
Thuốc Loxen 10 18 0,29
Thuốc Ephedrine 10 19 0,27
Thuốc TCBCT 36 (62,1) 22 (37,9) 0,04
TCBCT : tăng co bóp cơ tim
Bảng 7 :Thời gian rút nội khí quản, thời gian nằm hồi
sức
Nhóm BIS Không BIS P
TG rút NKQ* (giờ) 6,5 (3-8) 4,0 (2,3-10) 0,81
TG nằm HS* (ngày) 1,0 (1-2) 1,0 (1-1,25) 0,87
* TB (tứ phân vị)
Biểu đồ 2: Thời gian rút ống NKQ của 2 nhóm
BÀN LUẬN
Phẫu thuật tim có những nét đặc trưng riêng
như: tuần hoàn ngoài cơ thểlàm thay đổi dược
động và dược lực học của thuốc, các kích thích
mạnh gây đau (như cưa xương ức, sốc điện, lôi
kéo trong phẫu thuật, đặt nội khí quản..). Mặt
khác để không ảnh hưởng đến chức năng tim
đặc biệt trên bệnh nhân có ASA thấp(6), gây mê
thường dùng liều cao thuốc á phiện kết hợp liều
thấp thuốc ngủ tất cả những điều này làm
tăng tần suất thức tỉnh trong mổ. Vì thế rất cần
thiết có dụng cụ theo dõi độ mê trong gây mê,
đặc biệt trong mổ tim mạch.Có nhiều dụng cụ
như: Entropy, BIS, Narcotrend để theo dõi độ mê
nhưng các tác giả cho rằng BIS ưu việt hơn trong
theo dõi độ mê [www.nice.org.uk/dg6].Đánh giá
trên tiêu thụ thuốc mê, các nghiên cứu thấy rằng
gây mê được hướng dẫn bởi chỉ số BIS làm giảm
có ý nghĩa 20%-40% lượng thuốc mê sevoflurane
so với nhóm không BIS trong phẫu thuật ngoài
tim(12). Nhưng ngược lại một số nghiên cứu
không chứng minh giảm tiêu thụ sevoflurane(1).
Nghiên cứu của chúng tôi giảm 18% lượng
sevoflurane,thấp hơn so với các nghiên cứu
khác. Lý giải điều này (1) do thiết kế nghiên cứu
của chúng tôi là nhóm BIS duy trì giá trị BIS
trung bình 46,2 trong suốt cuộc mổ, thấp hơn các
nghiên cứu khác: duy trì BIS trung bình 50 hay
55-60(8) và tăng giá trị BIS 50-70 vào 15 phút cuối
cuộc mổ, mà mỗi điểm khác biệt về trị số BIS
giữa 2 nhóm sẽ giảm 1,4% đến 2% lượng thuốc
ngủ(3,4). Lý do (2): chúng tôi có kinh nghiệm sử
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 109
dụng theo dõi BIS 1 năm trước khi thực hiện
nghiên cứu này nên có khả năng chúng tôi đã
biết rõ về mối tương quan giữa nồng độ
sevoflurane và giá trị BIS trong các phẫu thuật
tương tự, do đó làm giảm sự khác biệt về lượng
sevoflurane giữa 2 nhóm, gọi là nhiễu do quá
trình học đã được chứng minh bởi Roizen và
Toledano(11).
Giảm thuốc mê trong phẫu thuật tim có
THNCT có thể suy ra rằng ức chế cơ tim ít hơn, ít
làm giảm kháng lực mạch máu hệ thống, giảm
rối loạn nhịp, giảm sử dụng thuốc co bóp cơ tim
cũng như thuốc vận mạch. Sử dụng chính xác
lượng thuốc mê trong phẫu thuật tim thì hết sức
quan trọng trên bệnh nhân có chức năng co bóp
tim kém, bệnh nhân lớn tuổi và nhóm bệnh nhân
thuộc nguy cơ cao.
Nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác
biệt có ý nghĩa về sử dụng thuốc nicardipine
(p=0,29) và ephedrin (p=0,27), nhưng tỉ lệ dùng
thuốc tăng co bóp cơ tim nhóm BIS lại cao hơn có
ý nghĩa so với nhóm không BIS (62,1% so với
37,9%, p = 0,04) (bảng 6), sự khác biệt này có thể
do thời gian kẹp động mạch chủ kéo dài hơn ở
nhóm BIS so với nhóm không BIS (60 phút vs 47
phút, p=0,01).Theo tác giả Nguyễn Thị Quý và cs
“thời gian kẹp động mach chủ là một trong những
yếu tố chính yếu có ảnh hưởng đến tổn thương tế bào
cơ tim, ngoài ra còn có thể do chất lượng của việc tái
tưới máu, bảo vệ cơ tim, các ngã truyền dung dịch liệt
tim hoặc các loại dung dịch liệt tim...”(9).
Gây mê được hướng dẫn bởi giá trị BIS đã
làm giảm lượng thuốc mê vì thế thức tỉnh nhanh
hơn và rút ống nội khí quản sớm hơn. Tuy nhiên
trong phẫu thuật tim, thời gian nằm hồi sức và
thở máy phụ thuộc nhiều yếu tố như tình trạng
tim mạch, sử dụng thuốc vận mạch, loại phẫu
thuật, tình trạng trước mổ, chảy máu sau mổ.
Nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự
khác biệt có ý nghĩa về thời gian rút nội khí quản
của nhóm BIS: 6,5 giờ (3 - 8 giờ) so với nhóm
không BIS: 4,0 giờ (2,3 -10 giờ, p = 0,81) (bảng 7).
Tuy không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm
nhưng thời gian rút ống nội khí quản nhóm BIS
dài hơn do liên quan với tỉ lệ dùng thuốc tăng co
bóp cơ tim nhóm BIS nhiều hơn.
Trong phẫu thuật ngoài tim: những nghiên
cứu của các tác giả Recart(11), Dajun(3) nhận thấy
giảm thời gian rút ống nội khí quản của nhóm
BIS so với nhóm không BIS. Các nghiên cứu khác
không thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm(8).
Kanchi Muralidhah và cs thực hiện trên bệnh
nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành không có
THNCT cũng thấy giảm thời gian rút NKQ 3 ± 2
giờ và 2 ± 1 giờ lần lượt nhóm không BIS và
nhóm BIS. Thời gian hồi tỉnh tương tự giữa 2
nhóm trong một số nghiên cứu(7,12). Các tác giả
thấy rằng có nhiều yếu tố khác hơn là liều thuốc
propofol và isoflurane trong nghiên cứu này ảnh
hưởng đến thời gian rút nội khí quản.
Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi
nằm 1 ngày ở hồi sức (73,8% nhóm BIS, 76,7%
nhóm không BIS), nhóm không BIS không có
trường hợp nào nhưng nhóm BIS có 2,4% trường
hợp nằm đến 7 ngày do liên quan sử dụng thuốc
tăng co bóp cơ tim nhóm BIS nhiều hơn có ý
nghĩa (p= 0,049).
Cũng vậy trong nghiên cứu của Janet D và cs
trên 1.580 bệnh nhân, tác giả không thấy sự khác
biệt thời gian nằm hồi sức. Gía trị BIS trung bình
duy trì mê của tác giả là 47 cũng giống như
nghiên cứu của chúng tôi (BIS = 46), do giảm ít
(4,7%) lượng thuốc mê trong nhóm BIS nên
không gì ngạc nhiên khi thời gian nằm hồi sức
trong nghiên cứu của tác giả là không khác biệt.
Trong một nghiên cứu của Wong và cs(15) khi
thay khớp háng trên bệnh nhân lớn tuổi cho thấy
thời gian hồi tỉnh nhanh hơn ở nhóm BIS khi
duy trì mê bằng sevoflurane nhưng không ảnh
hưởng đến thời gian nằm hồi sức.
KẾT LUẬN
Trong phẫu thuật van tim người lớn, khi
theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS đã tiết kiệm được
18% lượng thuốc mê sevoflurane và không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian nằm
hồi sức cũng như thời gian lưu ống nội khí quản.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmad S, Yilmaz M, Marcus RJ, et al (2003) "Impact of
Bispectral Index monitoring on fast tracking of gynecologic
patients undergoing laparoscopic surgery". Anesthesiology, 98,
849 –52.
2. Bruhn J, Kreuer S, Wilhelm W, et al (2005) "Reduction of
anesthetic drug consumption is correlated with mean titrated
bispectral index values: a quantitative systematic". ASA, A66.
3. Dajun Song, Girish P. Joshi et al (1997) "Titration of volatile
anesthetics using Bispectral Index facilitates recovery after
ambulatory anesthesia". Anesthesiology, 87, 842-8.
4. Ellerkmann R. K., S.Kreuer, W.Wilhelm, et al (2006) "Reduction
in anaesthetic drug consumption is correlated with mean
titrated intra-operative Bispectral Index values". Acta
Anaesthesiol Scand, 50, 1244–1249.
5. Lunn JK, Stanley TH, Eisele J, et al (1979) "High-dose fentanyl
anesthesia for coronary artery surgery: Plasma fentanyl
concentrations and influence of nitrous oxide on cardiovascular
responses". Anesth Analg, 58, 390-395.
6. Mahla ME (1997) "Electroencephalogram in the OR". 16, (1), 3-
13.
7. Myles PS, Hunt JO, Fletcher H, Smart J, Jackson T (2000)
"Propofol, thiopental, sevoflurane, and isoflurane: A
randomized, controlled trial of effectiveness". Anesth Analg, 91,
1163-9.
8. Nabaweya Mostafa Kamal, S.H. Omar, K.G. Radwan and A.
Youssef (2009) "Bispectral index monitoring tailors clinical
anesthetic delivery and reduces anesthetic drug consumption".
J.Med. Sci, 9, 10-16.
9. Nguyễn Thị Quý, Nguyễn Văn Chừng và cs (2006) "Hiệu quả
của sự phối hợp sufentanil- propofol trong gây mê phẫu thuật
bắc cầu mạch vành". Y học TP. Hồ Chí Minh 10, 111-118.
10. Product Information. BIS: Your guide to the hypnotic state
during anesthesiaand sedation. Natick,MA: Aspect Medical
Systems.
11. Recart A, Gasanova I, White PF, et al (2003) "The effect of
cerebral monitoring on recovery after general anesthesia: a
comparison of the auditory evoked potential and bispectral
index devices with standard clinical practice". Anesth Analg, 97,
1667-74.
12. Robinson BJ, Uhrich TD, Ebert TJ (1999) "A review of recovery
from sevoflurane anaesthesia : comparisons with isoflurane and
propofol including meta analysis". Acta Anaesthesiol Scand, 43,
185-90.
13. Roizen MF, Toledano A (1994) "Technology assessment and the
“learning contamination” bias". Anesth Analg, 79, 410–12.
14. Sebel PS, Browdle TA, Ghoneim MM, et al (2004) "The incidence
of awareness during anesthesia: a multicenter United States
study". Anesth Analg, 99, 833-9.
15. Wong J, Song D, Blanshard H, Grady D, Chung F (2002)
"Titration of isoflurane using BIS index improves early recovery
of elderly patients undergoing orthopedic surgeries". Can J
Anaesth, 49, 13– 8.
Ngày nhận bài báo: 29/04/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/05/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_theo_doi_bis_tren_su_tieu_thu_sevoflurane_va_ca.pdf