Hạn chế của nghiên cứu
Do vấn đề chi phí nghiên cứu hạn hẹp, nên
chúng tôi không tiến hành cấy phết vùng da sau
khi sát khuẩn ở cả hai nhóm nghiên cứu. Tuy
nhiên, điều này cũng không cần thiết vì theo
nghiên cứu của Koivisto và Felig (1978) dù tỉ lệ
phần trăm vi khuẩn còn hiện diện trên da sau
khi sát khuẩn ở hai nhóm có sự khác biệt, cũng
không có nghĩa tỉ lệ nhiễm khuẩn cũng khác biệt
như vậy(10). Ngoài ra do chúng tôi lấy mẫu ở
khoa ngoại nên hầu hết người bệnh đều dược
tiêm kháng sinh trong giai đoạn nghiên cứu.
Việc đánh giá các dấu hiệu nhiễm trùng tại
chỗ còn mang tính chủ quan, chưa có công cụ đo
lường cụ thể đặc biệt là đánh giá đau (chưa loại
trừ được nguyên nhân đau do thuốc/ do yếu tố
nhiễm trùng), nhiệt độ vùng da nơi tiêm (cần sử
dụng nhiệt kế chuyên dụng để đánh giá nhiệt
độ chênh lệch ở hai vùng da chính xác hơn).
Tuy nhiên thời gian một mũi tiêm được
khảo sát trong nghiên cứu bao gồm thời gian
của cả một quy trình tiêm từ lúc sát khuẩn, đưa
thuốc vào người bệnh nhân đến cố định kim
tiêm và tiện nghi cho người bệnh. Thời gian này
chưa đánh giá chính xác thời gian điều dưỡng
sát khuẩn vị trí tiêm.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chưa đề cập
tới mũi tiêm tĩnh mạch vì mũi tiêm này được
đâm kim trực tiếp vào máu cho nên không biết
có thể áp dụng phương pháp sát khuẩn da bằng
tay cầm gòn cồn không. Với câu hỏi này chúng
tôi đề nghị sẽ có các nghiên cứu khác để làm rõ
vấn đề này.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu với 200 mũi tiêm trên 200
người bệnh chúng tôi đã tìm ra được rằng
không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm
gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay
sạch cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm
khuẩn, sự rắc rối hay bất tiện giữa 2 phương
pháp, nhưng lại khác biệt về thời gian thực hiện.
Ngoài ra chi phí cho dụng cụ sát trùng da bằng
tay mang găng cầm gòn tẩm cồn sát khuần da ít
tốn kém hơn việc sát trùng da bằng kềm (không
khả thi, khó thực hiện vì một NB một cây kềm
và một bình kềm).
Như vậy việc sát trùng da khi tiêm bắp hoặc
tiêm dưới da bằng phương pháp dùng tay cầm
gòn cồn vừa an toàn vừa khả thi và tiết kiệm
được kinh phí điều trị cho người bệnh.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của việc mang găng sạch cầm gòn cồn trong sát khuẩn da khi tiêm bắp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 248
HIỆU QUẢ CỦA VIỆC MANG GĂNG SẠCH CẦM GÒN CỒN
TRONG SÁT KHUẨN DA KHI TIÊM BẮP
Đoàn Thị Anh Lê*, Lê Thị Tầm*,Trần Thị Hồng Thắm*, Trần Mỹ Bình*, Phạm Thị Ánh Hương*,
Nguyễn Thị Phương Lan*
TÓM TẮT
Hàng năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm cho người bệnh trong khi 50% số mũi tiêm đó lại không an toàn
(WHO, 2006). Một trong những nguyên nhân gây nên những mũi tiêm không an toàn là do việc sát khuẩn da
không hiệu quả. Theo giáo trình hiện nay tại các trường đào tạo cho nhân viên y tế yêu cầu phải có một bình
đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát trùng da cho mỗi bệnh nhân, tuy nhiên chỉ khoảng 21% điều dưỡng
thực hiện đúng phương pháp trên tại lâm sàng.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của việc mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn
da trước khi tiêm thuốc.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn với 210 mũi tiêm bắp trên bệnh nhân tại khoa
Ngoại bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay sạch
cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm khuẩn, thời gian thực hiện, nhưng lại khác biệt về chi phí cho dụng cụ.
Kết luận: Sát trùng da khi tiêm thuốc nên sử dụng tay mang găng cầm gòn cồn để sát khuẩn da thì vừa an
toàn vừa kinh tế so với phương pháp sát khuẩn da bằng kềm.
Từ khóa: Sát khuẩn da, tiêm bắp.
ABSTRACT
THE EFFECTIVENESS OF CLEANSING SKIN WITH ALCOHOL COTTON BALL
BY USING CLEAN GLOVES BEFORE INJECTION INTRAMUSCULAR
Đoan Thi Anh Le, Le Thi Tam,Tran Thi Hong Tham, Tran My Binh, Pham Thi Anh Huong,
Nguyen Thị Phuong Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 248‐ 255
Every year, there are about 16 billion injections for patients while 50% of the shots that are not safe (WHO,
2006). One of the causes of unsafe injections is due to the effectiveness of disinfect skin before injection. Under the
current curriculum in schools for health workers, it’s required to have a sterile forceps to disinfect the skin for
each patient before injection, but only about 21% of nurses have done the right techniques on the clinical settings.
Objective: To assess the effectiveness of cleansing skin with alcohol cotton ball by using gloves
before injection.
Methodology: Single‐blind clinical trial with intramuscular injections in 210 patients in Surgical ward of
National Hospital of Odonto Stomatology.
Results: No difference between the use of gloves and sterile forceps to cleanse the skin with alcohol cotton
ball before injection in on infection rates, execution time, but the difference in cost for the tool.
Conclusion: Skin disinfectant before injection using gloved hands holding alcohol cotton ball to swab the
skin is safe and more economical than using sterile forceps.
Keywords: Skin infection, intramuscular
* Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths Đoàn Thị Anh Lê ĐT: 0989035428 Email: doanthianhle@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 249
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, số lượng mũi tiêm cho người
bệnh ngày càng cao, có khoảng 16 tỷ mũi tiêm
được thực hiện trong một năm, trung bình 1,5
mũi tiêm/người/năm(20). Ở Việt Nam, Phạm Đức
Mục báo cáo trong hội thảo cơ sở về tiêm an
toàn 20/12/2006 tình hình lạm dụng thuốc tiêm
trong điều trị khá cao, tại tuyến cơ sở một bệnh
nhân phải nhận trung bình 2,2 mũi tiêm/ngày.
Theo báo cáo năm 2008 của bệnh viện Nhi
Trung Ương, hàng năm có khoảng 80% bệnh nhi
được điều trị bằng đường tiêm. Ngoài ra tình
hình tiêm không an toàn đặc biệt là ở các nước
đang phát triển, rất cao, 50% mũi tiêm không an
toàn(20), gây thiệt hại 585 triệu USD mỗi năm và
làm 1,3 triệu người tử vong. Cũng theo nghiên
cứu của Varga và cộng sự năm 2006 đã đưa ra
kết luận việc sát khuẩn da không đúng gây ra
các biến chứng tại chỗ như abcess nóng, lạnh,
viêm màng ngoài tim đặc biệt là đối với
những người bệnh có nguy cơ cao như nhiễm
HIV, suy giảm miễn dịch(19)
Theo báo cáo về nghiên cứu tiêm an toàn của
Đòan Thị Anh Lê (2006) thì áp lực công việc của
một điều dưỡng quá lớn (69% điều dưỡng thực
hiện 30‐50 mũi tiêm /một cas trực), ngoài ra qua
nghiên cứu này còn cho thấy chỉ có 21% điều
dưỡng sát khuẩn da bằng gòn cồn vô khuẩn liên
quan đến việc hạn chế về dụng cụ để thực hiện
kỹ thuật một mũi tiêm, như sử dụng cùng một
bình đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát
khuẩn da cho nhiều bệnh nhân(2).
Theo giáo trình hiện nay tại các trường đào
tạo cho nhân viên y tế yêu cầu phải có một
bình đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát
trùng da cho mỗi bệnh nhân(3). Trong khi đó,
sách điều dưỡng cơ bản của Crisp và Taylor
(2009) nói về kỹ thuật tiêm cho rằng việc
chuẩn bị da trước khi tiêm chỉ cần dùng tay
mang găng sạch cầm gòn để sát khuẩn da(5).
Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm so sánh có hay không sự khác biệt về
hiệu quả giữa phương pháp sát khuẩn da bằng
cách dùng kềm vô khuẩn gắp gòn tẩm cồn 700
và mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để
sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc. Và qua kết
quả nghiên cứu này, chúng tôi mong có được
một phương pháp sát khuẩn vùng da trước
khi tiêm đảm bảo an toàn và khả thi.
Câu hỏi nghiên cứu
Có sự khác biệt về nguy cơ nhiễm khuẩn
và khả thi giữa việc dùng kềm vô khuẩn gắp
gòn tẩm cồn 700 và mang găng tay sạch cầm
gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước khi tiêm
thuốc không?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả của việc mang găng tay
sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước
khi tiêm thuốc.
Mục tiêu cụ thể
So sánh tình trạng nhiễm trùng do sát
khuẩn da giữa phương pháp dùng kềm vô
khuẩn kẹp gòn và mang găng sạch cầm gòn
tẩm cồn 700 trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc
nhóm (A) và nhóm (B).
So sánh thời gian thực hiện mũi tiêm giữa 2
phương pháp sát khuẩn da bằng cách dùng kềm
vô khuẩn kẹp gòn và mang găng sạch cầm gòn
tẩm cồn 700 trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc
nhóm (A) và nhóm (B).
So sánh sự khả thi giữa 2 phương pháp sát
khuẩn da bằng cách dùng kềm vô khuẩn kẹp
gòn và mang găng sạch cầm gòn tẩm cồn 700
trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc nhóm (A) và
nhóm (B).
Tổng quan tài liệu
Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới,
mũi tiêm an toàn là mũi tiêm được thực hiện có
sử dụng dụng cụ thích hợp, không gây hại cho
người được tiêm, không gây nguy cơ phơi
nhiễm cho người thực hiện tiêm và không tạo
chất thải nguy hại cho người khác
(WHO/BCT/01.02. WHO/V&B/01.30), và thông
điệp tiêm an toàn của Tổ Chức Y Tế Thế Giới
được truyền tải rộng rãi là không gây hại cho
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 250
người được tiêm, không tạo khả năng phơi
nhiễm với bất cứ nguy cơ nào cho cán bộ y tế,
không tạo ra chất thải gây nguy hại cho cộng
đồng và cũng để giữ an toàn cho mũi tiêm, tổ
chức này cũng đưa ra những tiêu chí tránh gây
nhiễm bẩn cho dụng cụ và thuốc tiêm như: phải
tuân thủ kỹ thuật vô trùng khi tiêm, rửa tay
hoặc chà tay với dung dịch chứa cồn, chuẩn bị
bề mặt da sạch, không chạm vào phần kim tiêm
tiếp xúc với tế bào trên cơ thể bệnh nhân. Do
vậy, việc chuẩn bị vùng da sạch trước khi tiêm
cũng ngăn ngừa các nguy cơ tai biến khi tiêm.
Theo Pratt (2005), việc sát khuẩn vùng tiêm
trước khi tiêm bắp và tiêm dưới da được dùng
phổ biến nhất là sử dụng cồn Isopropyl 700 bão
hòa(12). Mục đích của việc sát khuẩn vùng da
trước tiêm là để loại bỏ các vi sinh vật có nguy
cơ gây hại ra khỏi bề mặt da. Tuy nhiên có nhiều
nghiên cứu cho những ý kiến trái chiều trong
việc sát khuẩn vùng da trước khi tiêm.
Nghiên cứu của Sutton (1999) chứng minh
việc sử dụng cồn Isopropyl 700 sát khuẩn da
trước khi tiêm thuốc là không cần thiết, và kết
quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ không nhiễm
khuẩn của nhóm có dùng cồn isopropyl 700 là
85% và không dùng cồn sát khuẩn da là 87%(18),
như vậy việc dùng cồn sát khuẩn da trước khi
tiêm không có ý nghĩa bắt buộc là phải vô khuẩn
tuyệt đối mà chỉ là vô khuẩn nội khoa có nghĩa
là chỉ cần làm sạch da.
Hơn thế nữa, theo khuyến cáo của Sở Y tế
Luân Đôn, Anh (2006), và một nghiên cứu của
Hutin và cộng sự (2003) cũng cho rằng, việc sát
khuẩn vùng da trước khi tiêm bắp và dưới da là
không cần thiết, trừ khi ta quan sát thấy vùng da
trước tiêm bị dơ thì cần phải làm sạch da trước
với nước và xà phòng(7,9). Hai nghiên cứu trên
cũng chứng minh được rằng việc làm sạch da
trước khi tiêm quan trọng hơn dùng gòn cồn sát
khuẩn da.
Một nghiên cứu của Koivisto và Felig (1978)
khi so sánh hơn 3400 mũi tiêm insulin ở hai
nhóm sát khuẩn và không sát khuẩn da trước
khi tiêm cũng cho thấy được rằng: mặc dù sử
dụng cồn isopropyl 70o để sát khuẩn da trước
tiêm có làm giảm số lượng vi khuẩn trên da từ
82‐91%, tuy nhiên lại không có bất kì dấu hiệu
nhiễm trùng tại chỗ hay hệ thống giữa hai nhóm
nghiên cứu(10). Điều này cũng kết luận rằng mặc
dù trên da có rất nhiều vi khuẩn/ bào tử, tuy
nhiên, phần lớn chúng là những vi khuẩn không
gây bệnh, và với số lượng không nhiều để có thể
gây nhiễm trùng nơi tiêm.
Và theo ấn bản 2003 của Tổ chức y tế thế giới
khuyến cáo không cần thiết phải sát khuẩn vùng
da trước khi tiêm bắp và dưới da, nhưng với
thói quen làm việc hàng ngày, nhiều bệnh viện
vẫn sát khuẩn vùng da trước khi tiêm bắp hay
dưới da. Có đến 78% nhân viên y tế ở 1 bệnh
viện ở Anh vẫn sát khuẩn vùng da như bình
thường mặc dù đã có khuyến cáo không cần
thiết(9). Ở Việt Nam, trong các giáo trình giảng
dạy Điều dưỡng và thực hành Điều dưỡng tại
bệnh viện, chúng ta vẫn đang áp dụng việc sát
khuẩn da trước khi tiêm(3). Ngoài ra theo nghiên
cứu của nhóm kiểm soát nhiễm khuẩn ở
Scotland đã chứng minh rằng nếu dùng cồn sát
khuẩn da như cách truyền thống thì phải sử
dụng đúng qui cách như vậy mũi tiêm mới an
toàn, nghĩa là phải sử dụng cồn 70o sát khuẩn da
ít nhất 30 giây, sau đó để khô ít nhất 30 giây, để
vi khuẩn nơi vùng da bị bất hoạt thì mới tiêm(16).
Và cũng theo nghiên cứu này thì bất lợi lớn nhất
của việc sát trùng da là không có tác dụng trên
vùng da bẩn và không nên trữ gòn tẩm cồn
trong hộp để sử dụng nhiều lần(16).
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn
Thời gian nghiên cứu
Tháng 6/ 2010 – tháng 8/ 2011 tại khoa Ngoại
bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các mũi tiêm bắp được thực hiện
trực tiếp qua da tại vị trí mông trên bệnh nhân
tại các khoa ngoại của bệnh viện Răng Hàm
Mặt Trung Ương. Chỉ tiêm một mũi tiêm cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 251
mỗi bệnh nhân.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các bệnh nhân được chỉ định tiêm bắp
ở vùng mông.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh nhân đang sốt cao, có kết quả công
thức máu với BC đa nhân trung tính cao trên
8000/QT 40, có các bệnh lý về da tại vùng mông
như chốc ghẻ, chàm
Mẫu được chọn ngẫu nhiên thuận tiện, chia
làm 2 nhóm
Bệnh nhân của mỗi khoa phòng khi được
chọn đều được đánh số ngẫu nhiên 1,2 chia
thành 2 nhóm A (1), B (2)
Nhóm A: dùng kềm vô khuẩn (một kềm
dùng cho 1 bệnh nhân) kẹp gòn tẩm cồn 700 (trữ
trong hộp) trước khi tiêm. (như trong giáo trình)
Nhóm B: dùng tay mang găng cầm gòn tẩm
cồn 700 (trữ trong hộp) trước khi tiêm (cũng có
cầm kềm vô khuẩn nhưng có ý nghĩa như kềm
tiếp liệu do không chạm trên BN, chỉ dùng tiếp
liệu gòn qua tay).
Cỡ mẫu
n = Z2. P (1‐ P)/ d2
Với tỉ lệ không nhiễm trùng 85%; Z0,975 = 0,96;
P = 0,85; d = 0,05; n = 196
Phương pháp nghiên cứu
Tiến trình nghiên cứu
Tổng quan tài liệu
Huấn luyện nhóm nghiên cứu về các
phương pháp sát khuẩn da với kềm kẹp và bằng
tay mang găng.
Phân chia mẫu nghiên cứu thành 3 nhóm,
mỗi nhóm sử dụng một phương pháp sát khuẩn
da trước khi tiêm cho người bệnh (ngẫu nhiên).
Thực hiên nghiên cứu thăm dò trên nhóm
nhỏ (10 bệnh nhân)
Sơ đồ nghiên cứu
Thu thập số liệu
Người thực hiện tiêm: gồm có 12 điều
dưỡng viên trình độ trung cấp. Chia làm 2
nhóm, mỗi nhóm có 6 người trong đó chia làm
3 ca trực sáng, chiều, đêm. Được huấn luyện
tùy theo phương pháp sát khuẩn da được
phân công.
Nghiên cứu thử trước và đánh giá dựa trên
bảng kiểm bởi 3 giáo viên để tính mức độ khác
biệt.
Định nghĩa các từ khoá
Sự an toàn: Tình trạng không nhiễm khuẩn
vùng tiêm sau khi tiêm (biến số đo đạc: sưng,
đỏ, nóng, đau, số lượng bach cầu trong máu)
Sự tiện lợi: Tiện lợi cho người thực hiện mũi
tiêm (thời gian tính từ khi bắt đầu tiêm cho đến
khi kết thúc mũi tiêm)
Chi phí: Chi phí trang thiết bị dụng cụ cho
một mũi tiêm (tính bằng tiền Việt Nam đồng)
Huấn luyện dựa trên
bảng kiểm
Dùng tay mang găng cầm gòn chứa trong
hộp sát khuẩn da bằng tay
Dùng kềm gắp gòn sát
khuẩn da bằng kềm
Nhóm bệnh nhânA Nhóm bệnh nhân B
1. ĐD khoa
2. Thực hiện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 252
Công cụ nghiên cứu
Bảng kiểm kỹ thuật dùng kềm gắp gòn cồn
700 chứa trong hộp sát khuẩn da trước khi tiêm.
‐ Bảng kiểm kỹ thuật dùng tay mang găng
cầm gòn cồn 700 chứa trong hộp sát khuẩn trước
khi tiêm.
Bảng theo dõi tình trạng vùng tiêm sau khi
tiêm của từng người bệnh.
Bảng chiết tính chi tiết về chi phí cho từng
loại kỹ thuật tiêm.
Xử lý số liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm
SPSS12.0, sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê khi p ≤ 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Cỡ mẫu kháo sát của chúng tôi gồm 210
người bệnh nhưng trong quá trình theo dõi
chúng tôi đã để lạc mất 10 người bệnh của
nhóm kháo sát dùng tay mang găng cầm gòn
sát trùng da. Qua khảo sát chúng tôi thu thập
số liệu như sau:
Sát trùng da bằng kềm: Qua khảo sát 105
người bệnh chúng tôi ghi nhận
Bảng 1:Thông tin nền
Nam Nữ
Tổng số 72 33
Tỉ lệ 68,6% 31,4%
Bảng 2. Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh trong
thời gian có tiêm bắp
Có sử dụng kháng sinh Không sử dụng kháng sinh
Tổng số 105 0
Tỉ lệ 100% 0%
Bảng 3. Dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực hiện kỹ
thuật tiêm bắp
Tổng số
105 mũi tiêm Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72 giờ
Bình thường 105 105 105 105
Đau 0 0 0 0
Sưng 0 0 0 0
Nóng 0 0 0 0
Đỏ 0 0 0 0
Tổng số
105 mũi tiêm Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72 giờ
Sốt toàn thân 0 0 0 0
Bảng 4.Thời gian thực hiện một mũi tiêm
1 phút 1,5 phút 2 phút 3 phút
Tổng số mũi tiêm
thực hiện 49 1 2 56
Tỉ lệ 46,67% 0,95% 1,9% 50,48%
Bảng 5. Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ
thuật sát khuẩn da bằng gòn cồn làm sẵn
Bình thường Thuận tiện
Tổng số 104 1
Tỉ lệ 99% 1%
Sát trùng da bằng tay: Qua khảo sát 95
người bệnh chúng tôi ghi nhận
Bảng 6.Thông tin nền
Nam Nữ
Tổng số 59 36
Tỉ lệ 62,1% 37,9%
Bảng 7.Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh trong
thời gian có tiêm bắp
Có sử dụng kháng sinh Không sử dụng
kháng sinh
Tổng số 94 1
Tỉ lệ 99% 1%
Bảng 8. Dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực hiện kỹ
thuật tiêm bắp
Tổng số Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72giờ
Bình thường 95 95 95 95
Đau 0 0 0 0
Sưng 0 0 0 0
Nóng 0 0 0 0
Đỏ 0 0 0 0
Sốt toàn thân 0 0 0 0
Bảng 9.Thời gian thực hiện một mũi tiêm
2 phút 3 phút 4 phút 6 phút
Tổng số mũi tiêm thực hiện 62 27 4 2
Tỉ lệ 65,3% 28,4% 4,2% 2,1%
Bảng 10.Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ
thuật sát khuẩn da bằn gòn cồn làm sẵn
Bình thường Rắc rối
Tổng số 92 3
Tỉ lệ 96,8% 3,2%
So sánh giữa 2 phương pháp sát trùng da
Bảng 11. Giới tính
Nam Nữ
PP sát trùng da bằng kềm 72 33
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 253
PP sát trùng da bằng tay 59 36
Bảng 12. Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh
trong thời gian có tiêm bắp
Có sử dụng kháng sinh
Không sử dụng
kháng sinh
PP sát khuẩn da bằng kềm 105 0
PP sát khuẩn da bằng tay 94 1
Bảng 13. Không có dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực
hiện kỹ thuật tiêm bắp và theo dõi vào các thời điểm
Bắt đầu
Sau 24
giờ
Sau 48
giờ
Sau 72
giờ
PP sát trùng da
bằng kềm (105MT) 105 105 105 105
PP sát trùng da
bằng tay (95 MT) 95 95 95 95
Bảng 14. Thời gian thực hiện một mũi tiêm
Thời gian thực hiện một mũi tiêm Mean SD SE
PP sát trùng da bằng kềm 2.123 0.9836 0.0974
PP sát trùng da bằng tay 2.457 0.7713 0.0796
Phép kiểm định t test được sử dụng để so
sánh sự khác biệt về thời gian thực hiện một mũi
tiêm giữa 2 phương pháp. Kết quả cho thấy t= ‐
2.663, df = 189.247, p = 0.008 < 0.05. Như vậy, kết
luận được rằng thời gian thực hiện một mũi
tiêm bằng phương pháp sát trùng da bằng tay
lâu hơn phương pháp trùng da bằng kềm.
Bảng 15. Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ
thuật sát khuẩn da bằng gòn cồn làm sẵn
Thuận tiện Bình thường Rắc rối
PP sát khuẩn da
bằng kềm 1 (0.95%) 104 (99.05%)
PP sát khuẩn da
bằng tay 92 (96.84%) 3 (3.16%)
Phép kiểm định Chi bình phương được sử
dụng để so sánh sự khác biệt về ý kiến nhân
viên y tế về 2 phương pháp. Kết quả cho thấy
p=0.119 > 0.05. Do đó, kết luận được rằng ý kiến
của nhân viên y tế về phương pháp này không
có sự khác biệt.
Bảng 16. Dụng cụ dùng sát khuẩn da cho một mũi tiêm
Kềm Bình kềm Cồn Gòn Gòn cồn làm sẵn
DD rửa tay
nhanh
Găng
tay
PPsát khuẩn da bằng kềm 1/ 1NB 1/1NB 4 2 ml 2ml 1
PP sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn 1/nhiều NB 1/nhiều NB 4 2ml 2ml 1
PP sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn làm sẵn 4 2ml 1
Qua bảng so sánh này chúng ta nhận thấy
có sự khác biệt về trang thiết bị dụng cụ sử
dụng cho các phương pháp sát khuẩn da, và rõ
ràng phương pháp sát khuẩn da bằng tay cầm
gòn cồn chi phí thấp hơn so với sử dụng bình
kềm và kềm.
BÀN LUẬN
Do không đáp ứng đầy đủ một bình kềm và
kềm cho một người bệnh khi sát khuẩn da như
trong giáo trình, cho nên việc giữ an toàn trong
sát khuẩn da trước tiêm rất khó khả thi trên lâm
sàng, Qua nghiên cứu này cho thấy vẫn có thể
sử dụng chung bình kềm và kềm một cách an
toàn cho nhiều người bệnh. Ngoài ra qua nghiên
cứu của Hutin (1999); Dentinger (1999); và CDC
(2001), việc sử dụng tay mang găng cầm gòn cồn
có thể được áp dụng tại các cơ sở y tế như là một
biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng lây
lan các virus, vi khuẩn, và đảm bảo tính an toàn
cho người bệnh(9,6,4). Theo nghiên cứu của Châu
Đặng Kim Hoàng (2011) cho thấy việc sử dụng
gòn cồn làm sẵn vẫn là tốt hơn cả trong trường
hợp sát khuẩn vùng da tiêm bắp, dưới da trước
tiêm (đảm bảo giữ nồng độ cồn isopropyl 70o
bão hòa)(1).
Ngoài ra dựa vào qui định chi trả của bảo
hiểm y tế, chi phí cho việc xử lý và tiệt khuẩn
bình kềm, kềm, gòn, cồn không được chi trả,
nhưng gòn cồn làm sẵn thì lại được bảo hiểm y
tế chi trả (270 đồng/miếng).
Do vậy, qua việc so sánh giữa 2 kỹ thuật
dùng kềm sát trùng da và dùng tay đã mang
găng cầm gòn sát trùng da không có có sự khác
biệt về tỉ lệ nhiễm trùng hoặc sự rắc rối hay bất
tiện giữa 2 phương pháp sát khuẩn da. Nhưng
thời gian thực hiện mũi tiêm bằng phương pháp
sát trùng da bằng tay lâu hơn phương pháp
trùng da bằng kềm thì có thể là do thói quen
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 254
dùng kềm sát khuẩn da nên khi áp dụng sử
dụng tay có thể làm chậm hơn so với cầm
kềm.Và cũng theo tình hình hiện tại tại các cơ sở
ý tế và các bệnh viện đều không cung cấp đầy
đủ các bình kềm và kềm để có thể giữ an toàn
cho người bệnh khi tiêm thuốc và thậm chí nếu
ta sử dụng gòn cồn làm sẵn thì chi phí rẻ hơn và
hiệu quả hơn, đồng thời lại được bảo hiểm y tế
chi trả. Trong khi đó việc mang găng tay khi
tiêm thuốc thì lại khuyến khích mang vì có nguy
cơ tiếp xúc với máu và chất tiết thực hiện đúng
theo yêu cầu trong việc áp dụng các biện pháp
phòng ngừa chuẩn do bộ Y tế đề ra theo hướng
dẫn phòng ngừa chuẩn tháng 9/2012.
Hạn chế của nghiên cứu
Do vấn đề chi phí nghiên cứu hạn hẹp, nên
chúng tôi không tiến hành cấy phết vùng da sau
khi sát khuẩn ở cả hai nhóm nghiên cứu. Tuy
nhiên, điều này cũng không cần thiết vì theo
nghiên cứu của Koivisto và Felig (1978) dù tỉ lệ
phần trăm vi khuẩn còn hiện diện trên da sau
khi sát khuẩn ở hai nhóm có sự khác biệt, cũng
không có nghĩa tỉ lệ nhiễm khuẩn cũng khác biệt
như vậy(10). Ngoài ra do chúng tôi lấy mẫu ở
khoa ngoại nên hầu hết người bệnh đều dược
tiêm kháng sinh trong giai đoạn nghiên cứu.
Việc đánh giá các dấu hiệu nhiễm trùng tại
chỗ còn mang tính chủ quan, chưa có công cụ đo
lường cụ thể đặc biệt là đánh giá đau (chưa loại
trừ được nguyên nhân đau do thuốc/ do yếu tố
nhiễm trùng), nhiệt độ vùng da nơi tiêm (cần sử
dụng nhiệt kế chuyên dụng để đánh giá nhiệt
độ chênh lệch ở hai vùng da chính xác hơn).
Tuy nhiên thời gian một mũi tiêm được
khảo sát trong nghiên cứu bao gồm thời gian
của cả một quy trình tiêm từ lúc sát khuẩn, đưa
thuốc vào người bệnh nhân đến cố định kim
tiêm và tiện nghi cho người bệnh. Thời gian này
chưa đánh giá chính xác thời gian điều dưỡng
sát khuẩn vị trí tiêm.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chưa đề cập
tới mũi tiêm tĩnh mạch vì mũi tiêm này được
đâm kim trực tiếp vào máu cho nên không biết
có thể áp dụng phương pháp sát khuẩn da bằng
tay cầm gòn cồn không. Với câu hỏi này chúng
tôi đề nghị sẽ có các nghiên cứu khác để làm rõ
vấn đề này.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu với 200 mũi tiêm trên 200
người bệnh chúng tôi đã tìm ra được rằng
không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm
gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay
sạch cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm
khuẩn, sự rắc rối hay bất tiện giữa 2 phương
pháp, nhưng lại khác biệt về thời gian thực hiện.
Ngoài ra chi phí cho dụng cụ sát trùng da bằng
tay mang găng cầm gòn tẩm cồn sát khuần da ít
tốn kém hơn việc sát trùng da bằng kềm (không
khả thi, khó thực hiện vì một NB một cây kềm
và một bình kềm).
Như vậy việc sát trùng da khi tiêm bắp hoặc
tiêm dưới da bằng phương pháp dùng tay cầm
gòn cồn vừa an toàn vừa khả thi và tiết kiệm
được kinh phí điều trị cho người bệnh.
KIẾN NGHỊ
Áp dụng phương pháp dùng tay cầm gòn
cồn sát khuẩn da khi tiêm bắp và tiêm dưới da
trong giảng dạy và trong thực hành điều dưỡng
trên lâm sàng.
Sử dụng gòn cồn làm sẵn để sát khuẩn da
hơn là dùng gòn cồn để trong hộp.
Nghiên cứu thêm về việc sát khuẩn da khi
tiêm tĩnh mạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Centre for Disease Control and Prevention.
(2002).Department of Health and Human Services. Smallpox
Vaccine Administration. Altanta. USA.
2. Châu Đặng Kim Hoàng và cộng sự. (2011). Hiệu quả sát
khuẩn da trước tiêm bằng sử dụng Alcohol swab tại bệnh
viện Thống Nhất. Tạp chí Điều dưỡng Việt Nam, 2(16).
3. Crisp J, & Taylor C (2009). Potter & Perryʹs fundamentals of
nursing (3rd Australian ed.). Chatswood, NSW, Australia:
Mosby Elsevier.
4. Dentinger CM, Hutin YJF, Pasat L, Mihilescu I, Mast EE,&
Margolis HS (1999). Knowledge and practices of nurses
regarding injection safety and use of universal precautions,
Vilcea district, Romania. Abstract presented at the annual
meeting of the Society for Healthcare Epidemiology of
America (SHEA). San Francisco (CA).
5. Department of Health. (2006). Immunisation Against Infectious
Disease – “The Green Book”. London, The Stationery Office.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 255
6. Đoàn Thị Anh Lê, Trần Thị Thuận và cộng sự (2006). Khảo sát
tiêm an toàn tại các cơ sở thực hành Bệnh Viện của sinh viên
Điều Dưỡng ‐ Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh. Tạp chí y học
Tp Hồ Chí Minh, 10(1).
7. Gittens G, Bunnell T (2009). Sin disinfection and its efficacy
before administering injections. Nursing Standard, 23, 39, 42‐
44.
8. Hutin Y, Hauri A, Chiarello L, et al. (2003). Best infection
control practices for intradermal, subcutaneous, and
intramuscular needle injections. Bulletin of the World Health
Organisation, 81(7), 491‐500.
9. Koivisto VA, Felig P (1978). Is skin preparation necessary
before insulin infection? The Lancet, 1(8073), 1072‐1075.
10. Nursing and Midwifery Council. (2008). The Code standards
of Conduct, Performance and Ethics for Nurse and Midwives.
NMC, London.
11. Pratt RJ, Hoffman PN, Robb FF (2005). The need for skin
preparation prior to injection: point – counterpoint. British
Journal of Infection Control, 6(4), 18‐20.
12. Reiss I, Borkhardt A, Fussle R, Sziegoleit A, Gortner L (2000).
Disinfectant contaminated with Klebsiella oxytoca as a source
of sepsis in babies. The Lancet.
13. Rotter M (1999), Hand washing and hand disinfection. In:
Mayhall CG, ed. Hospital epidemiology and infection control,
2nd edition, Philadelphia, PA: Lippincott Williams & Wilkins.
14. Sautter RL, Mattman LH & Legaspi RC (1984). Serratia
marcescens meningitis associated with a contaminated
benzalkonium chloride solution. Infection Control. 5:223‐5.
15. Scottish Centre for Infection and Environmental Health.
(2005). Skin disinfection prior to intradermal, subcutaneous,
and intramuscular injection administration.
16. Selwyn S, Ellis H (1972). Skin bacteria and skin disinfection
reconsidered. British Medical Journal.1(5793):136–140.
17. Sutton CD, White SA, Edwards R, Lewis MH (1999). A
prospective controlled trial of the efficacy of isopropyl alcohol
wipes before venesection in surgical patients. Annals of the
Royal College of Surgeons of England, 81(3), 183‐186.
18. Trần Thị Thuận (2008). Điều dưỡng cơ bản 2. Hà Nội: Bộ Y tế
Nhà xuất bản Y học
19. Varga LM, Chitwood DD, & Fernandez MI (2006). Factors
associated with skin cleaning prior to injection among drug
users. Journal of Drug Issues, 36(4), 1015‐1030.
20. WHO (2006). Injection safety. Fact sheet N°231. Retrieved
from:
21. Workman B. (1999). Safe injection techniques. Nursing
Standard, 13 (39): 47‐53.
Ngày nhận bài 31/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 03/09/2013.
Ngày bài báo được đăng: 18/10/2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_viec_mang_gang_sach_cam_gon_con_trong_sat_khuan.pdf