Tỷ lệ các trường hợp cần dùng Oxytocin sau
KPCD với thông Foley đơn thuần của chúng tôi
là 60%, thấp hơn Dewan, nhưng khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên khi so với
Caliscan(6) và Tabowei(15).
Cho dù tiêu chuẩn thành công của khởi phát
chuyển dạ là gì đi nữa, mục đích cuối cùng của
khởi phát chuyển dạ vẫn là sinh ngả âm đạo.
Lược qua kết quả các công trình nghiên cứu sử
dụng ống thông Foley đã báo cáo trong nước, và
các nghiên cứu sử dụng thể tích bơm bóng 50ml
khi dùng Foley để KPCD ở các nước trên thế
giới, thống kê thời gian sinh ngả âm đạo từ thấp
đến cao như bảng trên. Với 105 trường hợp
trong khoảng thời gian hơn 6 tháng, nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng ống thông Foley với thể
tích 50ml bơm qua kênh CTC để KPCD, tỷ lệ
sinh ngả âm đạo có được là 64,8%.
Tính trên số trường hợp tác dụng ngoại ý
cả nhẹ lẫn nặng có tất cả 55 ghi nhận, xảy đến
trên 45 thai phụ. Tuy nhiên số tác dụng ngoại
ý có ảnh hưởng đến chất lượng điều trị bao
gồm 4 trường hợp đau nhiều khi đặt Foley, 1
trường hợp thay đổi ngôi và 1 trường hợp
nhiễm trùng, chỉ chiếm 5,7% các thai phụ tham
gia nghiên cứu.
HẠN CHẾ
Nghiên cứu được thiết kế theo loại hình
nghiên cứu quan sát nên kết quả thu được có
giới hạn trên phương diện bằng chứng y khoa.
Do nghiên cứu của chúng tôi là báo cáo hàng
loạt ca, là loại nghiên cứu được xem là chưa đủ
mạnh khi khảo sát các mối liên quan giữa các
biến số.
Do vậy các kết quả thu được dù có ảnh
hưởng đến thực hành lâm sàng tại cơ sở
nhưng mức độ cũng có giới hạn nhất định.
Đánh giá chỉ số Bishop là một đánh giá mang
tính chủ quan. Chúng tôi đã cố gắng thống
nhất với nhau về cách khám và đánh giá, tuy
nhiên dù sao cũng không phải là một người
khám suốt nên sai sót vẫn không thể tránh
khỏi. Đo độ dài kênh CTC trên siêu âm trước
KPCD do 4 người tham gia, dù có bàn bạc
thống nhất nhưng kết quả thu được về độ dài
kênh cũng không tránh khỏi sai số.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả khởi phát chuyển dạ với thông Foley qua kênh cổ tử cung ở thai từ 37 tuần tại bệnh viện Đa khoa Tây Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 157
HIỆU QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ VỚI THÔNG FOLEY
QUA KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI TỪ 37 TUẦN
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂY NINH
Mai Thị Mỹ Duyên*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang*
TÓM TẮT
Mở đầu: Khởi phát chuyển dạ (KPCD) ở thai đủ trưởng thành có nhiều lý do khác nhau nhưng có xu
hướng ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam các biện pháp khởi phát chuyển dạ khi cổ tử cung
chưa thuận lợi (chín mùi)trong gia đoạn hiện nay chủ yếu là các biện pháp cơ học.
Mục tiêu : Xác định tỷ lệ thành công trong KPCD của thông Foley, thời gian trung bình từ lúc đặt thông
Foley đến khi KPCD thành công và khảo sát một số tác dụng không mong của đặt thông Foley.
Phương pháp: nghiên cứu báo cáo loạt ca (dọc tiền cứu) trên 105 thai phụ đơn thai, tuổi thai từ 37 tuần, có
chỉ định khởi phát chuyển dạ từ 11/2012 đến 05/2013 tại khoa Sản bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Tất cả các thai
phụ đều được KPCD với ống thông Foley 18 qua lỗ trong cổ tử cung, bơm 50 ml nước muối sinh lý, theo dõi
trong 24 giờ.
Kết quả: Tỷ lệ KPCD thành công là 85,7% với KTC 95% [78,5 – 92,9]. Tỷ lệ sinh ngả âm đạo là 64,8%, tỷ
lệ sinh mổ là 35,2%. Thời gian trung bình từ lúc KPCD đạt đến CTC ≥ 7 điểm là 10,58 ± 6,34 giờ. Không có tác
dụng ngoại ý nghiêm trọng. Đau khi đặt 51,4%, vỡ ối 8,5%, ra huyết khi đặt thông 4,7%, thay đổi ngôi thai và
nhiễm khuẫn 0,9%.
Kết luận: KPCD với thông Foley qua lỗ trong cổ tử cung bơm 50 ml an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên cần có
những nghiên cứu rộng và chặt chẽ hơn trong tương lai.
ABSTRACT
EFFECTIVE INDUCTION OF LABOR USING FOLEY INTRACERVICAL IN PREGNANT WOMEN
FROM 37 WEEKS GESTATIONAL AT TAY NINH GENERAL HOSPITAL
Mai Thi My Duyen, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 157 ‐ 162
Background: Induction of labor at term maturity may be many different reasons but growing trend
worldwide. In Vietnam the methods of labor induction when the cervix is unfavorable (ripe) in the current period
mainly in the mechanical method.
Objective: Determine the success rate of induction labor by using Foley catheter, determine the average time
between the onset of labor at the cervical Bishop score was ≥ 7 points and survey some side‐effects of using Foley.
Methods: Reported case series study (prospective longitudinal) of 105 women with singleton pregnancies,
gestational age of 37 weeks, have been indicated induction from 11/2012 to 05/2013 in the Department of
Obstetrics Hospital in Tay Ninh. All pregnant women were used with Foley catheter 18 Fr through the cervix
hole, pumping 50 ml physiological saline and observed for 24 hours.
Results: The rate of labor induction success is 85.7% with 95% confidence interval [78.5 to 92.9]. Vaginal
birth rate is 64.8%, the rate of cesarean delivery was 35.2%. The average time between the onset of labor at the
*Bộ môn Sản – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang. ĐT: 0903882015 E‐mail: pgs.huynhnguyenkhanhtrang@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 158
cervical Bishop score was ≥ 7 points was 10.58 ± 6.34 hours. No serious adverse events. Pain when placed 51.4%,
8.5% rupture of membranes, bleeding when placing the 4.7%, thai house and change the infection 0.9%.
Conclusion: Induction of labor with a Foley catheter through the cervix hole 50 ml pump is safe and
effective. However, there should be extensive research and more closely in the future.
Keywords: Induction of labor, prospective longitudinal study, Foley balloon intracervical
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, tỷ lệ mổ sinh ngày
một tăng cao. Tại Bệnh viện Đa Khoa (BVĐK)
Tây Ninh, tổng số sinh năm 2011 là 9171
trường hợp, năm 2012 là 10532, sinh mổ lần
lượt 3728 và 4171, chiếm tỷ lệ 40,6% và
39,6%(2). Trong số các chỉ định mổ bắt con, chỉ
định mổ có liên quan ʺCTC không thuận lợiʺ
cùng với ʺgiục sinh thất bạiʺ gần xấp xỉ với ʺvết
mổ cũʺ, chiếm khoảng 25% mỗi loại.
Với một thai trưởng thành có chỉ định chấm
dứt thai kỳ nhưng CTC không thuận lợi, KPCD
đơn thuần với Oxytocin thường đưa đến thất bại
với tỷ lệ khá cao, vì thế các bác sĩ thường chọn
phương án mổ bắt con. Như vậy, tại BVĐK Tây
Ninh, do tình hình thực tế đã có một số trường
hợp phải mổ bắt con thay vì KPCD vẫn có thể
sinh được ngả âm đạo.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, BV Hùng
Vương mỗi năm có khoảng 3000 trường hợp cần
KPCD. Con số này là 4204 vào năm 2010 và 7060
năm 2011 tại BV Từ Dũ(1). Để KPCD, có thể có
nhiều phương pháp, trong đó ống thông Foley
đặt qua kênh CTC là một phương pháp an toàn,
ít tốn kém, dễ thực hiện và hiệu quả(12). Đây là
phương pháp áp dụng nong cơ học, đồng thời
kích hoạt nguồn Prostaglandin nội sinh để kích
thích tạo cơn co TC(8,12).
Năm 2011 Hồ Thái Phong và cộng sự(11) báo
cáo tại BVĐK An Giang khi tiến hành nghiên
cứu so sánh 60 thai phụ được chia làm hai nhóm
KPCD vớithông Foley và tách màng ối(9). Kết
quả ghi nhận đặt thông Foley gây KPCD làm cải
thiện chỉ số Bishop cao hơn nhóm tách ối (5,37
và 3,9; p=0,001), thời gian chuyển dạ ngắn hơn ở
nhóm Foley (23 giờ và 30 giờ; p<0,001). Khác biệt
không có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ phẫu thuật
lấy thai, nhiễm trùng mẹ và sơ sinh. Tại BVĐK
Kiên Giang, Lê Nguyễn Thy Thy, Huỳnh
Nguyễn Khánh Trang(13) thực hiện KPCD trên 95
thai phụ thiểu ối ≥37 tuần trong thời gian từ
08/2011 đến 06/2012 ghi nhận tỷ lệ thai phụ có
chỉ số Bishop ≤ 4 điểm trở nên ≥ 7 điểm sau 24
giờ KPCD bằng ống thông Foley bóng bơm 50ml
đặt kênh CTC kết hợp Oxytocin truyền tĩnh
mạch trên thai trưởng thành thiểu ối là 88,42%.
Tỷ lệ sinh ngả âm đạo là 69,47%. Thời gian trung
bình từ lúc KPCD đến khi CTC thuận lợi là 4,89
± 3,32 giờ (ngắn nhất 1 giờ ‐ dài nhất 21 giờ), và
đến lúc sinh ngả âm đạo là 9,97 ± 4,09 giờ (ngắn
nhất là 4 giờ ‐ dài nhất là 24 giờ 20 phút).
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu với
các mục tiêu như sau:
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ thành công trong KPCD của
thông Foley đặt qua kênh CTC bơm thể tích
50ml ở thai từ 37 tuần.
Xác định thời gian trung bình từ lúc đặt
thông Foley đến khi KPCD thành công.
Khảo sát một số tác dụng không mong
muốn như: cảm giác đau, ra huyết, nhiễm trùng,
vỡ ối, sa dây rốn, thay đổi ngôi thai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu dọc, báo cáo loạt ca lâm sàng.
Cỡ mẫu
n =
2
1
2 Z (1‐P)P / d 2 với độ tin cậy 95% nên
2
1 Z = 1,96. Chọn P = 94% tỷ lệ KPCD thành
công mà Embrey và cộng sự (1967) [9] báo cáo
khi sử dụng ống thông Foley bóng bơm 50ml
nong kênh CTC. Độ chính xác là:5% tức d = 0,05.
Tính được N = 86,6. Vậy cần tối thiểu 87. Chúng
tôi thu được 105 trường hợp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 159
Chọn mẫu
Các thai phụ nhập viện tại Khoa sản Bệnh
Viện Đa Khoa Tây ninh có tuổi thai từ ≥ 37 tuần,
có chỉ định KPCD. Thời gian từ 11/2012 đến
05/2013.
Tiêu chí nhận vào
Tuổi thai ≥ 37 tuần, có chỉ định khởi phát
chuyển dạ. Đơn thai, ngôi đầu.Khung chậu
bình thường. Chỉ số Bishop ≤ 4 điểm. Thai phụ
có khả năng sinh ngả âm đạo, đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
Ối rỉ hoặc vỡ. Nhau tiền đạo. Có sẹo mổ cũ
trên cơ tử cung: mổ lấy thai, bóc nhân xơ, sẹo
vá tử cung bị vỡ trong lần mang thai trước.
CTC đã từng bị tổn thương hoặc can thiệp
trước đó: rách cũ, đốt lạnh, đốt điện, khoét
chóp. Các bệnh lý nội: tim, phổi, tiểu đường,
cường giáp, thiếu máu.
Quy trình
Thai phụ nằm tư thế phụ khoa. Sát trùng âm
hộ, âm đạo bằng dung dịch Povidin. Dùng mỏ
vịt hoặc van âm đạo bộc lộ CTC, dùng kẹp Pozzi
kẹp CTC vị trí 12 giờ. Đưa 1 ống thông Foley số
18 (hãng Thompson‐Thailand, số lô 1203290289,
hạn dùng đến 02/2017) qua khỏi lỗ CTC, kẹp
nhẹ ống thông Foley bằng kẹp hình tim, đầu kẹp
ngay điểm tính đánh dấu bằng độ dài CTC‐ đo
qua siêu âm ngả âm đạo trước KPCD, sau đó
đưa ống thông qua kênh CTC đến chỗ kẹp sẽ
dừng lại) sau đó tiến hành bơm 50ml nước muối
sinh lý vào nhánh đường bơm vào bóng ống
thông, trong lúc bơm bóng chèn theo dõi phản
ứng của thai phụ, nếu thai phụ đau hay khó
chịu thì ngưng thủ thuật và xem lại kỹ thuật đặt.
Khi đã bơm đủ 50ml dung dịch nước muối sinh
lý vào bóng ống thông, kéo nhẹ ống thông kiểm
tra. Cố định ống thông vào mặt trong đùi của
thai phụ.
Sau đặt ống thông Foley vào kênh CTC theo
dõi sau 12 giờ, nếu cơn co chưa đủ sẽ chỉnh cơn
co tử cung bằng oxytocin: pha 1 ống Oxytocin
5UI trong 500ml dung dịch Natri Clorua 0,9%
(nồng độ 10mUI/ml), liều bắt đầu là 4 mUI/phút
(VIII giọt/phút), tăng liều 4mUI mỗi 30 phút cho
đến khi đạt được 3 cơn co tử cung trong 10 phút.
Liều oxytocin tối đa là 36mUI/phút.
Theo dõi tim thai bằng Monitor liên tục sau
khi bắt đầu chỉnh cơn co tử cung bằng oxytocin.
Sử dụng kháng sinh uống ngay sau đặt ống
thông KPCD.
KPCD thành công: khi CTC trở nên thuận
lợi nghĩa là chỉ số Bishop (2) ≥ 7 điểm vào lần
khám gần nhất tính từ khi KPCD hoặc lúc rớt
ống thông Foley hoặc khi rút ống thông Foley
sau đặt 12 giờ.
KPCD thất bại
Khi không đạt được các tiêu chí KPCD thành
công hoặc là CTC không đáp ứng đối với việc
dùng biện pháp KPCD sau KPCD 24 giờ.
Kết quả xử lý với phần mềm thống kê SPSS
16.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu
Yếu tố Tần số (%)
Tuổi trung bình (năm) 26,7 ± 5,1
Chiều cao trung bình (cm) 154,5± 7,6
BMI trung bình (kg/cm 2) 22,6 ± 2,7
Chiều dài kênh CTC (mm) 28,1 ± 6,1
Chỉ số Bishop CTC (điểm) 2,7 ± 0,9
Nơi ở Thị xã 22 (20,9)
Các huyện 78 (74,3)
Ngoài tỉnh 5 (4,8)
Nghề Công nhân viên 39 (46,6)
Nội trợ 37 (35,2)
Làm ruộng 15 (4,3)
Buôn bán 7 (6,7)
Khác 7 (6,7)
Tiền thai Con so 54 (51,4)
Con rạ 51 (48,6)
Chỉ định
KPCD
Thai quá ngày 54 (51,4)
Thiểu ối 40 (38,1)
Khác 11 (10,5)
CTC= Cổ tử cung
KPCD=Khởi phát chuyển dạ
Tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thành công sau 24
giờ là 85,7%; KTC 95% [78,5 ‐ 92,9].
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 160
Bảng 2. Tương quan thời gian từ khi đât thông Foley
đến lúc CTC đạt Bishop ≥ 7 điểm trong 24 giờ
Thời gian đạt Bishop ≥ 7
điểm
Tần số (%) Cộng dồn
Tới 6 giớ 21 (20) 21 (20%)
>6 – 12 giờ 50 (47,6) 71 (67,6)
>12-24 giờ 19 (18,1) 90 (85,7)
Không đạt 7 điểm 15 (14,3) 105 (100)
Thời gian trung bình đạt
Bishop ≥ 7 điểm
10,58 ± 6,34 (giờ)
Nhận xét: Thời gian trung bình từ lúc đặt
Foley đến khi phát hiện chỉ số Bishop đạt ≥7
điểm là 10g58 ± 6g34. Trung vị 10 giờ (6g37 ‐
12 giờ). Trường hợp sớm nhất 1g20, muộn
nhất 24 giờ.
Bảng 3. Cách sinh
Cách sinh N = 105 Tỷ lệ%
Sinh thường 66 62,9
Sinh giúp 2 1,9
Sinh mổ 37 35,2
Bảng 4. Tác dụng ngoại ý khi đặt ống thông
Loại hình N = 105 (%)
Nhau bong non 0 (0)
Sa dây rốn 0 (0)
Ra huyết khi đặt thông 5/105 (4,7)
Nhiễm khuẩn 1/105 (0,9)
Thay đổi ngôi thai 1/105 (0,9)
Vỡ ối 9/105(8,5)
Đau 38/105 (36,2)
Tổng 54/105 (51,4)
BÀN LUẬN
Các thể tích bóng bơm để KPCD của các
nghiên cứu qua y văn có thể là 30 ‐ 50 ‐ 60 ‐
80ml(8,9,11,13). Với thể tích nào thì hiệu quả tối ưu
nhất chưa có tài liệu nào khẳng định. Trong
thời gian trước đây, phương pháp Kovac’s
dùng túi nước với bao cao su và ống thông
Nelaton đặt qua lỗ CTC tương tự cho các
trường hợp KPCD ở thai kỳ trong 3 tháng giữa
thai kỳ với thể tích nước bơm thay đổi từ 150 –
300 ml cũng được thực hiện tại Việt Nam. Tuy
nhiên theo các nghiên cứu về KPCD ở thai 3
tháng cuối thai kỳ ghi nhận: khi thể tích bóng
bơm càng lớn, tác dụng lóc màng ối vùng CTC
sẽ càng cao, nhưng khả năng sa dây rốn, thay
đổi ngôi thai sẽ càng dễ xuất hiện. Chúng tôi
đã thử bơm bóng vào ống Foley các kích cỡ và
nhận thấy rằng với ống số 18, khi bơm 50ml
bóng sẽ có dạng hình cầu với đường kích
khoảng hơn 4cm phù hợp với đường kính lỗ
CTC khi vào chuyển dạ hoạt động và ít có
nguy cơ vỡ bóng. Nếu thay đổi kích cỡ ống, có
thể áp lực trong bong sẽ căng hơn dễ vỡ, hoặc
bóng sau khi bơm sẽ có dạng hình bầu dục,
đường kích ngang của bóng sẽ nhỏ hơn trong
khi thể tích không đổi thì các nguy cơ sa dây
rốn hay thay đổi ngôi thai cũng không khác.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã quyết
định chọn ống Foley số 18 và bơm bóng với
thể tích 50ml.
Trong nhiều thập kỷ qua, chỉ số Bishop(0) vẫn
là công cụ dùng nhiều trong việc đánh giá sự
thuận lợi của CTC để từ đó tiên lượng khả năng
thành công khi KPCD. Tuy nhiên chỉ số Bishop
phụ thuộc đánh giá chủ quan của mỗi cá nhân
nên kết quả sẽ có sai sót. Do đó gần đây việc
dùng siêu âm đánh giá CTC vẫn là công cụ được
chấp nhận rộng rãi vì giúp giảm tính chủ quan,
giá thành thấp và ít xâm lấn(7,8,9,11,13).
Theo tiêu chuẩn KPCD thành công của
chúng tôi là có sự thay đổi về chỉ số Bishop sao
cho chỉ số Bishop ≥ 7 điểm thì tỷ lệ KPCD thành
công trong nghiên cứu của chúng tôi là 85,7%
(90/105 trường hợp).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thành
công giảm dần khi chiều dài kênh CTC trước
KPCD tăng lên. Nhóm thai phụ có chiều dài
kênh CTC ≤25mm tỷ lệ thành công khi KPCD là
100%, trong khi nhóm trên 40mm không có
trường hợp nào thành công. Khi chiều dài kênh
≤35mm, khả năng thành công cao hơn gấp 4,3
lần nếu kênh dài hơn. Kết quả này phù hợp với
kết quả của Lê Nguyễn Thy Thy, Huỳnh
Nguyễn Khánh Trang(13), Crane(7), Gonen(9),
Pandis(14),Trần Thị Lợi và Phan Thị Mai Hoa(10).
Thời gian trung vị từ lúc đặt Foley đến khi CTC
mở ≥3cm xóa ≥50% trong nghiên cứu của chúng
tôi là 9 giờ (5g15 ‐ 12 giờ), gần tương đương với
Caliskan(6), Tabowei(15) nhưng ngắn hơn nghiên
cứu của Dewan(8). Thời gian trung vị từ lúc đặt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 161
Foley đến khi phát hiện chỉ số Bishop ≥7 của
chúng tôi là 10 giờ (6g37 ‐ 12 giờ), dài hơn hẵn
khi so với Lê Nguyễn Thy Thy có lẽ do tác giả
này phối hợp với Oxytocin ngay khi vừa đặt
Foley nên rút ngắn thời gian chuyển dạ hơn(11).
Khi đưa vào phân tích hồi qui đa biến, sau
khi có tác động qua lại giữa các biến, khử
nhiễu, kết quả thu được chỉ còn hai yếu tố có
liên quan đến tỷ lệ thành công: Khi chỉ số
Bishop tăng thêm 1,2 điểm, khả năng KPCD
thành công tăng thêm 3,2 lần (KTC 95% =1,2 ‐
8,3) với p=0,016. Khi chiều dài kênh CTC trước
KPCD dài thêm 0,2mm, khả năng KPCD thành
công giảm còn bằng 0,8 lần trước đó (KTC 95%
= 0,7 ‐ 0,97) p=0,021.
Tỷ lệ các trường hợp cần dùng Oxytocin sau
KPCD với thông Foley đơn thuần của chúng tôi
là 60%, thấp hơn Dewan, nhưng khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên khi so với
Caliscan(6) và Tabowei(15).
Cho dù tiêu chuẩn thành công của khởi phát
chuyển dạ là gì đi nữa, mục đích cuối cùng của
khởi phát chuyển dạ vẫn là sinh ngả âm đạo.
Lược qua kết quả các công trình nghiên cứu sử
dụng ống thông Foley đã báo cáo trong nước, và
các nghiên cứu sử dụng thể tích bơm bóng 50ml
khi dùng Foley để KPCD ở các nước trên thế
giới, thống kê thời gian sinh ngả âm đạo từ thấp
đến cao như bảng trên. Với 105 trường hợp
trong khoảng thời gian hơn 6 tháng, nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng ống thông Foley với thể
tích 50ml bơm qua kênh CTC để KPCD, tỷ lệ
sinh ngả âm đạo có được là 64,8%.
Tính trên số trường hợp tác dụng ngoại ý
cả nhẹ lẫn nặng có tất cả 55 ghi nhận, xảy đến
trên 45 thai phụ. Tuy nhiên số tác dụng ngoại
ý có ảnh hưởng đến chất lượng điều trị bao
gồm 4 trường hợp đau nhiều khi đặt Foley, 1
trường hợp thay đổi ngôi và 1 trường hợp
nhiễm trùng, chỉ chiếm 5,7% các thai phụ tham
gia nghiên cứu.
HẠN CHẾ
Nghiên cứu được thiết kế theo loại hình
nghiên cứu quan sát nên kết quả thu được có
giới hạn trên phương diện bằng chứng y khoa.
Do nghiên cứu của chúng tôi là báo cáo hàng
loạt ca, là loại nghiên cứu được xem là chưa đủ
mạnh khi khảo sát các mối liên quan giữa các
biến số.
Do vậy các kết quả thu được dù có ảnh
hưởng đến thực hành lâm sàng tại cơ sở
nhưng mức độ cũng có giới hạn nhất định.
Đánh giá chỉ số Bishop là một đánh giá mang
tính chủ quan. Chúng tôi đã cố gắng thống
nhất với nhau về cách khám và đánh giá, tuy
nhiên dù sao cũng không phải là một người
khám suốt nên sai sót vẫn không thể tránh
khỏi. Đo độ dài kênh CTC trên siêu âm trước
KPCD do 4 người tham gia, dù có bàn bạc
thống nhất nhưng kết quả thu được về độ dài
kênh cũng không tránh khỏi sai số.
KẾT LUẬN
Qua nghiên tại khoa sản bệnh viện đa khoa
Tây Ninh chúng tôi đạt được những kết quả
như sau:
Tỷ lệ thai phụ có chỉ số Bishop ≤ 4 điểm trở
nên ≥ 7 điểm sau 24 giờ KPCD là 85,7%; KTC
95% [78,5 ‐ 92,9].
Thời gian trung bình từ lúc đặt Foley đến
khi phát hiện chỉ số Bishop đạt ≥7 điểm là 10g58
± 6g34.
Không có tác dụng ngoại ý nghiêm trọng.
Đau khi đặt 51,4%, vỡ ối 8,5%, ra huyết khi đặt
thông 4,7%, thay đổi ngôi thai và nhiễm khuẫn
0,9%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Từ Dũ (2011) Báo cáo tổng kết cuối năm., Phòng kế
hoạch tổng hợp, TP HCM
2. Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh (2012) Báo cáo tổng kết cuối
năm, Phòng kế hoạch tổng hợp.
3. Bishop E. H. (1964), ʺPelvic scoring for elective inductionʺ,
Obstetrics and Gynecology, 24, 266 (level III)
4. Bộ Y tế (2009) Thai quá ngày sinh. Tài liệu hướng dẫn quốc
gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nhà xuất bản
y học Hà Nội, tr. 121.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 162
5. Bộ Y tế (2009) Các phương pháp gây chuyển dạ. Tài liệu
hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản. Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 160‐162.
6. Caliskan E, Dili S, Gelisen O, Dibaz B, Ozturk N, Haberal A
(2004) ʺUnsuscessfuk labour induction in women with
unfavourable cervical scor: Predictors and managementʺ.
Australian and zealand of journal of Obstetric and
Gynaeclogy, 44 (6), pp. 562‐ 567.
7. Crane JM (2006) ʺFactors predicting labor induction success: a
critical analysisʺ. Clin Obstet Gynecol, 49 (3), 573‐84.
8. Dewan F, Ara AM, Begum A (2001) ʺFoley’s catheter versus
prostaglandin for induction of labourʺ. Singapore Journal of
Obstetrics and Gynaecology, 32 (3), 56‐63.
9. Embrey MP, Mollison BC (1967), ʺThe unfavourable cervix
and the induction using a cervical balloonʺ, Journal of
Obstetrics and Gynaecology of the British Commonwealth,
74 ‐78.
10. Gonen R, Degani S, Ron A (1998) ʺPrediction of successful
induction of labor: comparison of transvaginal
ultrasonography and the Bishop scoreʺ. European journal of
ultrasound: official journal of the European Federation of
Societies for Ultrasound in Medicine and Biology, 7 (3), 183‐7.
11. Hồ Thái Phong, Trần Thị Phương Loan, Nguyễn Văn Thắng,
Phạm Thị Thu Hồng, Huỳnh Trinh Thức (2011) ʺSo sánh hiệu
quả của tách màng ối và đặt sonde Foley qua cổ tử cung trong
khởi phát chuyển dạ ở thai quá ngàyʺ. Kỷ yếu Hội nghị Khoa
học bệnh viện An Giang, Tháng 10 ‐ 2011, tr. 79 ‐ 84.
12. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2011) ʺKhởi phát chuyển dạʺ,
Thực hành sản phụ khoa, Bộ môn phụ sản đại học y dược tp
HCM, Nhà xuất bản y học Tp HCM, tr.74‐84.
13. Lê Nguyễn Thy Thy, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2013)
ʺHiệu quả khởi phát chuyển dạ bằng ống thông Foley kết hợp
oxytocin truyền tĩnh mạch ở thai trưởng thành thiểu ốiʺ. Tạp
chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, phụ bản tập 17 (1), tr. 55 ‐
60
14. Pandis GK, Papageorghiou AT, Ramanathan VG, Thompson
MO, Nicolaides KH (2001) ʺPreinduction sonographic
measurement of cervical length in the prediction of successful
induction of laborʺ. Ultrasound in obstetrics & gynecology:
the official journal of the International Society of Ultrasound
in Obstetrics and Gynecology, 18 (6), 623‐8.
15. Tabowei TO, Oboro VO (2003), ʺLow dose intravaginal
misoprostol versus intracervical balloon catheter for
preinduction cervical ripeningʺ, East African medical journal,
80, (2) 91‐94.
16. Trần Thị Lợi, Phan Thị Mai Hoa (2010) ʺVai trò của siêu âm
ngã âm đạo đo chiều dài cổ tử cung so với chỉ số Bishop trong
tiên lượng khởi phát chuyển dạʺ. Tạp chí Y học thành phố Hồ
Chí Minh, tập 14, tr. 222‐225.
Ngày nhận bài: 30/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_khoi_phat_chuyen_da_voi_thong_foley_qua_kenh_co_tu.pdf