Tác động của đặt ông thông JJ trên phương
diện sinh hóa
Tình trạng tăng ure máu trong nghiên cứu
với số lượng bệnh nhân khá đáng kể với 10 bệnh
nhân (23,26%). Sau đặt JJ, số bệnh nhân có tình
trạng tăng ure máu giảm. Sau 3 tháng, số bệnh
nhân tăng ure máu lúc chưa đặt JJ giảm về bình
thường đến 6 bệnh nhân, còn đối với sau 6 tháng
là 7 bệnh nhân. Điều đó chứng tỏ đặt ống JJ làm
lưu thông dòng nước tiểu đã góp phần làm giảm
số lượng bệnh nhân tăng ure máu.
Sau đặt JJ 3 tháng, các trường hợp nồng độ
ure máu tăng đề giảm, có ý nghĩa thống kê. Sau 6
tháng, tuy nhìn trên tổng thể số bệnh nhân có
nồng độ ure máu tăng không khác so với sau đặt
JJ 3 tháng, nhưng đối với những bệnh nhân
trước đặt JJ thì có sự giảm đáng kể, từ 10 trường
hợp xuống còn 3 trường hợp (Bảng 8).
Sau 3 tháng đặt JJ (Bảng 11), tình trạng suy
thận cải thiện rõ, có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Sau 6 tháng, tuy số trường hợp suy
thận có giảm và không có ý nghĩa thống kê
nhưng số lượng bệnh nhân trước đặt JJ bị suy
thận đã giảm từ 39 người còn 27 người, giảm
đến 15 người, trong khi suy thận mới xuất
hiện chỉ có 3 bệnh nhân (Bảng 12). Điều đó cho
thấy rằng đặt ống thông JJ góp phần rất lớn
đến giảm số lượng bệnh nhân suy thận ở bệnh
ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản. Nghiên
cứu trên một mẫu số liệu lớn hơn nên được đề
ra để thấy rõ hơn hiệu quả của ống thông JJ
đối với suy thận tại thời điểm 6 tháng.
Thời điểm thay ống thông JJ
Việc đặt ống thông JJ chỉ có mục đích duy
nhất trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn
niệu quản là dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng
quang. Keopaseuth Xayaseng (2005)(4) đề nghị
thay ống thông JJ sau mỗi 3 tháng. So sánh về tác
dụng lưu thông dòng nước tiểu, chúng tôi nhận
thấy rằng đặt ống thông JJ đến thời điểm 6 tháng
vẫn còn tác dụng tốt, cải thiện rất tốt tình trạng
thận bị ứ nước có ý nghĩa thống kê dù mẫu số
liệu ít. Nên việc thay ống thông JJ sau đặt 6
tháng vẫn hiệu quả.
Tuy vậy, về mặt sinh hóa, chúng tôi ghi
nhận một số trường hợp không suy thận lúc
trước đặt JJ nhưng sau 6 tháng thì tình trạng
này lại xuất hiện, điều đó có thể giải thích do
tiến tiển nặng hơn của bệnh gây ra. Từ đó, khi
thay ống JJ sau đặt 6 tháng thì việc theo dõi
chức năng thận của bệnh nhân thường xuyên
là cần thiết.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 59 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả điều trị của ống thông JJ trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 34
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA ỐNG THÔNG JJ TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ
CỔ TỬ CUNG XÂM LẤN NIỆU QUẢN
Trương Đình Hưng*, Nguyễn Hữu Toàn**, Trần Văn Nguyên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản gây nhiều biến chứng cho hệ niệu. Đặt JJ stents
qua ngả nội soi niệu quản là một kỹ thuật đơn giản cho bác sĩ và tiện lợi cho bệnh nhân. Các bác sĩ khoa ngoại
Thận – Tiết niệu đã đặt JJ cho hơn 200 lượt bệnh nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản nhưng chưa có
nghiên cứu để đánh giá hiệu quả điều trị. - Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bằng đặt lưu ống thông JJ sau 3
tháng và 6 tháng.
Phương pháp, đối tượng: Nghiên cứu tiến cứu mô tả 43 bệnh nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản
đã được chẩn đoán, có chỉ định đặt ống thông JJ lần đầu tại BV Đa khoa Thành phố Cần Thơ hoặc đến khám trong
khoảng thời gian từ tháng 05 năm 2014 đến tháng 05 năm 2015 hoặc đã đặt ống thông JJ trước đó không quá 6
tháng được mời tái khám.
Kết quả: Có 43 bệnh nhân với 42 người được đặt JJ qua nội soi niệu quản ngược dòng và 1 bệnh nhân phải
chuyển sang đặt JJ xuôi dòng. Tuổi trung bình là 58,14±11,25. Thận ứ nước có 43 bệnh nhân (100%): chỉ ứ nước
bên trái bằng với chỉ ứ nước bên phải với là 6 trường hợp (13,95%), ứ nước thận cả hai bên là 31 phụ nữ
(72,09%). Tăng nồng độ ure máu xảy ra ở 10 phụ nữ (23,26%). Suy thận có 39 người (90,70%). Sau 3 tháng đặt
lưu ống thông JJ, thận ứ nước giảm còn 36 (83,72%) (p<0,001), số lượng bệnh nhân tăng ure máu giảm mạnh
còn 6 (13,95%) (p=0,007) và số bệnh nhân suy thận giảm về còn 33 (76,74%) (p<0,001). Sau 6 tháng, thận ứ
nước giảm còn 34 (79,07%)(p=0,003), tăng ure máu vẫn là 6 trường hợp (6,98%) (p=0,095) và số lượng bệnh
nhân suy thận giảm còn 30 (69,77%) (p=0,811).
Kết luận: Đặt JJ niệu quản giúp giảm số lượng thận ứ nước và góp phần cải thiện chức năng thận sau 3
tháng lẫn 6 tháng.
Từ khóa: Ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản, JJ stents.
ABSTRACT
TREATMENT EFFECTIVENESS BY INDWELLING JJ STENTS IN PATIENTS WITH CERVICAL
CANCER INVADING URETERS
Truong Dinh Hung, Toan Nguyen Huu Toan, Tran Van Nguyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 34 - 40
Background: Cervical cancer invading ureters cause many urological complications. JJ stenting is a simple
and safe method. The urologists of Urology – Nephrology Center has placed over 200 indwelling JJ stents on
patient with cervical cancer invading ureters since 2012.
Objectives: Evaluate of treatment effectiveness by indwelling JJ stents in patients with cervical cancer
invading ureters during 3 months and 6 months.
* Trường Đại học Y Dược Cần Thơ** Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ
Tác giả liên lạc: THS.BS. Trần Văn Nguyên ĐT: 0913816650 Email: tvnguyen@ctump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 35
Method: We conducted a cross-sectional study in 43 patients with cervical cancer invading ureters at the
Nephrology-Urology Center, Cantho General Hospital from May 2014 to May 2015 to recognize some features
and evaluate of effectiveness of treatment by indwelling JJ stents.
Result: There were 43 patients with cervical cancer invading ureters. 42 patients had successful retrograde
JJ- ureteric stenting and 1 patient had successful anterograde JJ- ureteric stenting out of 43 patients who were
taken for the procedure. The average age was 58.14 ± 11.25. Hydronephrosis was present in 43 (100%) patients:
left kidney in 6 (13.95%); right kidney in 6 (13.95%) and bilateral in 31 (70.09%). Serum creatinine levels were
elevated in 39 (90.70%), serum urea levels were elevated in 10 (23.26%). After 3 months, hydronephrosis, serum
creatinine levels and serumure levels were present in 36 (83.72%) (p<0.001), 33 (76.74% (p<0.001) and 6
(13.95%) (p=0.007), respectively. After 6 months, hydronephrosis, serum creatinine levels and serumure levels
were present in 34 (19.07%) (p=0.003), 30 (69.77%) (p=0.811) and 6 (13.95%) (p=0.095), respectively.
Conclusions: Treatment effectiveness by indwelling JJ stents in patients with cervical cancer invading
ureters is high. Replacing double-J ureteral stents in patients with cervical cancer invading ureter should be done
every 6 months.
Key words: cervical cancer invading ureters, double- J stents.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một bệnh lý
có tác động xấu đến sức khỏe, đe dọa mạng sống
của người phụ nữ, nhưng lại thường gặp(2,10). Các
cơ quan đường tiết niệu rất dễ bị ung thư cổ tử
cung xâm lấn(6). Do vậy, không nói đến điều trị
chuyên biệt về ung thư, các bác sĩ ngoại thận –
tiết niệu có thể giúp bệnh nhân giải quyết hoặc
giảm nhẹ ảnh hưởng từ những biến chứng của
UTCTC xâm lấn hệ niệu. Một trong những cấu
trúc bị UTCTC xâm lấn phải kể đến đầu tiên là
xâm lấn niệu quản với tác dụng chèn ép lên niệu
quản trong tiểu khung hay ở đoạn gần thận làm
nồng độ ure máu và creatinin huyết thanh tăng
dẫn đến suy thận, nguyên nhân chính đưa đến
tử vong. Y học ngày càng đạt được nhiều tiến bộ
trong việc tìm ra giải pháp để giải quyết bế tắc
niệu quản do ung thư cổ tử cung xâm lấn, khá
đơn giản, thẩm mỹ và hiệu quả, đó là đặt ống
thông JJ qua nội soi niệu quản. Trong vòng 5
năm trở lại đây, không có nghiên cứu nào về ung
thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản và biến chứng
của bệnh này lên hệ niệu. Từ khi khoa Ngoại
Thận – Tiết niệu Bệnh viện Đa khoa thành phố
Cần Thơ được thành lập, các bác sĩ đã thực hiện
trên 200 lượt đặt ống thông JJ cho bệnh nhân
UTCTC xâm lấn niệu quản, nhưng chưa có một
nghiên cứu nào đánh giá kết quả của việc đặt JJ
trên bệnh nhân được thực hiện. Vì vậy, mục đích
nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá được hiệu
quả điều trị bằng đặt ống thông JJ đối với bệnh
nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu mô tả tất cả bệnh nhân
ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản đã được
chẩn đoán, có chỉ định đặt ống thông JJ lần đầu
tại BV Đa khoa Thành phố Cần Thơ hoặc đến
khám trong khoảng thời gian từ tháng 05 năm
2014 đến tháng 05 năm 2015 hoặc đã đặt ống
thông JJ trước đó không quá 6 tháng được mời
tái khám. Bệnh nhân sẽ không được tham gia
vào nghiên cứu nếu không đồng ý.
Các bệnh nhân sẽ được hỏi bệnh, thăm khám
lâm sàng, thực hiện các xét nghiệm để xác định
một số đặc điểm và sau đó được đặt JJ. Theo dõi
tình trạng bệnh được thực hiện mỗi 3 tháng và 6
tháng.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tổng số bệnh nhân là 43 người. Tuổi trung
bình là 58,14±11,25 và nhóm tuổi thường gặp là
45-60 (58,14%). Nội trợ là nghề nghiệp thường
gặp của bệnh nhân với 18 người (41,86%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 36
Giai đoạn thường gặp nhất là giai đoạn IIIB
với 18 người (41,86%), ít nhất là giai đoạn IIA với
1 bệnh nhân (chiếm 2,33%). Giai đoạn nhẹ nhất
là IB chiếm 11,63%, một giai đoạn nhẹ nhưng
xâm lấn niệu quản với tỷ lệ khá đáng kể. Nặng
nhất là giai đoạn IVB (6,98%). Chúng tôi nhận
thấy số bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung biết bản
thân bị bệnh nhưng chưa điều trị còn cao, chiếm
23,26% (10/43) tổng số bệnh nhân.
Đối diện với một mặt khác, bệnh nhân đã
qua điều trị ung thư cổ tử cung trước đó, chúng
tôi nhận thấy nhóm xạ ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất
với 51,16% (22/43) số bệnh nhân và nhóm đặt
kim radium và xạ trị chiếm 9,30% (4/43) số bệnh
nhân.
Chỉ định đặt ống thông JJ và kết quả
Bảng 1: Điều trị bằng ống thông JJ
Kết quả đặt trái
Kết quả đặt phải
Tổng
Không đặt/ chỉ định Ngược dòng Chuyển xuôi dòng Không đặt/phẫu thuật
Không đặt/ chỉ định 00 08 01 00 09
**
Ngược dòng 07 21 00 05
*
33
***
Chuyển xuôi dòng 00 00
00 00 00
Không đặt /phẫu thuật 00 01
*
00 00 01
Tổng 07
**
30
***
01
05 43
*: Có chỉ định đặt hai bên, nhưng chỉ đặt được 1 bên. **: Số bệnh nhân có chỉ định đặt 1 bên.
***: Số niệu quản được đặt JJ ngược dòng.
Trong 43 bệnh nhân ban đầu có chỉ định đặt
JJ, kết quả có 43 bệnh nhân đặt được JJ (gồm 21
bệnh nhân được đặt 2 bên, 10 bệnh nhân được
đặt bên phải, 12 bệnh nhân được đặt JJ bên trái)
với 42 bệnh nhân đặt JJ qua ngả nội soi niệu
quản ngược dòng và 1 bệnh nhân được đặt JJ
theo ngả xuôi dòng.
Hiệu quả của đặt ống thông JJ
Hiệu quả của ống thông JJ trên phương diện
hình ảnh
Bảng 2: Đặc điểm ứ nước thận trái sau 3 tháng
Lần khám đầu
tiên
Sau 3 tháng
Tổng
Không ứ nươc Độ 1 Độ 2 Độ 3
Không ứ nước 6 0 0 0 6
Độ 1 5 6 4 0 15
Độ 2 0 8 10 1 19
Độ 3 0 0 2 1 3
Tổng 11 14 16 2 43
Bảng 3: Đặc điểm ứ nước thận trái sau 6 tháng
Lần khám đầu
tiên
Sau 6 tháng
Tổng
Không ứ nươc Độ 1 Độ 2 Độ 3
Không ứ nước 4 2 0 0 6
Độ 1 5 7 3 0 15
Độ 2 1 11 7 0 19
Độ 3 0 0 3 0 3
Tổng 10 20 13 0 43
Bảng 4: Đặc điểm ứ nước thận trái qua các lần khám.
Số lượng thận trái bị ứ nước giảm có ý nghĩa thống
kê.
Lần khám Không ứ nước Ứ nước P
Lần khám thứ 1 6 37
Sau 3 tháng 11 32 <0,001
Sau 6 tháng 10 33 0,007
Bảng 5: Đặc điểm ứ nước thận phải sau 3 tháng
Lần khám
đầu tiên
Sau 3 tháng
Tổng
Không ứ nươc Độ 1 Độ 2 Độ 3
Không ứ nước 5 1 0 0 6
Độ 1 2 7 0 0 9
Độ 2 0 6 12 2 20
Độ 3 0 1 3 4 8
Tổng 7 15 15 6 43
Bảng 6: Đặc điểm thận phải ứ nước sau 6 tháng
Lần khám đầu
tiên
Sau 6 tháng
Tổng Không ứ
nươc
Độ 1 Độ 2 Độ 3
Không ứ nước 4 1 1 0 6
Độ 1 3 4 1 1 9
Độ 2 2 9 8 1 20
Độ 3 0 1 5 2 8
Tổng 9 15 15 4 43
Bảng 7: Đặc điểm ứ nước thận phải qua các lần khám
Lần khám Không ứ nước Ứ nước P
Lần khám thứ 1 6 37
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 37
Lần khám Không ứ nước Ứ nước P
Sau đặt JJ 3 tháng 7 36 <0,001
Sau đặt JJ 6 tháng 9 34 0,003
Tác động của đặt ông thông JJ trên phương
diện sinh hóa
Bảng 8: Đặc điểm ure máu sau đặt ống thông
Trước đặt
JJ
Sau 3 tháng Sau 6 tháng
Tổng
Bình thường Tăng Bình thường Tăng
Bình thường 31 2 30 3 33
Tăng 6 4 7 3 10
Tổng 37 6 37 6 43
Bảng 10: Biến đổi ure máu giữa các lần khám
Lần khám
Không
tăng ure máu
Tăng ure máu P
Lần khám thứ 1 33 10
Sau 3 tháng 37 6 0,007
Sau 6 tháng 37 6 0,095
Bảng 11: Đặc điểm suy thận sau 3 tháng
Lần thăm khám
thứ 1
Sau 3 tháng
Tổng p Không suy
thận
Suy
thận
Không suy thận 4 0 4
<0,001 Suy thận 6 33 39
Tổng 10 33 43
Bảng 12: Đặc điểm suy thận sau 6 tháng
Lần thăm khám
thứ 1
Sau 6 tháng
Tổng p
Không suy thận Suy thận
Không suy thận 1 3 4
0,811 Suy thận 12 27 39
Tổng 13 30 43
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tổng số bệnh nhân là 43 người. Tuổi trung
bình là 58,14 ± 11,25 và nhóm tuổi thường gặp là
45-60 (58,14%) cũng là phù hợp với các nghiên
cứu khác, y văn và tiến triển lâu dài từ khi nhiễm
HPV đến khi trở thành ung thư cổ tử cung xâm
lấn của bệnh(10,11).
Nội trợ là nghề nghiệp thường gặp của bệnh
nhân với 18 người (41,86%), nhóm không nghề
nghiệp còn cao phải sống nhờ vào gia đình, thay
ống JJ thường xuyên là gánh nặng cho bệnh
nhân nên việc kéo dài thời gian lưu ống thông JJ
nhưng vẫn giữ được hiệu quả là một điều cần
thiết.
Giai đoạn thường gặp nhất là giai đoạn IIIB
với 18 người (41,86%), ít nhất là giai đoạn IIA với
1 bệnh nhân (chiếm 2,33%). Giai đoạn nhẹ nhất
là IB chiếm 11,63%, một giai đoạn nhẹ nhưng
xâm lấn niệu quản với tỷ lệ khá đáng kể. Nặng
nhất là giai đoạn IVB (6,98%). Các đặc điểm về
giai đoạn cũng phù hợp với nghiên cứu của
Keopaseuth Xayaseng (2005)(4). Riêng đối với giai
đoạn IB xâm lấn niệu quản với số lượng đáng kể,
có thể giải thích rằng, giai đoạn bệnh được xếp
theo FIGO(1,3,5,7,8) và là chẩn đoán lúc phát hiện
bệnh ung thư cổ tử cung và khi đó chưa điều trị
gì, chẩn đoán này không được thay đổi cho dù
có bằng chứng khác chỉ ra bệnh tiến xa khi đã
điều trị. Cho nên đến khi vào viện vì ung thư cổ
tử cung xâm lấn thì bệnh đã tiến triển xa hơn.
Chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân bị ung thư cổ
tử cung biết bản thân bị bệnh nhưng chưa điều
trị còn cao, chiếm 23,26% (10/43) tổng số bệnh
nhân. Điều này có thể lý giải theo hai khả năng:
• Một là, bệnh nhân biết bị bệnh nhưng
chưa có biến chứng niệu ảnh hưởng đến cơ thể
nhiều nên âm thầm chấp nhận và không vào
khoa ngoại Thận – Tiết niệu điều trị.
• Hai là, bệnh nhân có dấu hiệu bất thường
gây lo lắng, phải đến bệnh viện khám bệnh và
phát hiện bị ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu
quản và được chuyển đến khoa Ngoại Thận- Tiết
niệu để đặt JJ trước khi điều trị chuyên biệt vấn
đề ung thư.
Đối diện với một mặt khác, bệnh nhân đã
qua điều trị ung thư cổ tử cung trước đó, chúng
tôi nhận thấy nhóm xạ ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất
với 51,16% (22/43) số bệnh nhân và nhóm đặt
kim radium và xạ trị chiếm 9,30% (4/43) số bệnh
nhân. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Keopaseuth Xayaseng (2005), với 82,86% bệnh
nhân ở nhóm xạ trị ngoài, 2,86% ở nhóm đặt kim
radium và xạ trị(4). Có thể giải thích điều này
bằng hai lý do:
• Bệnh nhân điều trị bằng đặt kim và xạ trị
tức là bệnh còn ở giai đoạn sớm, biến chứng xâm
lấn niệu quản xuất hiện với tần số thấp.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 38
• Bệnh nhân tiến triển đến giai đoạn xa
hơn, biến chứng niệu ở giai đoạn xa hiện diện
cao hơn, xạ trị ngoài có trường chiếu rộng hơn
cũng như liều cao hơn nên tỷ lệ thương tổn do
xạ cũng tăng lên với các biến chứng xơ hóa niệu
quản cao hơn. Từ đó, chúng tôi nhận thấy, bệnh
nhân được chỉ định xạ trị cần được lưu ý vấn đề
ảnh hưởng của tia xạ đến niệu quản để có thể có
biện pháp can thiệp sớm, trường hợp bệnh nhân
đến trễ, giai đoạn muộn có hay không có kèm xạ
trị trước đó, khả năng đặt ống thông JJ sẽ khó
khăn hơn, cũng như ảnh hưởng lên thận cũng
nặng hơn, khó hồi phục hơn.
Chỉ định đặt ống thông JJ và kết quả
Chỉ định đặt ống thông JJ khi đánh giá
bệnh nhân là rất quan trọng, từ chỉ định đúng
dắn, tỷ lệ thành công của việc đặt JJ sẽ cao.
Trong 43 bệnh nhân ban đầu có chỉ định đặt
JJ, kết quả có 43 bệnh nhân đặt được JJ (gồm 21
bệnh nhân được đặt 2 bên, 10 bệnh nhân được
đặt bên phải, 12 bệnh nhân được đặt JJ bên trái)
với 42 bệnh nhân đặt JJ qua ngả nội soi niệu
quản ngược dòng và 1 bệnh nhân được đặt JJ
theo ngả xuôi dòng.
Hiệu quả của đặt ống thông JJ
Đặt ống thông JJ giúp giải quyết bế tắc
đường niệu trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung
xâm lấn niệu quản, từ đó, tình trạng ứ nước dần
giảm và khi đó chức năng thận cải thiện về mặt
sinh hóa.
Hiệu quả của ống thông JJ trên phương
diện hình ảnh
100% bệnh nhân bị ứ nước thận. Số thận ứ
nước chỉ 1 bên trái bằng với số lượng thận chỉ
bị ứ nước 1 bên phải là 6 người (13,95%). Ứ
nước cả hai thận là 31 bệnh nhân (70,09%). Sau
3 tháng, số lượng thận trái ứ nước giảm 5
thận. Có 5 thận trái tăng mức độ ứ nước với 4
thận từ độ 1 lên độ 2 và 1 thận từ độ 2 lên độ
3. Tuy nhiên, ở khía cạnh giảm ứ nước thận
trái, có 15 thận giảm mức độ ứ nước với 5 thận
ứ nước độ I về không ứ nước, 8 thận ứ nước
độ 2 xuống còn độ 1 và 2 thận từ độ 3 về độ 2.
Từ đó cho thấy, sau 3 tháng đặt JJ, số lượng
lẫn mức độ ứ nước thận trái giảm đáng kể,
việc đặt ống thông JJ có hiệu quả.
Sau 6 tháng, số thận trái ứ nước giảm còn 33,
có 6 thận về mức bình thường. Đối với mức độ ứ
nước thận, có 5 thận tăng mức độ ứ nước, với 2
trường hợp từ không ứ nước lên ứ nước độ 1, 3
thận ứ nước độ 1 lên ứ nước độ II. Khi xét về
phương diện giảm mức độ ứ nước thận, có đến
20 thận trái giảm mức độ ứ nước thận, với 6
trường hợp lúc trước đặt ống thông bị ứ nước về
không ứ nước và 11 trường hợp ứ nước độ 2
giảm về ứ nước độ 1, đáng kể đến hơn hết là 3
trường hợp ứ nước độ 3 giảm về còn độ 2. Ống
thông JJ được đặt đã cải thiện rất nhiều trường
hợp thận ứ nước.
Đối với thận phải, sau 3 tháng đặt JJ, số
lượng thận ứ nước giảm còn 36 thận, giảm được
1 thận. Tuy giảm về số lượng thận ứ nước là nhỏ,
nhưng sự cả thiện mức độ ứ nước là đáng kể với
12 thận, từ độ 1 về không ứ nước là 2 trường
hợp, từ độ 2 về độ 1 là 6 thận, và từ 8 thận ứ
nước độ 3 trước đặt JJ chỉ còn 4 thận sau 3 tháng.
Có 1 thận từ không ứ nước tiến triển lên ứu nước
độ 1, 2 thận từ ứ nước độ 2 lên độ 3. Trong
nghiên cứu, không ghi nhận trường hợp ống
thông bị đứt, tắc nghẽn làm cho dòng tiểu bị
bế tắc sau đặt JJ nên điều này có thể giải thích do
sự tiến triển nặng hơn của bệnh làm tổn thương
thận ngày càng nặng hơn.
Số thận phải bị ứ nước sau 6 tháng có giảm,
chỉ còn 34 thận. Trong số thận phải ứ nước trước
đặt JJ thì có đến 20 thận giảm mức độ ứ nước,
một sự cải thiện đáng kể về số lượng.
Điều trị bằng đặt ống thông JJ có hiệu quả về
mặt giảm bớt thương tổn ở thận do ung thư cổ
tử cung xâm lấn niệu quản gây ra kể cả ở thời
điểm 3 tháng lẫn 6 tháng và sự giảm này có ý
nghĩa thống kê dù mẫu số liệu nghiên cứu ít. Từ
đó, hiệu quả giải quyết bế tắc của ống thông JJ là
rất cao và việc lưu thông JJ đến 6 tháng thì hiệu
quả làm lưu thông dòng nước tiểu vẫn còn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 39
Tác động của đặt ông thông JJ trên phương
diện sinh hóa
Tình trạng tăng ure máu trong nghiên cứu
với số lượng bệnh nhân khá đáng kể với 10 bệnh
nhân (23,26%). Sau đặt JJ, số bệnh nhân có tình
trạng tăng ure máu giảm. Sau 3 tháng, số bệnh
nhân tăng ure máu lúc chưa đặt JJ giảm về bình
thường đến 6 bệnh nhân, còn đối với sau 6 tháng
là 7 bệnh nhân. Điều đó chứng tỏ đặt ống JJ làm
lưu thông dòng nước tiểu đã góp phần làm giảm
số lượng bệnh nhân tăng ure máu.
Sau đặt JJ 3 tháng, các trường hợp nồng độ
ure máu tăng đề giảm, có ý nghĩa thống kê. Sau 6
tháng, tuy nhìn trên tổng thể số bệnh nhân có
nồng độ ure máu tăng không khác so với sau đặt
JJ 3 tháng, nhưng đối với những bệnh nhân
trước đặt JJ thì có sự giảm đáng kể, từ 10 trường
hợp xuống còn 3 trường hợp (Bảng 8).
Sau 3 tháng đặt JJ (Bảng 11), tình trạng suy
thận cải thiện rõ, có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Sau 6 tháng, tuy số trường hợp suy
thận có giảm và không có ý nghĩa thống kê
nhưng số lượng bệnh nhân trước đặt JJ bị suy
thận đã giảm từ 39 người còn 27 người, giảm
đến 15 người, trong khi suy thận mới xuất
hiện chỉ có 3 bệnh nhân (Bảng 12). Điều đó cho
thấy rằng đặt ống thông JJ góp phần rất lớn
đến giảm số lượng bệnh nhân suy thận ở bệnh
ung thư cổ tử cung xâm lấn niệu quản. Nghiên
cứu trên một mẫu số liệu lớn hơn nên được đề
ra để thấy rõ hơn hiệu quả của ống thông JJ
đối với suy thận tại thời điểm 6 tháng.
Thời điểm thay ống thông JJ
Việc đặt ống thông JJ chỉ có mục đích duy
nhất trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung xâm lấn
niệu quản là dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng
quang. Keopaseuth Xayaseng (2005)(4) đề nghị
thay ống thông JJ sau mỗi 3 tháng. So sánh về tác
dụng lưu thông dòng nước tiểu, chúng tôi nhận
thấy rằng đặt ống thông JJ đến thời điểm 6 tháng
vẫn còn tác dụng tốt, cải thiện rất tốt tình trạng
thận bị ứ nước có ý nghĩa thống kê dù mẫu số
liệu ít. Nên việc thay ống thông JJ sau đặt 6
tháng vẫn hiệu quả.
Tuy vậy, về mặt sinh hóa, chúng tôi ghi
nhận một số trường hợp không suy thận lúc
trước đặt JJ nhưng sau 6 tháng thì tình trạng
này lại xuất hiện, điều đó có thể giải thích do
tiến tiển nặng hơn của bệnh gây ra. Từ đó, khi
thay ống JJ sau đặt 6 tháng thì việc theo dõi
chức năng thận của bệnh nhân thường xuyên
là cần thiết.
KẾT LUẬN
Sau nghiên cứu trên 43 bệnh nhân chúng tôi
có kết luận sau:
Đặt ống thông JJ niệu quản có hiệu quả cao
trong điều trị biến chứng của ung thư cổ tử cung
xâm lân hệ niệu, giảm tổn thương thận trên
phương diện hình ảnh và góp phần cải thiện
chức năng thận trên phương diện sinh hóa, nên
tiến hành đặt ống thông JJ cho bệnh nhân khi có
chỉ định.
Thay ống thông JJ sau đặt 6 tháng vẫn đảm
bảo an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atuhairwe S (2011). Urologic complications among women
with advanced cervical cancer at a tertiary referral hospital in
Uganda. The International Journal of Gynecology and
Obstetrics, (115), 282–284.
2. Bruni L (2014). Human Papillomavirus and Related Diseases
in Viet Nam. In: ICO HPV Information Centre – Summary
Report, pp.35 – 53. Barcelona, Spain.
3. Bruni L (2014). Human Papillomavirus and Related Diseases
in Viet Nam. In: ICO HPV Information Centre-Summary
Report, pp.5 – 14. Barcelona, Spain.
4. Keopaseuth Xayaseng (2005). Hiệu quả điều trị bế tắc niệu
quản do ung thư cổ tử cung của ống thông JJ. Luận văn thạc sĩ
y học chuyên ngành Ngoại khoa. Trường đại học Y dược
thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Mutch DG (2009). The new FIGO staging system for cancers of
the vulva, cervix, endometrium and sarcomas. The Gynecol
Oncol, 115(2), 325–328.
6. Ngô Gia Hy (1982). Biến chứng niệu do ung thư cổ tử cung.
In: Niệu học, tập II, tr. 270 – 279. Nhà xuất bản y học, thành
phố Hồ Chí Minh.
7. Odicino F, Pecorelli S, Zigliani L, et al (2008). History of the
FIGO cancer staging system. The Int J Gynecol Obstet, 101(2),
205-10.
8. Pecorelli S (2009). FIGO Committee On Gynecologic
Oncology: Revised FIGO staging for carcinoma of the vulva,
cervix, and endometrium. The Int J Gynecol Obst, 105(1),103–
104.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 40
9. Shuaibu SI (2013). Endoscopic Retrograde JJ-Stenting of The
Ureter Without Fluoroscopy Guidance - An Appraisal of
Outcome. The Nigerian Journal of Medicine, Vol.22 No.4, 348
– 350.
10. Trần Đặng Ngọc Linh (2013). Hiệu quả xạ trị trong ung thư cổ
tử cung giai đoạn IIB-IIIB. In: Luận án Tiến sĩ Y học, Trường
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh. tr. 83-84.
11. Trần Thị Minh Châu (2012). Ung thư cổ tử cung. In: Sản phụ
khoa, Nhà xuất bản y học, thành phố Hồ Chí Minh. tr.803-811.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_dieu_tri_cua_ong_thong_jj_tren_benh_nhan_ung_thu_co.pdf