5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 75 bệnh nhân đột quỵ nhồi máu
não cấp đến sớm trong vòng 4,5 giờ được điều trị
bằng thuốc Alteplase với liều 0,6 mg/kg cân nặng
tại khoa Cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc
chúng tôi đưa ra kết luận:
Điều trị thuốc Alteplase là an toàn và hiệu quả
đối với các bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ
cấp tính; tỷ lệ biến chứng thấp, làm tăng khả năng
hồi phục về thần kinh của bệnh nhân. Kỹ thuật có
thể triển khai được tại các cơ sở y tế được trang bị
máy chụp cắt lớp vi tính sọ não và có đủ điều kiện để
xử trí các biến chứng nếu có.
6. KIẾN NGHỊ
- Tăng cường đào tạo cho cán bộ các tuyến cơ
sở về cấp cứu đột quỵ não, cần nhận biết sớm bệnh
nhân đột quỵ não và vận chuyển bệnh nhân đến cơ
sở y tế có khả năng điều trị tái tưới máu. Tốt nhất là
trong vòng 3 giờ đầu. Cần tuyên truyền cho người
dân nhận biết về các dấu hiệu đột quỵ não. Khi có
dấu hiệu đột quỵ cần phải đến ngay cơ sở y tế để
được tư vấn điều trị hợp lý.
- Có một lượng bệnh nhân đáng kể không có
tái thông mạch trong khi tái thông mạch máu. Nếu
bệnh nhân sau khi điều trị thuốc tiêu huyết khối
đường tĩnh mạch không tái thông hoặc tái thông
mức độ thấp sẽ tiếp tục được lấy huyết khối bằng
dụng cụ cơ học là biện pháp tái thông chắc chắn.
Như vậy cần đầu tư hệ thống trang thiết bị cho
can thiệp nội mạch sẽ giúp giải quyết triệt để được
điểm yếu của phương pháp tiêu huyết khối đường
tĩnh mạch.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả điều trị thiếu máu não cục bộ cấp tính trong vòng 4,5 giờ bằng thuốc alteplase đường tĩnh mạch tại bệnh viện Đa khoa tính Vĩnh Phúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ CẤP TÍNH
TRONG VÒNG 4,5 GIỜ BẰNG THUỐC ALTEPLASE ĐƯỜNG TĨNH MẠCH
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÍNH VĨNH PHÚC
Lê Hồng Trung1, Nguyễn Văn Huy1, Nguyễn Văn Chi2, Mai Duy Tôn2
(1) Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc; (2) Bệnh viện Bạch Mai
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị nhồi máu não cấp trong vòng 4,5 giờ bằng thuốc tiêu
huyết khối đường tĩnh mạch Alteplase. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả can thiệp tiến cứu và hồi cứu, không
có nhóm chứng. Kết quả: Tuổi trung bình 68,9 ± 12,06, thời gian khởi phát dùng thuốc trung bình 169,4 ±
43,78, điểm NIHSS trung bình 14,5 ± 4,68, 1 giờ sau khi điều trị có 43,5% bệnh nhân NIHSS giảm được từ 4
điểm trở lên, tại thời điểm 24 giờ có 56,6% bệnh nhân NIHSS giảm từ 4 điểm trở lên, 83,9% bệnh nhân có
tái thông sau điều trị, 10,7% có biến chứng chảy máu chuyển dạng, nhưng chỉ 4% là có triệu chứng. Giới nữ,
tiền sử suy tim, điểm NIHSS cao > 14, vị trí tắc mạch là các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Kết luận:
Điều trị nhồi máu não cấp trong vòng 4,5 giờ bằng thuốc tiêu huyết khối đường tĩnh mạch Alteplase là an
toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Nhồi máu não cấp, thuốc Alteplase, tĩnh mạch
Abstract
EFFICIENT TREATMENT OF ACUTE ISCHEMIC STROKE
WHITHIN 4.5 HOURS WITH INTRAVENOUS ALTEPLASE
IN VINH PHUC GENERAL HOSPITAL
Lo Hong Trung1, Nguyen Van Huy1, Nguyen Van Chi2, Mai Duy Ton2
(1) Vinh Phuc General Hospital; (2) Bach Mai Hospital
Objectives: To evaluate the efficient treatment of acute ischemic stroke within 4.5 hours with intravenous
Alteplase. Method: To describe the intervention both prospectively and retrospectively, no control group.
Results: Mean age 68.9 ± 12.06; mean time of treatment 169.4 ± 43.78; at the patient admission, mean NIHSS
14.5 ± 12.06; 1 hour after treatment, NIHSS score decrease ≥ 4 in 43.5% patients; 24 hours after treatment,
NIHSS score decrease ≥ 4 in 56.6% patients; 83.9% of patients had revascularization after treatment; 10.7% of
patients had hemorrhagic transformation but only 4% of patients had clinical manifestations. NIHSS above 14
score, embolism site, were risk factors for outcome. Conclusions: Treatment of acute ischemic stroke whithin
4.5 hours with intravenous Alteplase is safe and effective.
Keyword: acute ischemic stroke, intravenous Alteplase
-----
- Địa chỉ liên hệ: Lê Hồng Trung, Email: mdphdtrung@gmail.com
- Ngày nhận bài: 22/12/2017; Ngày đồng ý đăng: 12/4/2017; Ngày xuất bản: 20/4/2017
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ thiếu máu não cục bộ là một cấp cứu
thần kinh thường gặp nhất, điều trị hiệu quả phải
được khởi động ngay trong vòng vài phút, vì vậy
hầu hết các biểu hiện thần kinh cấp tính gặp ở một
bệnh nhân đến cấp cứu cần được giả định là đột
quỵ thiếu máu não cục bộ cấp tính cho đến khi khai
thác tiền sử, khám lâm sàng và thăm dò hình ảnh
học chứng minh được các biểu hiện này không liên
quan đến thiếu máu não cục bộ.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành
điều trị thuốc tiêu huyết khối Alteplase đường tĩnh
mạch ở bệnh nhân thiếu máu não cục bộ cấp tính
trong vòng 3 giờ đầu với hai mức liều khác nhau.
Các quốc gia ở Châu Âu và Châu Mỹ xem liều 0,9
mg/kg như là liều chuẩn, còn các quốc gia ở Châu
Á lại có khuynh hướng sử dụng liều thấp 0,6 mg/
kg [1] nhưng vẫn đạt kết quả phục hồi chức năng
tốt sau ba tháng tương tự liều 0,9 mg/kg và biến
chứng chảy máu trong sọ có triệu chứng thấp hơn
56
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nhiều so với những bệnh nhân được điều trị liều
0,9 mg/kg.
Việc ứng dụng điều trị thuốc tiêu huyết khối
Alteplase đường tĩnh mạch trong điều trị thiếu máu
não cục bộ cấp tính đã được thực hiện tại Khoa Cấp
cứu Bệnh viện Bạch Mai từ năm 2009, tuy nhiên vẫn
chưa có nghiên cứu chính thức nào về điều trị tiêu
huyết khối ở nhóm thiếu máu não cục bộ cấp tính tại
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ trước năm 2015 các bệnh
nhân thiếu máu não cục bộ cấp tính được điều trị
tại các bệnh viện trong địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cũng
chưa được áp dụng phương pháp này. Vì vậy kết cục
của bệnh nhân thường không tốt, có nhiều di chứng
nặng nề về thần kinh, gây tốn kém cho gia đình và
xã hội, kinh phí điều trị tốn kém và gánh nặng về y
tế rất lớn. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
với mục tiêu sau:
1. Nhận xét các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
ở bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp đến sớm
trong vòng 4,5 giờ
2. Đánh giá hiệu quả điều trị nhồi máu não
cấp trong vòng 4,5 giờ bằng thuốc tiêu huyết khối
đường tĩnh mạch Alteplase
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
75 bệnh nhân được chẩn đoán đột quỵ thiếu
máu não cục bộ cấp tính trong vòng 4,5 giờ được
điều trị bằng thuốc Alteplase từ tháng 3 năm 2015
đến tháng 11 năm 2016 tại khoa Cấp cứu Bệnh viện
đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả can thiệp,
không có nhóm chứng.
2.3. Quy trình nghiên cứu: Các bệnh nhân thỏa
mãn các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, được bệnh
nhân/người thân đồng ý tham gia nghiên cứu, được
tiến hành điều trị thuốc tiêu huyết khối đường tĩnh
mạch Alteplase và đánh giá theo mục tiêu đề tài với
bệnh án mẫu được thiết kế sẵn. Các số liệu thu thập
được xử lý bằng thuật toán thống kê y học.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu
Đặc điểm Thông số ± độ lệch chuẩn ± SD Các chỉ số được ghi nhận
Giới (nam/nữ) 42/33
Tuổi (năm) 68,90 ± 12,06 Cao nhất 88, thấp nhất 49
Nam 66,63 ± 12,26 Cao nhất 83, thấp nhất 49
Nữ 71,82 ± 12,02 Cao nhất 88, thấp nhất 52
Thời gian khởi phát – nhập viện (phút) 104,83 ± 52,54 Sớm nhất 45, muộn nhất 220
Thời gian khởi phát điều trị (phút) 169,44 ± 43,78 Sớm nhất 80, muộn nhất 269
Điểm NIHSS trước điều trị 14,5 ± 4,7 Thấp nhất 5, cao nhất 23
Nhận xét: Tuổi trung bình của nhóm can thiệp ở mức tương đối cao 68,90 ± 12,06. Điểm NIHHSS cũng
cao là 14,5 ± 4,7.
3.2. Các dấu hiệu sớm trên phim chụp cắt lớp vi tính sọ não trước khi điều trị Alteplase
Bảng 1. Các biểu hiện tổn thương sớm trên phim chụp cắt lớp vi tính sọ não
Dấu hiệu tổn thương sớm trên phim chụp cắt lớp vi tính
sọ não
Số bệnh nhân
n = 75
Tỷ lệ %
Dấu hiệu xóa rãnh vỏ não 16 21,3
Vùng giảm đậm độ dưới vỏ 21 27,7
Xóa vùng chất xám chất trắng 16 21,3
Xóa dải băng thùy đảo 5 6,4
Dấu hiệu điểm tăng tỷ trọng hình chấm 17 22,7
Dấu hiệu tăng tỷ trọng hình dải 16 21,3
Hình ảnh sọ não bình thường 33 36,2
57
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Nhận xét: Dấu hiệu vùng giảm đậm độ dưới vỏ: có
21/75 bệnh nhân, chiếm 27,2%.
3.3. Thay đổi điểm NIHSS ở thời điểm 1 giờ sau
khi bắt đầu điều trị Altplase
Tỷ lệ % Tỷ lệ %
Biểu đồ 1. Thay đổi điểm NIHSS ở thời điểm 1 giờ
sau khi bắt đầu điều trị
Nhận xét: - Có 43,5% bệnh nhân giảm điểm
NIHSS từ 4 điểm trở lên.
- Số lượng bệnh nhân giảm điểm NIHSS từ 1
đến 3 điểm là 28,25%.
3.4. Thay đổi điểm NIHSS ở thời điểm 24 giờ
sau điều trị Alteplase
Biểu đồ 2. Thay đổi điểm NIHSS ở thời điểm 24 giờ
sau khi bắt đầu điều trị
Nhận xét: 56,6% bệnh nhân giảm điểm NIHSS từ 4
điểm ở thời điểm 24 giờ sau điều trị.
3.5. Đánh giá hiệu quả tái thông mạch não bằng thang điểm MORI
Bảng 2. Đánh giá hiệu quả tái thông bằng thang điểm MORI
Thang điểm MORI Số trường hợp Tỷ lệ % Tỷ lệ cộng dồn
Mức độ 3 19 61,3 61,3
Mức độ 2 3 9,7 71,0
Mức độ 1 4 12,9 83,9
Mức độ 0 5 16,1 100
Tổng 31 100
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân có tái thông sau điều trị Alteplase là 83,9%, trong đó có 61,3% bệnh nhân có tái thông
hoàn toàn.
- Có 16,1 bệnh nhân không có tái thông mạch não sau điều trị Alteplase.
3.6. Đánh giá về biến chứng chảy máu chuyển dạng
Biểu đồ 4. Biến chứng chảy máu chuyển dạng sau điều trị Alteplase
Nhận xét: Tỷ lệ có biến chứng chảy máu chuyển dạng là 10,7%.
58
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 6. Các thể chảy máu chuyển dạng
Thể chảy máu Số trường hợp Tỷ lệ %
Chảy máu chấm nhỏ vùng rìa ổ nhồi máu (HI1) 2 2,7
Chảy máu dạng chấm trong ổ nhồi máu (HI2) 3 4
Cục máu đông dưới 30% ổ nhồi máu (PH1) 3 4
Cục máu đông trên 30% ổ nhồi máu (PH2) 0 0
Tổng 8 10,7
Không chảy máu chuyển dạng 67 89,3
Tổng 75 100
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân chảy máu chuyển dạng có PH1 là 4%.
4. BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong
nghiên cứu này là 66,9 ± 12,06. Trong nghiên cứu
của Benedikt F và cộng sự tuổi trung bình của các
bệnh nhân rung nhĩ là 74,2 ±9,5 [2], nghiên cứu của
Gustavo S là 79,2 ± 9,7 [3], nghiên cứu của Mostafa
A là 76 ± 10 [4], nghiên cứu của Han T. H. Tu tuổi
trung bình là 76,5. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy
tuổi là một yếu tố dự đoán kết cục lâm sàng sau
đột quỵ thiếu máu não cục bộ, bởi vậy nhiều người
lo ngại điều trị thuốc tiêu huyết khối Alteplase ở
những bệnh nhân cao tuổi sẽ làm tăng nguy cơ tử
vong cũng như tăng biến chứng chảy máu trong sọ.
Thời gian trung bình từ khi khởi phát đến khi
bệnh nhân được điều trị thuốc tiêu huyết khối
Alteplase đường tĩnh mạch là 169,44 ± 43,784 phút.
Sớm nhất là 80 phút, muộn nhất là 269 phút. Trung
bình điểm NIHSS trước điều trị là 14,54 ± 4,68, thấp
nhất là 5 điểm, cao nhất là 23 điểm. Kết quả này cũng
tương tự như nghiên cứu của Mostafa: NIHSS trung
bình là 14 [4] và nghiên cứu của Yamaguchi: NIHSS
trung bình trước khi điều trị tiêu sợi huyết là 15 [5].
Kết quả của chúng tôi cho thấy ở thời điểm một
giờ sau điều trị Alteplase có 43,5% bệnh nhân giảm
NIHSS từ 4 điểm trở lên, 28,25% bệnh nhân có điểm
NIHSS giảm từ 1 đến 3 điểm và 28,25% bệnh nhân
NIHSS không giảm hoặc tăng lên. Kết quả này của
chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Mostafa với 16,2%
bệnh nhân có NIHSS không thay đổi hoặc tăng lên [4].
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy điểm NIHSS sau một
giờ điều trị Alteplase nếu không cải thiện hoặc tăng
lên cần tiếp tục được đánh giá để lụa chọn các biện
pháp điều trị khác như tiêu huyết khối đường động
mạch hoặc lấy huyết khối bằng dụng cụ can thiệp
nội mạch nếu bệnh nhân vẫn còn trong cửa sổ điều
trị. Kết quả cho thấy, ở thời điểm 24 giờ sau điều trị
Alteplase có 56,6% bệnh nhân có điểm NIHSS giảm
từ 4 điểm trở lên, 13% bệnh nhân có NIHSS giảm từ
1 đến 3 điểm và 30,4% bệnh nhân có NIHSS không
giảm hoặc tăng lên. Như vậy, ở thời điểm 24 giờ số
lượng bệnh nhân có NIHSS giảm từ 4 điểm trở lên và
NIHSS không giảm hoặc tăng lên cũng đều cao hơn
ở thời điểm một giờ. Ở những bệnh nhân có NIHSS
giảm lâm sàng sẽ cải thiện do phục hồi thần kinh. Các
bệnh nhân có điểm NIHSS không cải thiện hoặc tăng
lên ở thời điểm một giờ đều nằm trong nhóm các
bệnh nhân có điểm NIHSS không cải thiện hoặc tăng
lên ở thời điểm 24 giờ. Điều này một lần nữa khẳng
định, điểm NIHSS sau một giờ điều trị Alteplase nếu
không cải thiện hoặc tăng lên cần tiếp tục được đánh
giá để lụa chọn các biện pháp điều trị khác như tiêu
huyết khối đường động mạch hoặc lấy huyết khối
bằng dụng cụ can thiệp nội mạch nếu bệnh nhân vẫn
còn trong cửa sổ điều trị.
Kết quả phân tích của chúng tôi thấy 89,9% bệnh
nhân có tái thông ở các mức độ khác nhau, trong
đó có 61,3% tái thông hoàn toàn. Có 5 bệnh nhân
(chiếm 16,1%) không có tái thông, trong đó có 3
bệnh nhân tắc động mạch cảnh trong và 2 bệnh nhân
do tắc động mạch não giữa đoạn M1. Theo nghiên
cứu của Kimura [6], 41,2% bệnh nhân có tái thông
sau điều trị Alteplase. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu
của chúng tôi, vì Kimura đánh giá tái thông ở thời
điểm một giờ sau điều trị Alteplase. Còn theo nghiên
cứu của Mai Duy Tôn [1], tỷ lệ tái thông sau 24 giờ
là 57,2%. Tỷ lệ này cũng thấp hơn trong nghiên cứu
của chúng tôi. Nghiên cứu của Mori [7], bệnh nhân
tắc động mạch não giữa được điều trị bằng Alteplase
có tỷ lệ tái thông sau 24 giờ đạt 69%. Kết quả này
thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi với tỷ lệ
tái thông đạt 83,3% ở bệnh nhân tắc động mạch não
giữa đoạn M1; có thể có sự khác nhau này là do tuổi
hoặc thời gian khởi phát điều trị khác nhau.
Biến chứng chảy máu là biến chứng đáng ngại
nhất trong điều trị tiêu sợi huyết. Trong nghiên cứu
của chúng tôi có 8 bệnh nhân có biến chứng chảy
máu trong sọ, chiếm 10,4%. Trong đó có 3 bệnh
nhân có biến chứng chuyển dạng chảy máu có triệu
59
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
chứng, tương ứng với PH1 theo phân loại của ECASS
1 [8], chiếm 4% toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu. Kết
quả này của chúng tôi tương tự của Mostafa [4].
Kết quả nghiên cứu của Hans và cộng sự, tỷ lệ biến
chứng chuyển dạng chảy máu có triệu chứng là 7%
ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ [9]. Kết
quả này cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi.
Các biến chứng khác chảy máu hệ thống, đái máu
rất ít gặp. Chúng tôi chi gặp một bệnh nhân đái máu
đại thể và chảy máu tại nơi tiêm truyền chiếm 2,2%
và 6 bệnh nhân đái máu vi thể chiếm 13%. Không
gặp bệnh nhân nào có biến chứng chảy máu tiêu
hóa, dị ứng, phản vệ.
Khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thay đổi
điểm NIHSS sau điều trị, chúng tôi thấy giới nữ, huyết
áp tâm thu trên 160 mmHg, huyết áp tâm trương trên
70 mmHg là các yếu tố ảnh hưởng đến kết cục tồi của
bệnh nhân. NIHSS cao, vị trí tắc mạch là các yếu tố
ảnh hưởng đến tái thông mạch sau điều trị thuốc tiêu
huyết khối Alteplase.
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 75 bệnh nhân đột quỵ nhồi máu
não cấp đến sớm trong vòng 4,5 giờ được điều trị
bằng thuốc Alteplase với liều 0,6 mg/kg cân nặng
tại khoa Cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc
chúng tôi đưa ra kết luận:
Điều trị thuốc Alteplase là an toàn và hiệu quả
đối với các bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ
cấp tính; tỷ lệ biến chứng thấp, làm tăng khả năng
hồi phục về thần kinh của bệnh nhân. Kỹ thuật có
thể triển khai được tại các cơ sở y tế được trang bị
máy chụp cắt lớp vi tính sọ não và có đủ điều kiện để
xử trí các biến chứng nếu có.
6. KIẾN NGHỊ
- Tăng cường đào tạo cho cán bộ các tuyến cơ
sở về cấp cứu đột quỵ não, cần nhận biết sớm bệnh
nhân đột quỵ não và vận chuyển bệnh nhân đến cơ
sở y tế có khả năng điều trị tái tưới máu. Tốt nhất là
trong vòng 3 giờ đầu. Cần tuyên truyền cho người
dân nhận biết về các dấu hiệu đột quỵ não. Khi có
dấu hiệu đột quỵ cần phải đến ngay cơ sở y tế để
được tư vấn điều trị hợp lý.
- Có một lượng bệnh nhân đáng kể không có
tái thông mạch trong khi tái thông mạch máu. Nếu
bệnh nhân sau khi điều trị thuốc tiêu huyết khối
đường tĩnh mạch không tái thông hoặc tái thông
mức độ thấp sẽ tiếp tục được lấy huyết khối bằng
dụng cụ cơ học là biện pháp tái thông chắc chắn.
Như vậy cần đầu tư hệ thống trang thiết bị cho
can thiệp nội mạch sẽ giúp giải quyết triệt để được
điểm yếu của phương pháp tiêu huyết khối đường
tĩnh mạch.
-----
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Duy Tôn (2012). Đánh giá hiệu quả điều trị đột
quỵ nhồi máu não cấp trong vòng 3 giờ đầu bằng thuốc
tiêu huyết khối đường tĩnh mạch Ateplase liều thấp, Luận
án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Benedikt F, Rachael F, Christian W, Ashafaq S, Ken-
nedy R.L (2012). Impact of atrial fibrillation on outcome in
thrombolyzed patients with stroke: Evidence from the Vir-
tual International Stroke Trials Archive (VISTA). Stroke, 43,
1872 - 1877.
3. Gustavo S, David G, Roula R, Limei Zh, Robert G.H
(2013). Atrial fibrillation in stroke: Predicting response to
thrombolysis and clinical outcome. Stroke, 44, 99 - 104.
4. Mostafa A, Niall M.D, Celestine S, Evelyn T, Trac-
ey B, Keith W.M (2010). Early recurrent ischemic stroke
complicating intravenous thrombolysis for stroke: inci-
dence and association with atrial fibrillation. Stroke, 41,
1990 -1995.
5. Yamaguchi T, Mori E, Minematsu K, Nakagawara
J, Hashi K, Saito I, et al (2006). Alteplase at 0.6 mg/kg for
Acute Ischemic Stroke Within 3 Hours of Onset : Japan Al-
teplase Clinical Trial (J-ACT). Stroke, 37, 1810-1815.
6. Kimura K,Iguchi Y, Shibazaki K, Aoki J, Watanabe
M, Matsumoto N, Yamashita S (2010). Early stroke treat-
ment with IV t-PA associated with early recanalization.
Journal of the Neurological Sciences, 295, 53-57.
7. Mori E, Minematsu K, Nakagawara J, Yamaguchi T,
Sasaki M, Hirano T, for the J-ACT II Group (2010). Effects of
0.6 mg/kg Intravenous Alteplase on Vascular and Clinical
Outcomes in Middle cerebral Artery Occlusion. Stroke, 41,
461-465.
8. Hacke W, Kaste M, Fieschi C, et al (1995). Intravenous
thrombolysis with recombinant tissue plasminogen activa-
tor for acute hemispheric stroke. The European Cooperative
Acute Stroke Study (ECASS). JAMA, 274, pp. 1017-1025.
9. Hans T. H. T, Bruce C. V. C, Soren C (2013). Worse
stroke outcome in atrial fibrillation is explained by more
severe hypoperfusion, infarct growth, and hemorrhagic
transformation. World Stroke Organization, 1-7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_dieu_tri_thieu_mau_nao_cuc_bo_cap_tinh_trong_vong_4.pdf