Thay đổi kiến thức chăm sóc SKRM của
học sinh
Trong quá trình thực hiện giáo dục SKRM
cho các em KTTT dựa vào vai trò của thầy cô
tại trường và phụ huynh tại gia đình cho thấy
kiến thức chăm sóc SKRM của các em đã có
phần nào cải thiện. Đặc biệt, học sinh nhóm
KTTT nhẹ đáp ứng tốt hơn với phương pháp
giáo dục SKRM này qua 6 tháng can thiệp. Vì
vậy, các em sẽ làm gương mẫu giúp học sinh
nhóm vừa và nặng tiếp tục cải thiện kiến thức
chăm sóc răng miệng. Học sinh nhóm nhẹ sau
khi được giáo viên hướng dẫn, các em có thể
bắt chước theo từng bước và lặp lại dần dần
đúng phương pháp chải răng. Học sinh nhóm
vừa và nặng chưa tự chải răng được trên mô
hình trong vòng thời gian 6 tháng. Kết quả
này cho thấy cần có một chương trình dạy chải
răng đơn giản, phù hợp, thời gian lâu hơn
dành cho các em KTTT mức độ vừa và nặng.
Thay đổi thói quen chải răng của học sinh
Phần lớn những thay đổi trong thói quen
chải răng xuất phát từ thay đổi nhận thức của
các học sinh KTTT nhẹ qua các buổi giáo dục
SKRM tại trường, cộng với sự tác động của
thầy cô giáo và cha mẹ. Đối với nhóm học sinh
KTTT mức độ nhẹ, việc áp dụng một phương
pháp giáo dục SKRM thích hợp với đặc điểm
trí tuệ của học sinh sẽ giúp cải thiện được tình
trạng răng miệng của các em. Ngược lại, học
sinh ở nhóm vừa và nặng, các em có khả năng
tư duy thấp, chủ yếu là bắt chước làm theo
thầy cô, các bạn và cha mẹ (8, 9). Do đó, những
thay đổi về thói quen trên phần lớn xuất phát
từ tác động của giáo viên và phụ huynh học
sinh. Phụ huynh và giáo viên là người có vai
trò rất quan trọng trong việc chăm sóc sức
khỏe cho các em KTTT mức độ vừa và nặng.
Điều cần thiết trong phương pháp giáo dục
SKRM cho đối tượng học sinh nhóm này là
tăng cường kiến thức và kỹ năng chăm sóc
SKRM cho giáo viên và phụ huynh học sinh.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 88 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giáo dục sức khỏe răng miệng cho học sinh khuyết tật trí tuệ tại trường nuôi dạy trẻ khuyết tật huyện củ chi thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 223
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC SỨC KHỎE RĂNG MIỆNG CHO HỌC SINH
KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TẠI TRƯỜNG NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
HUYỆN CỦ CHI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Tố Trâm*, Ngô Đồng Khanh**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả của chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng thích hợp cho học
sinh khuyết tật trí tuệ (KTTT) từ 6 - 18 tuổi tại trường Nuôi dạy trẻ khuyết tật Củ Chi, TP. HCM.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 60 học sinh KTTT có IQ từ 20 đến 70, được
chia làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm 21 học sinh KTTT, nhóm 2 gồm 39 học sinh KTTT vừa và nặng. Những học sinh
này được áp dụng một phương pháp giáo dục sức khoẻ răng miệng (SKRM) thích hợp hàng tuần và được đánh
giá lại kết quả sau 6 tháng can thiệp. Tình trạng mảng bám được đánh giá bằng chỉ số vệ sinh răng miệng đơn
giản (OHI-S).
Kết quả: Tình trạng vệ sinh răng miệng tốt tăng từ 3,3% trước giáo dục lên 46,7% sau 6 tháng can thiệp.
Qua 6 tháng giáo dục SKRM, điểm chỉ số mảng bám của nhóm 1 giảm từ 2,24 ± 0,54 còn 0,74 ± 0,45. Điểm chỉ
số mảng bám của nhóm 2 giảm từ 2,43 ± 0,46 còn 1,15 ± 0,62 (p<0,001). Tỉ lệ % học sinh nhóm 1 có kiến thức
đúng về thức ăn tốt cho răng và nướu là 100%, nhóm 2 là 51,3%. Tỉ lệ học sinh thực hành chải răng đạt của
nhóm 1 là 100%, nhóm 2 là 33,3%.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy phương pháp giáo dục SKRM cho học sinh KTTT có hiệu quả đối với học
sinh nhóm 1, nhóm học sinh có mức độ KTTT nhẹ. Cho thấy cần tiếp tục thực hiện chương trình giáo dục SKRM
đối với các trường có học sinh KTTT.
Từ khóa: Giáo dục sức khỏe răng miệng, khuyết tật trí tuệ, người chăm sóc/ nuôi dạy, tình trạng SKRM.
ABSTRACT
RESULTS OF ORAL HEALTH EDUCATION PROGRAM FOR MENTAL RETARDED CHILDREN
ATTENDING A SPECIAL SCHOOL IN CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY
Huynh To Tram, Ngo Dong Khanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 223 - 228
Objectives: To test an appropriate oral health education program for mental retarded children by evaluating
their plaque removal efficacy when trained weekly for six months and the effectiveness of this program, 6 months
after training.
Method: The sample consisted of 60children with intellectual impairment, IQ 20 to 70 and age 6 to 18-years-
old, who attended a special school in Cu chi, Ho Chi Minh City and whom it was thought could be trained in oral
appropriate oral health education program. For 6 months, children watched a weekly oral health presentation,
practised brushing on model teeth, had their plaque disclosed and recorded by the simplified oral hygiene index
(OHI-S) and then brushed their own teeth under supervision. Plaque was re-evaluated 6 months after training.
Results: Good oral hygiene status increased from 3.3% to 46.7%. The OHI-S before and after training was
2.24 and 0.74 respectively for group 1; was 2.43 and 1.15 for group 2, respectively. This improvement was
* Học viên Cao học- Khóa 2012 - 2014. Khoa Răng Hàm Mặt- Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Khoa Răng Hàm Mặt- Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Huỳnh Tố Trâm ĐT: 0985921909 Email: totram_6686@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 224
statistically significant (p<0.001). The prevalence of good knowledge was 100% for group 1 and 51.3% for group
2. 100% children of group 1 cleaned their teeth well while 33.3% of the subjects were found in group 2.
Conclusion: This weekly, school-based oral health programme has been effective in improving the oral
hygiene of children with mild intellectual impairment. However, to be effective long-term it has to be delivered
continuously.
Key words: Oral health education, mental retardation/ intellectual disability, caregiver, oral health status
MỞ ĐẦU
Theo Hiệp hội Khuyết tật trí tuệ Mỹ (AAMR,
1992), trẻ khuyết tật trí tuệ (KTTT) có những hạn
chế lớn về khả năng thực hiện chức năng với các
đặc điểm như hoạt động trí tuệ dưới mức trung
bình, khả năng tư duy chậm. Khả năng học tập
của trẻ chậm hơn so với các bạn cùng lứa tuổi.
Hạn chế các kỹ năng như giao tiếp, tự định
hướng, tự chăm sóc sức khoẻ,... Hiện tượng
KTTT này bắt đầu xuất hiện từ khi trẻ còn nhỏ,
trước 18 tuổi(1, 3, 5, 6).
Chăm sóc răng miệng cho trẻ em KTTT
thường gặp nhiều khó khăn do sự hợp tác của
các em hoặc do người nuôi dạy không đủ kiến
thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe răng miệng
(SKRM). Đây là rào cản đối với việc chăm sóc
răng miệng tốt nhất cho đối tượng trên, làm trầm
trọng hơn các bệnh về răng miệng mà cụ thể là
sâu răng và viêm nướu(2,7).
Những năm gần đây tại Việt Nam các
nghiên cứu về vấn đề răng miệng ở nhóm trẻ
KTTT còn quá ít, những thông tin về tình trạng
bệnh răng miệng của trẻ KTTT cũng như sự hiểu
biết, kỹ năng thực hành chăm sóc sức khỏe răng
miệng của người nuôi dạy trẻ là cần thiết và rất
có ý nghĩa nhân đạo.
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá kết
quả của chương trình giáo dục sức khỏe răng
miệng thích hợp cho học sinh khuyết tật trí tuệ
từ 6 - 18 tuổi thông qua việc đánh giá tỉ lệ sâu
răng, trung bình răng sâu mất trám của học sinh.
Đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng (OHI-S)
của học sinh trước và sau 6 tháng can thiệp.
Đánh giá sự thay đổi kiến thức và thói quen
chăm sóc SKRM của học sinh sau 6 tháng thực
hiện phương pháp giáo dục SKRM thích hợp.
Đánh giá sự thay đổi kiến thức, cách chăm sóc
SKRM của giáo viên và phụ huynh đối với học
sinh KTTT trước và sau tập huấn chương trình
chăm sóc SKRM (7, 10).
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Gồm 60 học sinh KTTT từ 6 – 18 tuổi đang
học tại trường Nuôi dạy trẻ khuyết tật Củ Chi,
TP. HCM. Mẫu nghiên cứu được chia làm 2
nhóm, nhóm 1 gồm 21 học sinh KTTT nhẹ, nhóm
2 gồm 39 học sinh KTTT vừa và nặng. Thời gian
thực hiện nghiên cứu từ tháng 10/ 2013 đến
tháng 4/ 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng. Quy trình
nghiên cứu bao gồm trước nghiên cứu chính
thức và thực hiện nghiên cứu chính thức.
Trước nghiên cứu chính thức
Giai đoạn 1: Khảo sát tình hình thực tế của
trường để biết được số lượng học sinh và giáo
viên, giờ giấc học tập và chương trình dạy học
tại trường.
Giai đoạn 2: Soạn thảo tài liệu tập huấn và
bảng câu hỏi đánh giá kiến thức, cách chăm sóc
SKRM cho giáo viên, phụ huynh. Soạn thảo giáo
án; chọn lọc, chuẩn hóa bộ giáo cụ; soạn thảo
bảng câu hỏi đánh giá kiến thức, thói quen chăm
sóc SKRM của học sinh.
Giai đoạn 3: Tập huấn định chuẩn cho
điều tra viên, phỏng vấn viên. Tập huấn triển
khai giáo án, giáo cụ cho tất cả giáo viên. Tập
huấn kiến thức chăm sóc SKRM cho phụ
huynh học sinh.
Giai đoạn 4: Thử nghiệm và điều chỉnh bộ
giáo án giáo dục SKRM cho học sinh KTTT.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 225
Thực hiện nghiên cứu chính thức
Nhân lực: Đội điều tra viên gồm có: 2 điều
tra viên khám lâm sàng răng miệng học sinh, 2
thư ký ghi chép, 1 trợ thủ chuẩn bị khâu
phỏng vấn, khám và tiệt khuẩn dụng cụ.
Phỏng vấn viên: áp dụng theo hình thức
phỏng vấn “cặp đôi”. Điều tra viên là người
trình bày nội dung câu hỏi. Giáo viên là người
truyền đạt lại cho học sinh.
Phương tiện nghiên cứu: Phiếu thu thập dữ
liệu khám lâm sàng theo mẫu của WHO 1997;
bảng câu hỏi đánh giá kiến thức, cách chăm sóc
răng miệng dành cho giáo viên và phụ huynh;
bảng câu hỏi phỏng vấn học sinh; bộ dụng cụ
khám; thuốc nhuộm mảng bám Tri Plaque ID;
các phương tiện khử khuẩn và tiệt khuẩn.
Tiến hành khám răng miệng học sinh và thực
hiện phỏng vấn học sinh lần thứ nhất (dữ liệu
nền) Tình trạng răng miệng của học sinh được
ghi nhận theo tiêu chí của WHO năm 1997. Sau
đó giáo viên triển khai chương trình giáo dục
SKRM cho học sinh KTTT 2 buổi/ tuần liên tục
trong vòng 6 tháng. Mỗi buổi giáo dục kéo dài 30
phút. Sau 3 tháng thực hiện phỏng vấn lại học
sinh lần 2 để đánh giá kiến thức, thói quen chăm
sóc răng miệng.
Tiến hành khám tình trạng vệ sinh răng
miệng và thực hiện phỏng vấn học sinh lần thứ
hai (sau 6 tháng) Đánh giá lại kiến thức, thói
quen chăm sóc răng miệng của học sinh bằng
bảng câu hỏi phỏng vấn và ghi nhận lại tình
trạng vệ sinh răng miệng sau 6 tháng thực hiện
chương trình giáo dục SKRM.
KẾT QUẢ
Tình trạng răng miệng: Tỉ lệ sâu răng rất
cao: 91,7%, trong đó 76,7% sâu răng vĩnh viễn.
Trung bình sâu mất trám răng sữa là 3,1; trung
bình sâu mất trám răng vĩnh viễn là 3,2.
Thay đổi tình trạng vệ sinh răng miệng của
học sinh trước và sau 6 tháng GDSKRM.
Biểu đồ 1 cho thấy sau 6 tháng giáo dục
SKRM tình trạng vệ sinh răng miệng tốt tăng từ
3,3% trước giáo dục lên 46,7% sau 6 tháng can
thiệp. Số học sinh có tình trạng vệ sinh răng
miệng kém tuy có giảm nhưng vẫn còn cao
(15%). Qua 6 tháng, chỉ số mảng bám của 2
nhóm học sinh KTTT giảm (p<0,001) (bảng 1).
Biểu đồ 1: Tình trạng vệ sinh răng miệng của học
sinh trước và sau giáo dục SKRM
Bảng 1: Chỉ số mảng bám của học sinh trước và sau
giáo dục SKRM
DI
Trước giáo dục
SKRM
Sau giáo dục
SKRM p**
TB ± ĐLC TB ± ĐLC
Nhóm 1 2,24 ± 0,54 0,74 ± 0,45 <0,001
Nhóm 2 2,43 ± 0,46 1,15 ± 0,62 <0,001
p
*
0,196 0,011
p*: kiểm định Mann – Whitney, p**: kiểm định dấu và hạng
Wilcoxon.
Thay đổi kiến thức và thói quen chăm sóc
SKRM của học sinh trước và sau giáo dục
SKRM
Sau 6 tháng giáo dục SKRM, tỉ lệ % học sinh
có kiến thức đúng về thức ăn tốt cho răng và
nướu tăng đáng kể (p<0,05) (bảng 2). Học sinh
nhóm 1 có kiến thức đúng cao hơn học sinh
nhóm 2.100% học sinh nhóm 1 thực hành chải
răng đạt, nhóm 2 chỉ 33,3% (p<0,05) (bảng 3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 226
Bảng 2: So sánh sự thay đổi kiến thức của học sinh về SKRM trước và sau giáo dục.
Kiến thức đúng Nhóm
học sinh
Trước giáo dục Sau giáo dục 3 tháng Sau giáo dục 6 tháng
p
**
n (%) n (%) n (%)
Thức ăn tốt cho răng và nướu
Nhóm 1 2 (9,5) 18 (87,5) 21 (100) <0,001
Nhóm 2 0 (0) 13 (33,3) 20 (51,3) <0,001
p
*
0,119
(a)
<0,001 <0,001
Thức ăn không tốt cho răng và
nướu
Nhóm 1 8 (38,1) 21 (100) 21 (100) <0,001
Nhóm 2 0 (0) 14 (35,9) 25 (64,1) 0,002
p
*
<0,001
(a)
<0,001 0,001
(a)
Biết sử dụng bàn chải và kem
đánh răng để làm sạch răng
Nhóm 1 11 (52,4) 18 (85,7) 21 (100) <0,001
Nhóm 2 0 (0) 27 (69,2) 35 (89,7) <0,001
p
*
<0,001
(a)
0,16 0,287
(a)
p*: kiểm định c2, p**: kiểm định Mc Nemar, (a): kiểm định chính xác Fisher.
Bảng 3: Tỉ lệ học sinh thực hành đạt việc chải răng
trên mẫu hàm
Học sinh
Tỉ lệ học sinh thực hành được việc chải răng
trên mẫu hàm
Sau giáo dục 3
tháng
Sau giáo dục 6
tháng p**
n (%) n (%)
Nhóm 1 14 (66,7) 21 (100) 0,016
Nhóm 2 0 (0) 13 (33,3) <0,001
p* <0,001
(a)
<0,001
p*: kiểm định c2, p**: kiểm định Mc Nemar, (a): kiểm định
chính xác Fisher.
Thay đổi thói quen chải răng
Thói quen chải răng đúng của học sinh nhóm
1 và nhóm 2 gia tăng sau 6 tháng giáo dục SKRM
(p<0,001). Số lượng học sinh nhóm 1 có thói quen
chải răng đúng cao hơn học sinh ở nhóm 2
(p<0,001) (bảng 4).
Bảng 4: So sánh sự thay đổi thói quen chải răng của
học sinh trước và sau giáo dục SKRM.
Thói
quen
chải
răng
Nhóm
học
sinh
Trước
giáo dục
Sau giáo
dục 3
tháng
Sau giáo
dục 6
tháng p**
n (%) n (%) n (%)
Chải
răng buổi
sáng
Nhóm 1 6 (28,6) 9 (42,9) 18 (85,7) <0,001
Nhóm 2 0 (0) 10 (25,6) 16 (41) <0,001
p* 0,001
(a)
0,172 0,001
Chải
răng buổi
tối
Nhóm 1 1(4,8) 12 (57,1) 17 (81) <0,001
Nhóm 2 0 (0) 8 (20,5) 14 (35,9) <0,001
p* 0,35
(a)
0,004 0,001
p*: kiểm định c2, p**: kiểm định Mc Nemar, (a): kiểm định
chính xác Fisher.
Có sự thay đổi kiến thức và cách chăm sóc
răng miệng của phụ huynh trước và sau tập
huấn giáo dục SKRM. Sau tập huấn, kiến thức
của phụ huynh về mối liên quan giữa tình trạng
SKRM và trẻ KTTT được cải thiện một cách đáng
kể (p<0,05). 100% phụ huynh biết chăm sóc răng
miệng đúng cách cho học sinh hơn so với ban
đầu (p<0,001).
Có sự thay đổi kiến thức và cách chăm sóc
răng miệng của giáo viên; giáo viên có thể thực
hiện tốt công tác giáo dục và chăm sóc SKRM
cho học sinh tại trường. Sau tập huấn có 100%
giáo viên có điểm kiến thức, cách chăm sóc răng
miệng đạt yêu cầu (p<0,05).
BÀN LUẬN
Tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh
có sự thay đổi sau 6 tháng giáo dục SKRM. Học
sinh nhóm KTTT nhẹ có cải thiện tình trạng vệ
sinh răng miệng nhiều hơn so với nhóm vừa và
nặng. Tình trạng vệ sinh răng miệng tốt tăng và
chủ yếu sự thay đổi này xuất phát từ học sinh
nhóm KTTT nhẹ. Kết quả này cho thấy phương
pháp giáo dục SKRM cho học sinh KTTT có hiệu
quả đối với nhóm học sinh KTTT nhẹ.
Dựa vào chỉ số mảng bám cho thấy tình
trạng vệ sinh răng miệng của học sinh KTTT sau
giáo dục SKRM tuy có cải thiện và thấy được
phần nào hiệu quả nhưng vẫn nằm trong giới
hạn tình trạng vệ sinh răng miệng trung bình
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 227
theo phân loại của Green - Vermillion. Do đó,
đối tượng KTTT này cần phải có thời gian thực
hiện giáo dục SKRM một cách lâu dài (4, 8, 9).
Thay đổi kiến thức chăm sóc SKRM của
học sinh
Trong quá trình thực hiện giáo dục SKRM
cho các em KTTT dựa vào vai trò của thầy cô
tại trường và phụ huynh tại gia đình cho thấy
kiến thức chăm sóc SKRM của các em đã có
phần nào cải thiện. Đặc biệt, học sinh nhóm
KTTT nhẹ đáp ứng tốt hơn với phương pháp
giáo dục SKRM này qua 6 tháng can thiệp. Vì
vậy, các em sẽ làm gương mẫu giúp học sinh
nhóm vừa và nặng tiếp tục cải thiện kiến thức
chăm sóc răng miệng. Học sinh nhóm nhẹ sau
khi được giáo viên hướng dẫn, các em có thể
bắt chước theo từng bước và lặp lại dần dần
đúng phương pháp chải răng. Học sinh nhóm
vừa và nặng chưa tự chải răng được trên mô
hình trong vòng thời gian 6 tháng. Kết quả
này cho thấy cần có một chương trình dạy chải
răng đơn giản, phù hợp, thời gian lâu hơn
dành cho các em KTTT mức độ vừa và nặng.
Thay đổi thói quen chải răng của học sinh
Phần lớn những thay đổi trong thói quen
chải răng xuất phát từ thay đổi nhận thức của
các học sinh KTTT nhẹ qua các buổi giáo dục
SKRM tại trường, cộng với sự tác động của
thầy cô giáo và cha mẹ. Đối với nhóm học sinh
KTTT mức độ nhẹ, việc áp dụng một phương
pháp giáo dục SKRM thích hợp với đặc điểm
trí tuệ của học sinh sẽ giúp cải thiện được tình
trạng răng miệng của các em. Ngược lại, học
sinh ở nhóm vừa và nặng, các em có khả năng
tư duy thấp, chủ yếu là bắt chước làm theo
thầy cô, các bạn và cha mẹ (8, 9). Do đó, những
thay đổi về thói quen trên phần lớn xuất phát
từ tác động của giáo viên và phụ huynh học
sinh. Phụ huynh và giáo viên là người có vai
trò rất quan trọng trong việc chăm sóc sức
khỏe cho các em KTTT mức độ vừa và nặng.
Điều cần thiết trong phương pháp giáo dục
SKRM cho đối tượng học sinh nhóm này là
tăng cường kiến thức và kỹ năng chăm sóc
SKRM cho giáo viên và phụ huynh học sinh.
KẾT LUẬN
Sau 6 tháng triển khai chương trình giáo
dục SKRM thích hợp cho học sinh Trường
nuôi dạy trẻ em khuyết tật huyện Củ Chi TP.
Hồ Chí Minh, nghiên cứu cho thấy tỉ lệ sâu
răng của học sinh rất cao. Đối với nhóm học
sinh KTTT ở mức nhẹ có thể nắm bắt được
một số kiến thức chăm sóc răng miệng cơ bản
và có thể tự thực hiện dưới sự quan sát và
động viên của cha mẹ, thầy cô. Điều này cho
thấy phương pháp giáo dục SKRM cho học
sinh KTTT có hiệu quả đặc biệt là học sinh có
mức độ KTTT nhẹ. Nghiên cứu cho thấy cần
tiếp tục thực hiện chương trình giáo dục
SKRM cho các học sinh KTTT. Cần nâng cao
kiến thức và kỹ năng chăm sóc SKRM của giáo
viên và phụ huynh. Nhấn mạnh vai trò của
giáo viên tại trường học và vai trò của phụ
huynh tại gia đình trong việc chăm sóc SKRM
cho học sinh KTTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DeBiase C. B. (2009), "The Disabled", Dental Health Education
Theory and Practice, Williams & Wilkins, Vest Virginia, 2nd
edition, pp.163-191.
2. Fickert N. A., Ross D. (2012), "Effectiveness of a caregiver
education program on providing oral care to individuals
with intellectual and developmental disabilities", Intellect
Dev Disabil, 50 (3), pp.219-232.
3. Huỳnh Thị Thu Hằng (2008), Đại cương về giáo dục trẻ chậm
phát triển trí tuệ, Trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng, Khoa
Tâm Lý- Giáo Dục, Đà Nẵng, tr.3-18.
4. Kavvadia K., Taoufik K. (2009), "Oral hygiene education
programme for intellectually impaired students attending a
special school", Journal of Disability and Oral Health, pp.1-7.
5. King B. H., Toth T. E., Hodapp R. M., Dykens E. M. (2010),
"Intellectual Disability", Textbook of Psychiatry, Lippincont
Williams and Wilkin, Philadelphia, pp.3444- 3474.
6. Nguyễn Thị Xuyên, Trần Trọng Hải, Trần Quý Tường
(2008), "Phục hồi chức năng trẻ chậm phát triển trí tuệ", Phục
hồi chức năng dựa vào cộng đồng- tài liệu số 14, tr.11-18.
7. Norwood K. W., Slayton R. L. (2013), "Oral health care for
children with developmental disabilities", Pediatrics, 131 (3),
pp.614-619.
8. Shyama M., Al-Mutawa S. A., Honkala S., Honkala E.
(2003), "Supervised toothbrushing and oral health education
program in Kuwait for children and young adults with
Down syndrome", Spec Care Dentist, 23 (3), pp.94-99.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 228
9. Stefanovka E., Nakova M., Radoijkova V., Ristoska S. (2010),
"Tooth- brushing intervention programme among children
with mental handicap", Bratisl Lek Listy, 111 (5), pp.299-302.
10. WHO (1997), Oral Health Survey - Basic methods, Geneva,4th.
Ngày nhận bài báo: 02/02/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2015
Người phản biện: TS Trần Thu Thủy
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_giao_duc_suc_khoe_rang_mieng_cho_hoc_sinh_khuyet_ta.pdf