Tất cả các trường hợp kích thích phóng noãn
trong nghiên cứu chúng tôi đều được tiêm hCG và
thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung sau
đó 36 tiếng và bệnh nhân được hẹn trở lại vào
ngày hôm sau (sau 24 tiếng) để siêu âm kiểm
tra phóng noãn. Tỷ lệ không có nang trưởng
thành tương đương nhau giữa 2 nhóm sử dụng
AI và CC (lần lượt là 18,7% và 15,6%), tỷ lệ có
nang trưởng thành và phóng noãn trong nhóm
AI (68,8%) cao hơn so với nhóm sử dụng CC
(56,3%) trong khi đó tỷ lệ nang trưởng thành
không phóng noãn (nang cơ năng) chiếm tỷ lệ
đáng kể trong nhóm CC (28,1%) so với nhóm AI
chỉ chiếm 12,5%. Như vậy, mặc dù tỷ lệ phát triển
nang noãn trong CC khá cao (84,4%) nhưng phóng
noãn thật sự chỉ là 56,3%. Tỷ lệ không phóng noãn
khi dùng AI chỉ gặp trong 12,5% trường hợp. So
với các nghiên cứu khác, Abu Hashim và cộng
sự báo cáo tỷ lệ phóng noãn lần lượt là 82,4% và
63,2% khi dùng Letrozole và CC [1], hay kết quả
của Nik H. N. Hussain ở Malaysia ghi nhận tỷ lệ
phóng noãn tương đương với chúng tôi là 78,7%
(với AI) và 53,3% (với CC) [12], nghiên cứu
của Begum thậm chí có tỷ lệ phóng noãn đạt
được cho 2 nhóm chỉ là 62,5% (với letrozole) và
37,5% (với CC) [3]. Mặc dù các kết quả có thể
khác nhau về tỷ lệ phóng noãn, nhưng điều ghi
nhận chung là tỷ lệ gây phóng noãn của AI luôn
cao hơn so với CC.
Khi thiết kế nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng
hoàn thiện phương pháp nghiên cứu thử nghiệm
ngẫu nhiên có đối chứng để có tính thuyết phục
cao, nhưng khó khăn gặp phải là số lượng đối
tượng nghiên cứu thỏa tiêu chuẩn còn ít, khiến
không thể áp dụng công thức tính cỡ mẫu một cách
hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng một phần đến tính
toán ý nghĩa thống kê mặc dù về tỷ lệ phần trăm
đã thể hiện nhiều sự khác biệt và hy vọng trong
tương lai sẽ có những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn
hơn để xác định những ưu nhược điểm của từng
loại thuốc.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả kích thích phóng noãn của chất ức chế men thơm hóa (AI) ở bệnh nhân vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
HIỆU QUẢ KÍCH THÍCH PHÓNG NOÃN
CỦA CHẤT ỨC CHẾ MEN THƠM HÓA (AI) Ở BỆNH NHÂN
VÔ SINH CÓ HỘI CHỨNG BUỒNG TRỨNG ĐA NANG
Lê Minh Tâm
Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Cơ sở nghiên cứu: Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là một trong những nguyên nhân
thường gặp nhất gây vô sinh nữ do rối loạn phóng noãn. Clomiphene citrate (CC) là một lựa chọn đầu
tay giúp cải thiện phóng noãn nhưng có một số tác dụng không mong muốn do điều hòa giảm thụ thể
estrogen. Chất ức chế men thơm hóa (AI) là nhóm thuốc mới hơn làm tăng sản xuất FSH nội sinh giúp
cải thiện phóng noãn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng so sánh ngẫu
nhiên trên 64 trường hợp phụ nữ vô sinh có HCBTĐN đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế, xen
kẽ chỉ định kích thích phóng noãn với nhóm dùng AI và nhóm dùng CC từ ngày 2 chu kỳ. Theo dõi sự
phát triển nang noãn và phóng noãn qua siêu âm. Chỉ tiêu đánh giá là siêu âm nang noãn và nội mạc ngày
10, ngày nang trưởng thành, đánh giá phóng noãn sau khi dùng hCG. Kết quả: Tổng số 64 trường hợp
phân bố vào 2 nhóm dùng AI và CC tương đồng nhau về các đặc điểm và có độ tuổi trung bình 28,8±4,6,
đa số là vô sinh nguyên phát (84,4%), thời gian mong con trung bình 2,6±2,4 năm, 85,9% có chu kỳ
kinh thưa hoặc vô kinh, chỉ số khối cơ thể bình thường chiếm 60,9% và gầy chiếm 21,9%. Kết quả kích
thích phóng noãn với AI và CC khi đánh giá vào ngày 10 không có sự khác biệt về nang trội và độ dày
niêm mạc tử cung. Số ngày chu kỳ tính đến khi nang trưởng thành trong nhóm AI ngắn hơn (15,1±2,9)
so với nhóm CC (16,5±2,8) có ý nghĩa thống kê. Số nang trưởng thành 2 nhóm không có sự khác biệt
với tỷ lệ 81,3% (AI) và 84,4% (CC) nhưng tỷ lệ đơn nang cao hơn trong nhóm AI (71,9%) so với nhóm
CC (65,7%) và không có trường hợp nào có 3-4 nang trưởng thành trong nhóm AI. Tỷ lệ nội mạc mỏng
(<8mm) trong nhóm AI (25%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm CC (53,1%) và tỷ lệ phóng
noãn cao hơn (68,8%) so với nhóm CC (56,3%) nhưng chưa thấy ý nghĩa thống kê. Kết luận: Hai loại
thuốc AI và CC có khả năng gây được nang phát triển đến trưởng thành tương đương nhau, nhưng AI có
khả năng tác động hiệu quả hơn so với CC về các yếu tố như thời gian nang trưởng thành ngắn hơn, tăng
tỷ lệ đơn nang, hạn chế đa thai, cải thiện độ dày niêm mạc tử cung và tỷ lệ phóng noãn cao hơn. Cần có
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để làm rõ ý nghĩa thống kê của một số khác biệt.
Từ khóa: Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN), Clomiphene citrate (CC), Chất ức chế men
thơm hóa (AI).
Abstract
EFFECT OF AROMATASE INIBITOR IN OVULATION INDUCTION IN FETILE
WOMEN WITH POLYCYSTIC OVARY SYNDROME
Le Minh Tam
Hue University of Medicine and Pharmacy
Backgrounds: Polycystic Ovary Syndrome (PCOS) is one of the most common causes of female
infertility due to ovulation disorders. Clomiphene citrate (CC) is the first choice to restore ovulation
but it has some side effects by estrogen receptor down-regulation. Aromatase inhibitor (AI) is a
- Liên hệ tác giả: Lê Minh Tâm, email: leminhtam@huemed-univ.edu.vn
- Ngày nhận bài: 15/5/2014 * Ngày đồng ý đăng: 20/6/2014 * Ngày xuất bản: 10/7/2014
DOI: 10.34071/jmp.2014.3.12
87 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
newer class of drugs which increases the production of endogenous FSH to stimulate ovulation. Subjects
and methods: randomized control trial to compare 64 cases of infertile women with PCOS examined at
the Hue University Hospital, alternately used AI (group I) or CC (group II) for ovulation induction from
day 2 cycle. Follow-up follicle growth, endometrium and ovulation via ultrasound. Evaluation were
done on 10th day cycle, day of hCG trigger and after administration of hCG. Results: Total of 64 PCOS
cases distributed into 2 groups using alternatively AI and CC had similar characteristics with average
age of 28.8 ± 4.6, the majority were primary infertility (84.4%), infertility duration was 2.6 ± 2.4 years,
85.9% had oligomenorrhrea or amenorrhea, normal body mass index accounts for 60.9% and 21.9%
was lean. Evaluation of both groups on day 10 revealed no differences in the dominant follicle and
endometrial thickness. Number of days until the follicle mature appears to be shorter in AI group
(15.1 ± 2.9) compared to the CC group (16.5 ± 2.8) with statistical significance. The number of
mature follicles in 2 groups were not different at a rate of 81.3% (AI) and 84.4% (CC) but a higher
proportion of single mature follicle in the AI group (71.9%) compared with the CC group (65.7%)
and There is no case with 3-4 mature follicles in the AI group. The rate of thin endometrium
(<8 mm) in the AI group (25%) was lower than the CC group (53.1%) with statistically significance
and higher ovulation rate (68.8%) compared with the CC group (56.3%) but have not found
statistically significant. Conclusion: Two drugs AI and CC potentially induce follicle development
and ovulation similarly, but AI has the potential to be more effective than CC on factors such as the
shorter stimulation duration, increasing rate of single follicle, limiting multiple pregnancies, improve
endometrial thickness and higher ovulation rate. More researches are needed with a larger sample size
to clarify the statistical significance of differences.
Key words: Polycystic Ovary Syndrome (PCOS), Clomiphene citrate (CC), Aromatase inhibitor (AI).
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN)
là nguyên nhân thường gặp nhất gây rối loạn kinh
nguyệt (kinh thưa, vô kinh) với tần suất gặp 4-8%
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản [1]. Nhiều trường
hợp có HCBTĐH bị hiếm muộn vô sinh vì lý do
giảm cơ hội phóng noãn tự nhiên. Cơ chế gây
HCBTĐN rất phức tạp và nguyên nhân vẫn chưa
rõ ràng. Một số triệu chứng xuất hiện do rối loạn
nội tiết và chuyển hóa làm ảnh hưởng đến chức
năng buồng trứng. Tiêu chuẩn chẩn đoán cho đến
nay được chấp nhận vẫn là đồng thuận Rotterdam
2003 với hiện diện ít nhất 2 trong 3 tiêu chuẩn
gồm (1) kinh thưa hoặc vô kinh, (2) tăng androgen
trên lâm sàng hoặc cận lâm sàng, và (3) hình ảnh
siêu âm có đa nang buồng trứng với 12 nang thứ
cấp mỗi buồng trứng hoặc thể tích buồng trứng
>10mL [13]. Việc điều trị vô sinh cho những
trường hợp có hội chứng buồng trứng đa nang có
nhiều lựa chọn khác nhau nhằm phục hồi khả năng
phóng noãn. Clomiphene citrate (CC) là một lựa
chọn đầu tay giúp cải thiện phóng noãn được dùng
rộng rãi từ những năm 1960 cho những trường
hợp rối loạn phóng noãn WHO nhóm 2 nhờ tác
dụng gây điều hòa thụ thể estrogen chọn lọc. CC
dùng đường uống, giá thành thấp và khá an toàn
tuy nhiên có một số tác dụng không mong muốn
do điều hòa giảm thụ thể estrogen làm mỏng niêm
mạc tử cung, khô chất nhầy cổ tử cung ảnh hưởng
đến khả năng di chuyển của tinh trùng cũng như sự
làm tổ của phôi sau phóng noãn [4].
Chất ức chế men thơm hóa (Aromatase
inhibitors - AI) là nhóm thuốc mới hơn được dùng
đường uống gây phóng noãn từ năm 2001 [11].
Trước đó, AI được xem là thuốc dự phòng (hóa trị
liệu) ung thư vú. Men thơm hóa kiểm soát sự sản
xuất estrogen bằng cách chuyển từ androstendione
và testosterone thông qua khử gốc hydroxyl thành
estrone và estradiol [9]. Sử dụng AI để gây phóng
noãn dựa trên cơ sở AI gây giảm nồng độ estrogen
thật sự qua đó hồi tác dương trung ương làm tăng
sản xuất FSH nội sinh. Đồng thời dùng AI có thể
88 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
tránh được tác dụng không mong muốn do tính
kháng estrogenic ở mô đích như trong CC [7].
AI cũng tương tự như CC được dùng đường
uống, liệu trình 5 ngày, bắt đầu vào những ngày
đầu chu kỳ, nhưng do thời gian bán hủy ngắn sau
48 tiếng nên gây ít tác dụng phụ trên mô đích so
với CC [8]; AI tác động tại buồng trứng làm tăng
nhạy cảm của nang noãn đối với FSH. Điều này
do sự tích lũy androgen bên trong nang vì không
được thơm hóa thành estrogen. Androgen có tác
dụng kích thích nang noãn phát triển ở giai đoạn
đầu pha nang noãn bằng cách trình diện các thụ thể
với FSH [15]. Bên cạnh đó, sự tích lũy androgen
kích thích sản xuất IGF1 và các yếu tố cận tiết thúc
đẩy phát triển nang noãn [11].
Do AI không làm cạn kiệt các thụ thể estrogen
như CC nên cơ chế hồi tác lên trung ương vẫn còn
và khi có nang noãn vượt trội và nồng độ estrogen
nội sinh tăng lên, cơ chế hồi tác âm vẫn xảy ra.
Điều này dẫn đến sự ức chế FSH và các nang
noãn nhỏ bị thoái triển và chỉ có một nang trội
đi đến trưởng thành và phóng noãn trong hầu hết
trường hợp [4]. Vì vậy, nhờ cơ chế phản hồi trung
ương còn nguyên vẹn, AIs ít nguy cơ gây phóng
nhiều noãn hay quá kích buồng trứng như CC. Hai
nghiên cứu lớn trên 911 và 470 trẻ sinh ra sau kích
trứng với letrozole và CC so với các trường hợp
sinh tự nhiên không thấy làm tăng bất thường bẩm
sinh hay dị tật tim [6][14].
Hơn mười năm qua, đã có nhiều nghiên cứu
trên thế giới thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả lâm
sàng gây phóng noãn của AI với một số kết quả ưu
thế trội hơn so với CC, tuy nhiên vẫn chưa có sự
thống nhất về các kết quả. Để góp phần đánh giá
hiệu quả thật sự của một thuốc kích thích phóng
noãn đường uống, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này đối với quần thể bệnh nhân vô sinh có hội
chứng buồng trứng đa nang.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Nghiên cứu thực hiện trên 64 trường hợp vô
sinh theo tiêu chuẩn Tổ chức Y tế Thế giới, có
HCBTĐN chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rotterdam
2003 [13], đến khám và điều trị tại Trung tâm Nội
tiết sinh sản và vô sinh, Bệnh viện Đại học Y Dược
Huế trong thời gian từ 6/2012 đến 06/2014.
Tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu là những
trường hợp vô sinh có nguyên nhân đơn thuần
do rối loạn phóng noãn, vòi tử cung bình thường
qua phim chụp HSG, không mắc các bệnh lý nặng
có thể ảnh hưởng tính mạng khi mang thai, đã có
theo dõi chu kỳ tự nhiên không thấy nang trưởng
thành, kết quả tinh trùng người chồng bình thường
hoặc yếu nhẹ có chỉ định làm phương pháp thụ
tinh nhân tạo và chấp thuận tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu thực hiện theo phương pháp thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh giữa hai nhóm
sử dụng chất ức chế men thơm hóa AI và nhóm sử
dụng Climiphene citrate để kích thích phóng noãn.
Kinh không đều gồm kinh thưa và vô kinh. Gọi
là kinh thưa khi chu kỳ trên 35 ngày và vô kinh
khi không có kinh trên 6 tháng. Chỉ số khối cơ
thể (BMI) dựa vào tiêu chuẩn đánh giá của WHO
dành cho người Châu Á. Các trường hợp nhận vào
mẫu nghiên cứu được chỉ định ngẫu nhiên xen
kẽ kích thích bằng AI hoặc CC sau khi siêu âm
kiểm tra vào ngày 2 chu kỳ bằng siêu âm phụ khoa
đường âm đạo. Những trường hợp kinh thưa có thể
chỉ định Orgametril® (Lynestrenol, Organon) 5mg
x 1 viên/ngày x 10 ngày để ra kinh. Phác đồ cho
nhóm AI là Femara® 2,5mg (Letrozole, Novartis
Pharmaceuticals) đường uống 2 viên/ngày x 5
ngày từ ngày 2-3 chu kỳ kinh. Phác đồ cho nhóm
CC là Serophene® (Clomiphene citrate, Merck
Serono) 50mg đường uống 2 viên/ngày x 5 ngày
từ ngày 2-3 chu kỳ kinh.
Bệnh nhân được hẹn siêu âm theo dõi từ ngày
10 chu kỳ để đánh giá sự phát triển nang noãn và
niêm mạc tử cung. Nếu chưa có nang noãn trội
(đường kính nang < 12mm) thì có thể hẹn lại sau
3-4 ngày. Nếu nang trội (từ 12mm trở lên) có thể
hẹn sau 2-3 ngày. Nếu thời gian theo dõi trên 20
ngày mà vẫn không có nang noãn trội thì xem
như thất bại và hủy chu kỳ. Khi nang noãn đạt
kích thước 18mm đường kính thì gây phóng noãn
89 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
với Pregnyl® (human chorionic gonadotropin,
Organon) 5000IU tiêm bắp. Thực hiện thụ tinh
nhân tạo với bơm tinh trùng vào buồng tử cung
sau 36 tiếng kể từ khi tiêm Pregnyl. Bệnh nhân
được hẹn sau bơm tinh trùng 24 tiếng để siêu âm
kiểm tra có phóng noãn. Các chỉ tiêu nghiên cứu
dựa vào có nang noãn trưởng thành và số nang, có
phóng noãn qua siêu âm kiểm tra, độ dày và hình
thái niêm mạc tử cung. Gọi là chu kỳ gây phóng
noãn thất bại khi không có nang noãn trội sau ngày
20, không có nang noãn trưởng thành hoặc không
phóng noãn qua siêu âm.
Số liệu được nhập và xử lý theo phương pháp
thống kê y học, sử dụng phần mềm SPSS 19.0.
Tính trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến số
và giá trị p< 0,05 được xem là có ý nghĩa.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm AI Nhóm CC Tổng p
n=32 (%) n=32 (%) n=64 (%)
Tuổi
0,05
≥ 35 6 (18,7) 5 (15,6) 11 (17,2)
Mean±SD 29,0±5,2 28,5±3,9 28,8±4,6
Loại vô sinh
VSI 28 (87,5) 26 (81,3) 54 (84,4) >0,05
VSII 4 (12,5) 6 (18,7) 10 (15,6)
Thời gian mong con
0,05
≥ 3 năm 11 (34,4) 9 (28,1) 20 (31,2)
Mean±SD 2,9±2,8 2,4±1,8 2,6±2,4
Chu kỳ kinh
Đều 6 (18,7) 3 (9,4) 9 (14,1) >0,05
Không đều 26 (81,3) 29 (90,6) 55 (85,9)
BMI
0,05
18,5 - 22,9 20 (62,5) 19 (59,4) 39 (60,9)
23-24,9 3 (9,4) 3 (9,4) 6 (9,4)
≥ 25 3 (9,4) 2 (6,2) 5 (7,8)
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm nghiên cứu giữa hai nhóm dùng AI và CC.
Bảng 2. Kết quả kích thích phóng noãn
Đặc điểm Nhóm AI Nhóm CC Tổng p
n=32 (%) n=32 (%) n=64 (%)
Nang trội ngày 10 (mm)
0 12 (37,5) 13 (40,6) 25 (39,0) >0,05
1 19 (59,4) 14 (43,8) 33 (51,6)
2 1 (3,1) 3 (9,4) 4 (6,3)
3
Mean±SD
0 (0)
0,75±0,6
2 (6,2)
0,9±1,1
2 (3,1)
90 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
Nội mạc ngày 10 (mm)
Mean±SD 5,9±1,9 6,0±1,3 5,9±1,7 >0,05
Số nang trưởng thành
0 6 (18,7) 5 (15,6) 11 (17,2) >0,05
1 23 (71,9) 21 (65,7) 44 (68,8)
2 3 (9,4) 3 (9,4) 6 (9,3)
3 0 (0) 2 (6,2) 2 (3,1)
4
Mean±SD
0 (0)
1,1±0,5
1 (3,1)
1,2±0,7
1 (1,6)
Ngày hCG
Mean±SD 15,1±2,9 16,5±2,8 15,7±2,9 <0,05
Nội mạc ngày hCG
<8mm 8 (25,0) 17 (53,1) 25 (39,0) <0,05
8-12mm 20 (62,5) 15 (46,9) 35 (54,7) >0,05
>12mm
Mean±SD
4 (12,5)
9,2±2,3
0 (0)
7,8±2,2
4 (6,3) >0,05
Phóng noãn
Không có nang trội 6 (18,7) 5 (15,6) 11 (17,2) >0,05
Nang phóng noãn 22 (68,8) 18 (56,3) 40 (62,5) >0,05
Nang không phóng noãn 4 (12,5) 9 (28,1) 13 (20,3) >0,05
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
đặc điểm siêu âm nang noãn và nội mạc vào ngày
10 giữa hai nhóm AI và CC cũng như số trường
hợp có nang phát triển đến trưởng thành. Nhưng
AI gây trưởng thành nang sớm hơn, tạo được
nội mạc tốt hơn CC có ý nghĩa thống kê, và tỷ lệ
phóng noãn cao hơn CC về tỷ lệ % (không có ý
nghĩa thống kê).
4. BÀN LUẬN
HCBTĐN là một trong những nguyên nhân
thường gặp nhất gây vô sinh ở người nữ. Việc điều
trị chủ yếu cải thiện khả năng phóng noãn bằng các
phương pháp khác nhau. Mặc dù CC được xem
là một loại thuốc đầu tay trong kích thích phóng
noãn, đặc biệt là ở những trường hợp vô sinh do
HCBTĐN, khả năng gây phóng noãn từ 60% -
80%, nhưng tỷ lệ có thai chỉ dao động từ 10% -
20%. Điều này là do tác động kháng estrogen của
CC trên mô đích gây cạn kiệt các thụ thể và với
thời gian bán hủy dài tạo nên các tác dụng không
mong muốn như mỏng niêm mạc tử cung và khô
chất nhầy cổ tử cung, đa thai. Vì vậy, mặc dù tỷ lệ
phóng noãn cao nhưng hiệu quả CC trong điều trị
vô sinh chưa thật sự thuyết phục [3].
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện với
nhóm các phụ nữ vô sinh do HCBTĐN được chẩn
đoán dựa vào tiêu chuẩn Rotterdam 2003. Việc
nhận mẫu vào hai nhóm thử nghiệm với CC và
AI theo thứ tự xen kẽ ngẫu nhiên, đảm bảo tính
đồng nhất của mẫu. Bảng 1 ghi nhận độ tuổi trung
bình của những người vô sinh có HCBTĐN còn
khá trẻ 28,8±4,6 tuổi, hầu hết là vô sinh nguyên
phát (chiếm 84,4%) và có thời gian mong con
trung bình dưới 3 năm (68,8%). Hai yếu tố này
đều là tiên lượng thuận lợi cho quá trình điều trị vô
sinh. Triệu chứng kinh thưa và vô kinh chiếm đến
85,9% có lẽ là nguyên nhân khiến người bệnh sớm
tìm đến sự hỗ trợ của thầy thuốc vì triệu chứng
này dễ nhận biết là gây nhiều lo lắng cho người
91 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
phụ nữ. Béo phì là một trong những yếu tố thường
được đề cập ở những người có HCBTĐN trong
các nghiên cứu ngoài nước. Tuy nhiên, đặc điểm
của đối tượng nghiên cứu chúng tôi, chỉ số khối cơ
thể đa phần trong giới hạn bình thường (60,9%)
thậm chí có đến 21,9% thuộc mức gầy (BMI <
18,5). Chỉ có 9,4% thừa cân và 7,8% là có béo phì.
Như vậy, dù cơ chế sinh bệnh có thể có đồng thuận
về sự rối loạn dung nạp glucose và thừa cân béo
phì, những biểu hiện của HCBTĐN ở các quần thể
khác nhau có thể không giống nhau. Các đặc điểm
nêu trên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa hai nhóm sử dụng CC và AI.
Chất ức chế men thơm hóa (AI) với khả năng
ngăn cản quá trình thơm hóa từ androgen thành
estrogen, giúp tăng sản xuất gonadotropin nội sinh
khi giảm phản hồi âm lên trung ương của estrogen
nội sinh. Mặc dù hai loại thuốc này có nhiều điểm
tương đồng như đều là thuốc dùng đường uống,
vào đầu chu kỳ kinh, làm tăng FSH nội sinh,
nhưng khác biệt cơ bản là CC ngăn chặn thụ thể
estrogen ở tuyến yên còn AI làm giảm nồng độ
thật sự estrogen trong tuần hoàn. Vì vậy, sự sản
xuất FSH nội sinh từ tuyến yên có thể tốt hơn
trong nhóm AI so với nhóm CC [11].
Về sinh lý sinh nang noãn, từ ngày 6 - 8 chu kỳ
kinh diễn ra sự chọn lọc và sau đó là vượt trội của
nang lớn nhất khi kích thước từ 12mm. Kết quả
kích thích phóng noãn với AI và với CC khi siêu
âm ngày 10 chu kỳ có đến 39% tính chung cả hai
nhóm chưa có nang vượt trội và cũng không thấy
sự khác biệt có ý nghĩa về số nang vượt trội và độ
dày nội mạc tử cung giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, khi
so sánh vào thời điểm có nang trưởng thành một
số kết quả đáng ghi nhận là mặc dù số trường hợp
không có nang trưởng thành tương đương nhau
giữa 2 nhóm nhưng tỷ lệ đạt đơn nang ưu thế thuộc
về nhóm sử dụng AI (71,9% so với 65,7%). Nhóm
AI chỉ có 9,4% trường hợp có 2 nang trưởng thành
và không có trường hợp nào từ 3 nang trưởng
thành trở lên so với nhóm CC có 6,2% có 3 nang
và 3,1% có 4 nang trưởng thành, tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi sử dụng AI,
nang noãn sẽ trở nên nhạy cảm hơn với FSH do có
sự tích lũy androgen bên trong dịch nang. Nang
noãn trội tăng sản xuất estradiol, sự phản hồi âm
lên trung ương vẫn hoạt động bình thường và gây
giảm nồng độ FSH nội sinh, khiến các nang nhỏ
hơn thoái triển. Cơ chế này tránh tình trạng phát
triển nhiều noãn như trong phác đồ sử dụng CC và
hạn chế đa thai.
Về thời gian đến trưởng thành nang, phác đồ
dùng AI trung bình mất 15,1±2,9 ngày, ngắn hơn
so với phác đồ dùng CC là 16,5±2,8, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê. Khi thời gian kích thích
nang noãn càng kéo dài, cơ hội thành công sẽ giảm
đi và như vậy có thể nói AI ưu thế hơn CC nhờ rút
ngắn thời gian phát triển nang.
Điểm rất quan trọng khác khi đánh giá hiệu
quả kích thích phóng noãn là tình trạng nội mạc
tử cung khi nang trưởng thành vì đây là yếu tố
tiên lượng thành công trong chu kỳ điều trị. Nhược
điểm đáng ngại của CC là tác dụng kháng estrogen
ở mô ngoại biên, đặc biệt là ở niêm mạc tử cung và
cổ tử cung gây mỏng niêm mạc và khô chất nhầy
cổ tử cung. Với thời gian bán hủy dài và gây suy
kiệt thụ thể estrogen, cho dù estrogen nội sinh đã
tăng cao khi nang noãn trưởng thành nhưng việc
cải thiện tình trạng niêm mạc vẫn là một thách
thức. Với AI, khả năng ức chế thơm hóa chỉ diễn
ra thời gian ngắn và không làm ảnh hưởng đến
mô đích ở ngoại biên và vì thế không có những
tác dụng bất lợi như CC [7]. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi nhận thấy tỷ lệ niêm mạc mỏng dưới
8mm trong nhóm CC chiếm đến 53,1% so với
25% trong nhóm AI và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê. Tỷ lệ có niêm mạc bình thường ưu thế
thuộc về nhóm AI trong khi đó không có trường
hợp nào ghi nhận niêm mạc trên 12mm khi dùng
CC. Tác giả Casper và cộng sự cho rằng có sự điều
hòa tăng thụ thể estrogen khi dùng AI giúp cho sự
phát triển niêm mạc nhanh chóng khi tăng nồng
độ estrogen nội sinh [5]. Kết quả của chúng tôi
tương đồng với nhiều nghiên cứu khác ngoài nước
với ưu thế niêm mạc dày hơn ở nhóm AI (8.4mm)
so với nhóm CC (5,2 mm) [2] hay nghiên cứu của
Nik H. N. Hussain với độ dày niêm mạc lần lượt là
9,2±2,3 và 8,4±2,2 khi dùng letrozole và CC [12].
92 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
Như vậy có thể nói sử dụng AI giúp đạt được mục
đích cải thiện độ dày niêm mạc tử cung so với khi
dùng CC.
Tất cả các trường hợp kích thích phóng noãn
trong nghiên cứu chúng tôi đều được tiêm hCG và
thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung sau
đó 36 tiếng và bệnh nhân được hẹn trở lại vào
ngày hôm sau (sau 24 tiếng) để siêu âm kiểm
tra phóng noãn. Tỷ lệ không có nang trưởng
thành tương đương nhau giữa 2 nhóm sử dụng
AI và CC (lần lượt là 18,7% và 15,6%), tỷ lệ có
nang trưởng thành và phóng noãn trong nhóm
AI (68,8%) cao hơn so với nhóm sử dụng CC
(56,3%) trong khi đó tỷ lệ nang trưởng thành
không phóng noãn (nang cơ năng) chiếm tỷ lệ
đáng kể trong nhóm CC (28,1%) so với nhóm AI
chỉ chiếm 12,5%. Như vậy, mặc dù tỷ lệ phát triển
nang noãn trong CC khá cao (84,4%) nhưng phóng
noãn thật sự chỉ là 56,3%. Tỷ lệ không phóng noãn
khi dùng AI chỉ gặp trong 12,5% trường hợp. So
với các nghiên cứu khác, Abu Hashim và cộng
sự báo cáo tỷ lệ phóng noãn lần lượt là 82,4% và
63,2% khi dùng Letrozole và CC [1], hay kết quả
của Nik H. N. Hussain ở Malaysia ghi nhận tỷ lệ
phóng noãn tương đương với chúng tôi là 78,7%
(với AI) và 53,3% (với CC) [12], nghiên cứu
của Begum thậm chí có tỷ lệ phóng noãn đạt
được cho 2 nhóm chỉ là 62,5% (với letrozole) và
37,5% (với CC) [3]. Mặc dù các kết quả có thể
khác nhau về tỷ lệ phóng noãn, nhưng điều ghi
nhận chung là tỷ lệ gây phóng noãn của AI luôn
cao hơn so với CC.
Khi thiết kế nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng
hoàn thiện phương pháp nghiên cứu thử nghiệm
ngẫu nhiên có đối chứng để có tính thuyết phục
cao, nhưng khó khăn gặp phải là số lượng đối
tượng nghiên cứu thỏa tiêu chuẩn còn ít, khiến
không thể áp dụng công thức tính cỡ mẫu một cách
hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng một phần đến tính
toán ý nghĩa thống kê mặc dù về tỷ lệ phần trăm
đã thể hiện nhiều sự khác biệt và hy vọng trong
tương lai sẽ có những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn
hơn để xác định những ưu nhược điểm của từng
loại thuốc.
5. KẾT LUẬN
Thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh giữa chất ức
chế men thơm hóa (AI) và clomiphene citrate
trong kích thích phóng noãn ở những trường hợp
vô sinh có HCBTĐN cho thấy hai loại thuốc này
có khả năng gây được nang phát triển đến trưởng
thành tương đương nhau, nhưng AI có khả năng
tác động hiệu quả hơn so với CC về các yếu tố như
thời gian nang trưởng thành ngắn hơn, tăng tỷ lệ
đơn nang, hạn chế đa thai, cải thiện độ dày niêm
mạc tử cung và tỷ lệ phóng noãn cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abu Hashim, H., Shokeir, T. and Badawy, A.
(2010) Letrozole versus combined metformin
and clomiphene citrate for ovulation induction in
clomiphene-resistant women with polycystic ovary
syndrome: A randomized controlled trial. Fertility
and Sterility, 94, 1405-1409.
2. Atay, V., Cam, C., Muhcu, M., Cam, M. and
Karateke, A. (2006) Comparison of letrozole and
clomiphene citrate in women with polycystic
ovaries undergoing ovarian stimulation. Journal of
International Medical Research, 34, 73-76.
3. Begum, M.R., Ferdous, J., Begum, A. and Quadir,
E. (2009) Comparison of efficacy of aromatase
inhibitor and clomiphene citrate in induction of
ovulation in polycystic ovarian syndrome. Fertility
and Sterility, 92, 853-857.
4. Casper RF, Mitwally MF. Review: aromatase
inhibitors for ovulation induction. Journal of Clinical
Endocrinology and Metabolism 2006;91:760–71.
5. Casper, R.F. and Mitwally, M.F. (2006) Review:
Aroma-tase inhibitors for ovulation induction. The
Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism,
91, 760-771.
6. Forman R, Gill S, Moretti M, Tulandi T, Koren
G, Casper R. (2007) Fetal safety of letrozole and
clomiphene citrate for ovulation induction.. Journal
of obstetrics and gynaecology Canada; 29(8):668.
7. Healey S, Tan SL, Tulandi T, Biljan MM. (2003)
Effects of letrozole on superovulation with
gonadotrophinsin women undergoing intrauterine
insemination. Fertility and Sterility; 80:1325–9.
8. Jirge PR, Patil RS. (2010) Comparison of endocrine
93 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 21
and ultrasound profiles during ovulation induction
with clomiphene citrate and letrozole in ovulatory
volunteer women. Fertility and Sterility;93:174–83.
9. Karaer O, Oruc S, Koyuncu FM. (2004)
Aromatase inhibitors: possible future
applications. Acta Obstetrica et Gynecologica
Scandinavica;83:699–706.
10. Lee VC, Ledger W. (2011) Aromatase inhibitors
for ovulation induction and ovarian stimulation.
Clinical Endocrinology;74:537–46.
11. Mitwally MF, Casper RF. (2001) Use of an
aromatase inhibitor for induction of ovulation in
patients with an inadequate response to clomiphene
citrate. Fertility and Sterility; 75:305–9.
12. Nik Hazlina Nik Hussain, Munawwirah Ismail,
Murizah Mohd. Zain, Pu Chan Yeu, et al. (2013)
Randomized controlled trial of Letrozole versus
Clomiphene citrate for induction of ovulation in
polycystic ovarian syndrome (PCOS): A Malaysian
experience. Open Journal of Obstetrics and
Gynecology, 2013, 3, 11-17 OJOG
13. Rotterdam ESHRE/ASRM-Sponsored PCOS
Consensus Workshop Group (2004) Revised 2003
consensus on di- agnostic criteria and long-term
health risks related to polycystic ovary syndrome.
Fertility and Sterility, 81, 19- 25.
14. Tulandi T, Martin J, Al-Fadhli R, Kabli N, Forman
R, Hitkari J, Librach C, Greenblatt E, Casper RF.
(2006) Congenital malformations among 911
newborns conceived after infertility treatment
with letrozole or clomiphene citrate. Fertility and
Sterility;85(6):1761.
15. Weil SJ, Vendola K, Zhou J, Adesanya OO,
Wang J, Okafor J, et al (1998).Androgen
receptor gene expression in the primate ovary:
cellular localization, regulation and functional
correlations. Journal of Clinical Endocrinology and
Metabolism;83:2479–85.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_kich_thich_phong_noan_cua_chat_uc_che_men_thom_hoa.pdf