Quan điểm của Đảng ta trong phát triển các dịch vụ tài chính, tiền tệ trong thời gian tới là “Mở rộng các dịch vụ tài chính tiền tệ, đi thẳng vào công nghệ hiện đại, đa dạng hoá các công cụ và hình thức tài chính tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh tế tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu tư kinh doanh. Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích tạo thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn, tín dụng cho sản xuất kinh doanh và đời sống chú trọng đến khu vực nông nghiệp nông thôn”.
77 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiệu quả kinh doanh của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng với mức cao nhưng mức tăng của chi phí qua các năm cũng khá cao và cao hơn mức tăng của doanh thu.
Năm 2008 được đánh giá là năm khó khăn nhất đối với Công ty dịch vụ TKBĐ trong gần 10 năm hoạt động vừa qua. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động: những tháng đầu năm lạm phát tăng cao, Chính phủ thực hiện các gói giải pháp kiềm chế lạm phát trong đó có việc tăng lãi suất cơ bản, thu hút tiền từ lưu thông về khiến cho lãi suất thu hút vốn và cho vay trên thị trường tăng lên rất cao, từ tháng 3/2008 đến tháng 7/2008, lãi suất huy động đã tăng lên gấp đôi, từ 9%/năm lên tới 18%/năm.
Những tháng cuối năm tình hình lạm phát vừa cơ bản được kiềm chế thì nền kinh tế nước ta lại lâm vào khủng hoảng cùng với sự khủng hoảng của các nền kinh tế Thế giới. Lãi suất từ tháng 10/2008 bắt đầu đi xuống và mức lãi suất huy động trên thị trường đến cuối quí IV đã giảm khoảng 50-55% so với quí II.
Những diễn biến phức tạp nêu trên của nền kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ đã có ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Huy động giảm sút nghiêm trọng, mức huy động ròng đạt mức thấp nhất từ trước đến nay (âm 1.300 tỷ đồng), mặc dù Công ty đã 15 lần điều chỉnh lãi suất tiền gửi cho phù hợp với diễn biến trên thị trường. Lượng tiền tiếp quĩ cho các BĐT tăng vọt, có ngày tiếp hơn 100 tỷ đồng. Số dư nợ huy động 31/12/2008 giảm 10% so với cùng kỳ năm 2007.
Mặc dù lãi suất thu hút vốn năm 2008 ở mức cao - trung bình là 16,3%/năm, nhưng lãi suất chuyển vốn đối với hơn 3.000 tỷ đồng cho Ngân hàng phát triển (VDB) từ những năm trước vẫn chỉ ở mức 8,56%/năm.
Đây là nguyên nhân dẫn đến việc lỗ 66,6 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm của Công ty, vượt cả số vốn điều lệ 50 tỷ đồng và dự kiến cả năm số lỗ lên đến hơn 100 tỷ đồng.
Như vậy, rõ ràng là tình hình kinh doanh của Công ty dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện trong năm 2008 gặp rất nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của bản thân Công ty, sự hợp tác chặt chẽ của các Bưu điện tỉnh, thành phố tham gia cung cấp dịch vụ và sự hỗ trợ, giúp đỡ của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam.
Tập thể Lãnh đạo Công ty DVTKBĐ, Đảng bộ và Công đoàn Công ty đã nhận thức rõ nhiệm vụ nặng nề đối với kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2008, chủ động đề ra các biện pháp, nhiệm vụ cụ thể, quyết tâm cùng toàn thể cán bộ CNV Công ty khắc phục khó khăn, cố gắng hoàn thành tốt các nhiệm vụ kinh doanh được Tổng công ty giao.
- Về việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch:
Sớm dự tính được số lỗ Công ty sẽ phải gánh chịu trong năm 2008 do biến động của tình hình lãi suất trên thị trường, Công ty đã báo cáo tình hình lên Tổng công ty đồng thời chủ động phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng phát triển tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn cho Công ty. Từ tháng 4/2008 đến tháng 10/2008 Công ty đã thường xuyên gặp gỡ trao đổi, giải trình với Bộ tài chính và Ngân hàng phát triển về đề xuất xin hỗ trợ trong giai đoạn khó khăn. Đến tháng 10 năm 2008 cơ bản các đề xuất của Công ty đã được chấp thuận, theo đó Bộ tài chính đồng ý cho tăng lãi suất Công ty được hưởng từ trung bình 8,56% lên 14,5% trong thời hạn 1 năm đối với toàn bộ số dư tại Ngân hàng phát triển vào thời điểm 1/7/2008. Tổng số tiền lãi mà Ngân hàng phát triển điều chỉnh tăng cho Công ty sẽ là 153,9 tỷ đồng, phân bổ cho hai năm 2008 và 2009.
Với quyết định trên của Bộ tài chính, Công ty đã phần nào giảm bớt được số lỗ năm 2008 đồng thời tạo được thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh các năm tiếp theo.
- Về điều hành mạng lưới:
Công ty luôn phối hợp chặt chẽ với các BĐT, cập nhật thường xuyên số dư huy động tại từng địa phương để rút tiền về tận dụng tối đa số vốn huy động được đồng thời luôn tiếp quỹ kịp thời cho các đơn vị nhằm đảm bảo đủ chi trả thường xuyên trên mạng lưới;
- Về chăm sóc khách hàng:
Tích cực xúc tiến các chương trình giới thiệu dịch vụ, chăm sóc khách hàng. Kết quả đã ký thêm được 60 hợp đồng nhờ trả lương, nâng số tiền nhờ trả lên 57% so với năm 2007.
Kết hợp đồng bộ các giải pháp trên đây cùng với chính sách chi tiêu hợp lý, Công ty đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch được giao, tốc độ tăng trưởng doanh thu vượt 10% so với tốc độ tăng chi phí, mức lỗ được giảm tới 79%, chuyển cho Ngân hàng phát triển 2.060 tỷ đồng. Đây là cố gắng rất lớn của Công ty trong điều kiện kinh doanh khắc nghiệt như năm 2008.
Bảng 9: Kết quả kinh doanh năm 2008:
Đơn vị tính: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Kế hoạch 2008
Thực hiện 2008
% TH/KH
1
Tổng số tiền gửi
18.300.000
19.222.525
105%
2
Tổng số tiền chuyển cho VDB
2.060
3
Doanh thu phát sinh
578.753
700.834
121%
- Dịch vụ TKBĐ
578.753
696.173
120%
- Dịch vụ chuyển tiền
4.661
4
Doanh thu phân chia
-46.179
-32.595
71%
- Dịch vụ TKBĐ
-46.179
-43.626
94%
- Dịch vụ chuyển tiền
11.031
5
Doanh thu thuần
532.574
668.239
125%
- Dịch vụ TKBĐ
532.574
652.547
123%
- Dịch vụ chuyển tiền
15.692
6
Tổng chi phí
621.109
686.852
111%
Dịch vụ TKBĐ
621.106
684.119
110%
- Chi phí kinh doanh BC -VT
621.109
684.119
110%
+C2 khác
31.606
39.085
124%
+Lãi TKBĐ phải trả
589.500
645.034
109%
Dịch vụ chuyển tiền
2.733
7
Chênh lệch thu chi
-88.535
-18.613
21%
2.2.5. Hiệu quả sử dụng vốn của Công ty
1.Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận sau thuế năm 2005 là 12,872 tỷ đồng; năm 2006 chỉ còn 6,141 tỷ bằng 48% năm 2005; năm 2007 là 8,370 tỷ tăng 36% so với năm 2006.
Lợi nhuận trước thuế của VPSC năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005 nguyên nhân chính là do Công ty tất toán khoản chênh lệch lãi phải trả giai đoạn 1999 – 2004 vào năm 2006, bên cạnh đó một nguyên nhân nữa làm cho lợi nhuận trước thuế giảm là do chênh lệch thu chi của năm 2006 đạt thấp là do lãi phải trả tăng cao, doanh thu năm nay vượt 23% nhưng lãi phải trả vượt tới 26%. Doanh thu phân chia cho các bưu điện tỉnh khá lớn chiếm 22,594 tỷ đồng tăng 9% so với năm 2005
Trong năm 2006, tốc độ tăng của tổng chi phí tương đối cao do các nguyên nhân. Ngoài chi phí về lãi phải trả tăng, các khoản chi phí khác cũng tăng như: chi phí về ấn phẩm, chi phí chuyển tiền (do lượng tiền lưu chuyển giữa VPSC với các bưu điện tỉnh thành phố cũng như giữa các đơn vị trực thuộc bưu điện tỉnh, thành phố tăng mạnh), chi phí quản lý doanh nghiệp tăng
Năm 2007, chi phí cũng tăng cao chủ yếu là chi phí trả lãi mặc dù doanh thu của TKBĐ tăng với mức cao nhưng mức tăng của chi phí qua các năm cũng khá cao và cao hơn mức tăng của doanh thu.
Bảng 10: Các chỉ tiêu về tài sản và nguồn vốn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Vốn chủ sở hữu bình quân
215,968
229,789
106,263
Tổng tài sản bình quân
7.882,657
7.790,875
6.588,083
Tổng tài sản sinh lời bình quân
4.033,028
6.169,028
7.284,000
Tổng nguồn vốn phải trả lãi bình quân
4002,000
6.073,500
7.219,000
Nguồn: Công ty DVTKBD
2. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2006
=
8,370
588,725
= 0,0142 = 1,42%
Tỷ suất lợi nhuận
Doanh thu năm 2007
=
21,057
608,135
= 0,0346 = 3,46%
Tỷ suất lợi nhuận
Doanh thu năm 2008
=
- 19,448
663,732
= - 0,0293 = - 2,93%
Ta thấy, doanh thu thuần qua các năm tăng mạnh, năm 2007 bằng 103% năm 2006; năm 2008 bằng 109% năm 2007 và lợi nhuận sau thuế thay đổi nhiều nên tỷ suất lợi nhuận qua các năm cũng bị ảnh hưởng, năm 2006 là 1,42%, năm 2007 tăng lên 3,46%, năm 2008 xuống – 2,93%. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu phản ánh số lợi nhuận sau thuế thu được trên mỗi đồng doanh thu thực hiện trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh tổng quát về khả năng quản lý đối với các chi phí trên cơ sở cố định quy mô của doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu giảm sút mạnh thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của công ty xét theo quy mô có xu hướng giảm.
3. Hiệu suất vốn
Hiệu suất vốn
năm 2006
=
588,725
7.882,657
= 0,0746 = 7,46%
Hiệu suất vốn
năm 2007
=
608,135
7.790,875
= 0,0780 = 7,8%
Hiệu suất vốn
năm 2008
=
663,732
6.588,083
= 0,1007 = 10,07%
Hiệu suất vốn thể hiện hiệu quả sử dụng vốn để tạo ra doanh thu. Mặc dù doanh thu được tạo ra tăng mạnh nhưng lượng vốn sử dụng giảm cũng khá nhiều nên hiệu suất vốn tăng.
4. Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản
ROA năm 2006
=
8,370
7.882,657
= 0,00106 = 0,106%
ROA năm 2007
=
21,057
7.790,875
= 0,00270 = 0,270%
ROA năm 2008
=
- 19,448
6.588,083
= - 0,00295 = - 0,295%
ROA phản ánh việc một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2006 là 0,106%, năm 2007 tăng mạnh lên 0,270% do lợi nhuận tăng nhưng đến năm 2008 thì xuống -0,295% là do lợi nhuận âm tới 19,448 tỷ đồng
Điều này thể hiện sự tăng trưởng quá nóng về quy mô và đem lại bất lợi về tình hình tài chính
5. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
ROE năm 2006
=
8,370
215,968
= 0,0387 = 3,87%
ROE năm 2007
=
21,057
229,789
= 0,0916 = 9,16%
ROE năm 2008
=
- 19,448
106,263
= - 0,1830 = - 18,3%
Năm 2007, vốn chủ sở hữu tăng 106% so với năm 2006, lợi nhuận cũng tăng mạnh nên ROE tăng 236,69% năm 2006, năm 2008 vốn chủ sở hữu giảm đồng thời lợi nhuận âm nên ROE giảm 199,78% so với năm 2007.
6. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
NIM năm 2006
=
593,928 – 571,320
7.882,657
= 0,00286 = 0,286%
NIM năm 2007
=
623,796 – 577,382
7.790,875
= 0,00596 = 0,596%
NIM năm 2008
=
697,003 – 687,597
6.588,083
= 0,00143 = 0,143%
Chênh lệch thu lãi và chi lãi năm 2005 là 69,873 tỷ. Chênh lệch thu lãi và chi lãi năm 2006 là 40,67 tỷ giảm 71% so với năm 2005 nhưng tổng tài sản tăng 30% nên NIM năm 2006 chỉ bằng 44,3% của năm 2005. Chênh lệch thu lãi và chi lãi năm 2007 là 20,57tỷ giảm 50,6% so với năm 2006, tổng tài sản tăng 18%, NIM cũng chỉ bằng 42% năm 2006. Tốc độ tăng thu nhập về lãi qua các năm giảm đi và mức thu nhập về lãi trên một đơn vị tài sản cũng giảm đi. Mức thu nhập về lãi đã tăng không tương xứng với tăng quy mô kinh doanh.
7. Chênh lệch lãi suất bình quân
Chênh lệch lãi suất
bình quân năm 2006
=
593,928
4.033,028
-
571,320
4.002,000
= 0,005
Chênh lệch lãi suất
bình quân năm 2007
=
623,796
6.169,028
-
577,382
6.073,500
= 0,006
Chênh lệch lãi suất
bình quân năm 2008
=
697,003
7.284,000
-
687,597
7.219,000
= 0,0005
Qua phân tích các chỉ tiêu ở trên thấy rằng, lợi nhuận của Công ty - chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của việc sử dụng vốn ngày càng giảm với tốc độ lớn. Theo đó tất cả các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận đều giảm nếu giữ nguyên quy mô sản xuất kinh doanh. Thực tế, quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty tăng với tổng tài sản bình quân tăng, tổng nguồn vốn bình quân tăng, doanh thu tăng nên các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tương đối càng giảm sút nghiêm trọng. Qua phân tích chênh lệch lãi suất bình quân và thu nhập từ lãi cho thấy đây chính là lý do của lợi nhuận giảm.
2.3. Nhận xét qua nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, TKBĐ đã tạo được hình ảnh và uy tín nhất định trên thị trường nên mặc dù các ngân hàng thưong mại có ưu thế hơn về các hình thức huy động vốn nhưng TKBĐ vẫn duy trì được một lượng khách hàng nhất định, lưọng tiền gửi vào vẫn tăng đều khoảng 5%. Qua phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm hoạt nổi bật một số nét tổng quát sau đây:
- Doanh thu đạt được qua các năm đều tăng và hoạt động có lãi nhưng mức lãi đang ngày càng bị giảm, chủ yếu do giảm chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào.
- Dịch vụ có phát triển nhưng mức tăng trưởng giảm cả về số lượng và doanh số giao dịch. Điều này bị ảnh hưởng bởi chính sách đối với lãi suất đầu ra, bởi các quy định pháp lý chưa cho phép Tiết kiệm Bưu điện đa dạng hoá dịch vụ.
- Dịch vụ Tiết kiệm bưu điện đã đạt được những thành quả nhất định tính sau gần 9 năm hoạt động số tiền chuyển giao cho Ngân hàng Phát triển là hơn 50 nghìn tỷ đồng, góp thêm kênh huy động vốn cho Nhà nước. Nhưng thị phần của TKBĐ còn nhỏ, mới chiểm khoảng 5% và tỷ lệ này khó có khả năng tăng cao hơn.
- TKBĐ ngày càng chịu sức ép cạnh tranh trên thị trường cả về chất lượng dịch vụ và số lượng các đối thủ cạnh tranh, trong đó dịch vụ tài khoản cá nhân và dịch vụ thanh toán chịu sức ép nhiều nhất.
2.3.2. Hạn chế, nguyên nhân
Như vậy mặc dù số dư huy động và cho vay của TKBĐ ngày càng tăng với tỷ nhất định, luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch chuyển giao vốn cho Quỹ HTPT, đem lại những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định cho đất nước song xét về hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty thì việc sử dụng vốn là chưa hiệu quả. Mà nguyên nhân chủ yếu là do Công ty chưa có cơ sở pháp lý đồng bộ, rõ ràng cho dịch vụ TKBĐ hoạt động. Cơ chế chính sách cho hoạt động của dịch vụ TKBĐ còn nhiều bất cập (TKBĐ chỉ được phép huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư thực hiện dưới hình thức TKCKH và TKKKH. Số tiền sau khi huy động được chỉ được cho Quỹ hỗ trợ phát triển vay theo kế hoạch và mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình. Như vậy, đầu ra của TKBĐ vừa phụ thuộc vào kế hoạch, vừa bị bó hẹp nên hoạt động không thể thích nghi với thị trường và mang lại hiệu quả). Đó là chưa kể đến cách xác định lãi suất của Bộ Tài chính cho vố vay của TKBĐ chưa hợp lý (Phía Bộ Tài chính chưa đưa ra được công thức nhất quán và các tiêu chí cụ thể để xác định lãi suất vay vốn của TKBĐ. Mặc dù căn cứ trên lãi suất trái phiếu kho bạc nhưng nhiều khi lại thấp hơn ở mức bất hợp lý). Thêm vào đó, về phía Công ty Dịch vụ TKBĐ lại chưa xây dựng được chiến lược huy động vốn linh hoạt và thích hợp trong điều kiện đầu ra bị bó hẹp và phụ thuộc vào cơ chế lãi suất của Bộ Tài chính.
Nguyên nhân cụ thể:
Nguyên nhân thứ nhất: Do chưa có cơ sở pháp lý đồng bộ, rõ ràng cho TKBĐ hoạt động. Hiện nay Luật các Tổ chức tín dụng nói rõ Luật này nhằm quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
Theo Luật này, Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán.
Dịch vụ TKBĐ Việt nam được huy động tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và chỉ được huy động từ các tầng lớp dân cư, không được huy động từ các tổ chức. Theo Điều 13 và khoản 2 Điều 22 của Luật Các TCTD thì Dịch vụ TKBĐ được coi là hoạt động Ngân hàng của các tổ chức khác. Về mặt tổ chức TKBĐ tuân theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Về mặt hoạt động, Luật Các TCTD cũng chỉ mới nêu ra loại hình tổ chức này chứ chưa có quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động của TKBĐ. Văn bản pháp lý cao nhất quy định hoạt động của TKBĐ là Quyết định số 215/1998/QĐ-TTg ngày 4/11/1998 của Thủ tướng chính phủ cho phép hoạt động TKBĐ chỉ tuân theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước.Các văn bản pháp quy dưới Luật riêng cho loại hình TKBĐ cũng chưa có nên hoạt động TKBĐ thực chất chưa có một khung pháp lý chuẩn mực.
Nguyên nhân thứ hai: Cơ chế chính sách cho hoạt động của dịch vụ TKBĐ còn nhiều bất cập.
TKBĐ chỉ được phép huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư thực hiện dưới hình thức TKCKH và TKKKH. Số tiền sau khi huy động được chỉ được cho Quỹ hỗ trợ phát triển vay theo kế hoạch và mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình. Như vậy, đầu ra của TKBĐ vừa phụ thuộc vào kế hoạch, vừa bị bó hẹp nên hoạt động không thể thích nghi với thị trường và mang lại hiệu quả. Về Cơ chế xác định lãi suất, theo tinh thần Quyết định số 215/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì hoàn toàn do Bộ Tài chính quy định trên cơ sở l ãi suất trái phiếu kho bạc cùng loại cùng thời kỳ. Trong khi đó, ngày 30/05/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN quy định từ ngày 01/06/2002, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng. Quyết định này thực sự đã tạo ra một môi trường rất thông thoáng cho các TCTD có thể tự chủ định ra lãi suất cho vay và đi vay sao cho đảm bảo được hoạt động kinh doanh của mình. Điều này lại càng làm tăng ưu thế của các TCTD khác so với TKBĐ và làm giảm khả năng cạnh tranh của dịch vụ TKBĐ trong thị trường thu hút tiền gửi. Thực tế đã chứng minh từ giai đoạn giữa 2002 trở đi, TKBĐ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định lãi suất huy động và hiệu quả sử dụng vốn huy động cũng rất thấp.
Còn các cơ chế khác như về tài chính thì TKBĐ vẫn chưa được áp dụng như một loại hình trung gian tài chính đặc thù mà vẫn chỉ được áp dụng như đối với một doanh nghiệp Bưu chính viễn thông hoạt động phụ thuộc trong Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt nam.
Tóm lại vai trò của Dịch vụ TKBĐ trong hệ thống tài chính tiền tệ chưa được coi trọng và quan tâm đúng mức. Đây là một loại hình trung gian tài chính mới mẻ ở Việt Nam, còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hình thành và phát triển. Hiện nay chúng ta đang chú trọng củng cố và tăng cường hệ thống các NHTM - một kênh truyền dẫn vốn quen thuộc. Dịch vụ TKBĐ với chức năng chủ yếu là huy động vốn trung và dài hạn chưa được phát huy đúng mức.
Nguyên nhân thứ ba: Cách xác định lãi suất của Bộ Tài chính cho vốn cho vay của TKBĐ chưa hợp lý.
Phía Bộ Tài chính chưa đưa ra được công thức nhất quán và các tiêu chí cụ thể để xác định lãi suất vay vốn của TKBĐ. Mặc dù căn cứ trên lãi suất trái phiếu kho bạc nhưng nhiều khi lại thấp hơn ở mức bất hợp lý. Hơn nữa, có những lần TKBĐ đã chuyển vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển nhưng chưa nhận được quyết định lãi suất kịp thời. Ví dụ như ngày 29/05/2000 Bộ Tài Chính mới có quyết định lãi suất cho các khoản vay kỳ hạn 3 năm đã được TKBĐ chuyển cho Quỹ HTPT trong tháng 4 và tháng 5 năm 2000; ngày 22/03/2001 mới có quyết định lãi suất cho các khoản vay kỳ hạn 1 năm và 2 năm đã được TKBĐ chuyển cho Quỹ HTPT từ 01/01/2001. Do vậy đã gây nhiều khó khăn cho việc điều hành lãi suất huy động đầu vào của TKBĐ trong điều kiện lãi suất tiền gửi (VNĐ) thường xuyên biến động.
Nguyên nhân thứ tư: Nguyên nhân từ phía Công ty Dịch vụ TKBĐ
- Công ty chưa xây dựng được chiến lược huy động vốn linh hoạt và thích hợp trong điều kiện đầu ra bị bó hẹp và phụ thuộc vào cơ chế lãi suất của Bộ Tài chính. Công cụ để điều tiết nguồn vốn huy động và cân đối với vốn cho vay chủ yếu là lãi suất huy động. Các hình thức huy động còn nghèo nàn, đặc biệt sự chênh lệch lớn về kỳ hạn huy động và cho vay tạo nên sự bất ổn định và tiềm tàng nhiều rủi ro.
- Xây dựng lãi suất huy động chưa linh hoạt và hiệu quả. Công ty chưa xây dựng được hệ thống thông tin quản lý để cập nhật những thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh; đội ngũ cán bộ còn non trẻ và ít kinh nghiệm, chưa phân tích được xu hướng vận động và tác động của thị trường tới hoạt động của công ty nên chính sách lãi suất còn thiếu sắc bén và tính chiến lược.
- Chi phí quản lý và hoạt động còn cao
Mặc dù có lợi thế là có phạm vi hoạt động rộng khắp trên cả nước đến tận những vùng xa xôi hẻo lánh và tận dụng được các trang thiết bị sẵn có của mạng lưới bưu chính viễn thông, TKBĐ cũng có những khó khăn và chi phí nhất định cho địa bàn hoạt động của mình. Việc chuyển tiền từ hệ thống các bưu cục lên đến Bưu điện huyện và thông qua hệ thống NH Nông nghiệp &PTNT để chuyển về Công ty cũng tạo nên một lượng chi phí. Sự thiếu tác hợp giữa cán bộ quản lý dịch vụ TKBĐ tại cấp Huyện và Tỉnh với hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT làm xuất hiện tình trạng tiền huy động được không chuyển ngay vào ngân hàng mà nằm tại két của Huyện với số lượng lớn không được hưởng lãi làm giảm hiệu quả kinh doanh. Trình độ giao dịch viên tại các Bưu cục còn hạn chế gây một số lãng phí ấn phẩm, đường truyền.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY DỊCH VỤ TIẾT KIỆM BƯU ĐIỆN
3.1. Phương hướng phát triển của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện
3.1.1. Môi trường phát triển
* Chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Quan điểm của Đảng ta trong phát triển các dịch vụ tài chính, tiền tệ trong thời gian tới là “Mở rộng các dịch vụ tài chính tiền tệ, đi thẳng vào công nghệ hiện đại, đa dạng hoá các công cụ và hình thức tài chính tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh tế tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu tư kinh doanh. Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích tạo thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn, tín dụng cho sản xuất kinh doanh và đời sống chú trọng đến khu vực nông nghiệp nông thôn”.
Như vậy, quan điểm chủ trương cũng như kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới đã nhấn mạnh rất cụ thể và rõ ràng sự phát triển các ngành dịch vụ nói chung, Bưu chính viễn thông và các dịch vụ tài chính tiền tệ nói riêng. Là một công ty của ngành Bưu chính Viễn thông thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính bưu điện, các định hướng phát triển của VPSC cũng được xây dựng trên cơ sở là các chủ trương chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
* Chiến lược phát triển kinh doanh của Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông Việt Nam
Từ cuối năm 2007, Bưu chính và viễn thông đã chia tách thành 2 ngành hoạt động độc lập. Theo đó, Công ty Dịch vụ TKBĐ sẽ là một công ty thuộc ngành Bưu chính, một ngành mà rất nhiều người e ngại sau khi chia tách sẽ bị lỗ vì thực tế trong thời gian qua hầu như các dịch vụ của Bưu chính đều được các dịch vụ viễn thông bù đắp san sẻ. Tuy nhiên, với thực tế hoạt động của Công ty Dịch vụ TKBĐ trong thời gian qua đã khẳng định mình là một công ty kinh doanh có hiệu quả và được đánh giá là đơn vị quan trọng của ngành Bưu chính sau khi chia tách. Như vậy, với trách nhiệm của một đơn vị quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh của ngành Bưu chính lại hoạt động trong một lĩnh vực có sự cạnh tranh khá gay gắt nên Công ty Dịch vụ TKBĐ càng phải nỗ lực và không ngừng đổi mới. Các giải pháp phát triển của công ty cũng cần được chú trọng và dựa trên tình hình đổi mới này của ngành Bưu chính Viễn thông.
3.1.2. Định hướng phát triển của TKBĐ
Dịch vụ TKBĐ là một bộ phận trong hệ thống các Tổ chức tài chính phi ngân hàng của quốc gia, do đó phải được hoàn thiện và phát triển theo các định hướng cơ bản về đổi mới hệ thống trung gian tài chính ở Việt Nam. Các trung gian tài chính đóng vai trò cầu nối giữa bên tiết kiệm và bên đầu tư, là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. TKBĐ ngoài trọng trách là đơn vị trọng điểm huy động nguồn vốn trung hạn cho hỗ trợ phát triển kinh tế trong nước theo tinh thần của Luật khuyến khích đầu tư còn cần là đơn vị mũi nhọn phát triển tài chính Bưu chính, là khâu trọng yếu của ngành Bưu chính sau khi tách khỏi viễn thông đồng thời là một doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về kinh doanh, cân bằng thu chi và có lãi để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Trong thời gian tới, Mục tiêu lớn nhất của Công ty Dịch vụ TKBĐ là chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần vì vậy mà Công ty cần không ngừng nâng cao uy tín của dịch vụ TKBĐ, giữ vững lượng khách hàng truyền thống và phát triển khách hàng tiềm năng. Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và đối thủ cạnh tranh, phát triển mạng lưới dịch vụ cả về chiều rộng và chiều sâu. Đồng thời phải đa dạng hoá các loại sản phẩm trong huy động vốn đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng và tạo thế cân bằng với sử dụng vốn. Thúc đẩy việc mở rộng sản phẩm đầu ra. Ngoài ra, Công ty Dịch vụ TKBĐ cũng cần tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động tại Công ty cũng như trên toàn mạng lưới dịch vụ TKBĐ nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, tác phong phục vụ khách hàng để tạo nên nguồn nhân lực có chất lượng; Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển, đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất trong lĩnh vực tài chính tiền tệ; Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động làm trọng tâm trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực sự cân bằng thu chi và có lãi, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện
3.2.1. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ TKBĐ
Huy động và sử dụng vốn là hai hoạt động gắn bó chặt chẽ với nhau. Riêng với TKBĐ thì đẩy mạnh huy động vốn như thế nào thực sự là chiến lược vì phần lớn vốn được sử dụng có tính kế hoạch nên huy động vốn phải đáp ứng nhu cầu của sử dụng vốn cả về số lượng và cơ cấu. Giảm thiểu được chi phí huy động vốn, chủ động được số lượng và cơ cấu vốn huy động cũng chính là góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Công ty Dịch vụ TKBĐ cần đi sâu khai thác tâm lý hành vi người gửi tiền trong quá trình cạnh tranh để có được nguồn vốn ổn định và giá thành thấp.
Theo đó phải đa dạng hoá hình thức huy động hiện nay đi vào phát triển các sản phẩm: Gửi một nơi rút nhiều nơi, gửi một lần rút nhiều lần, gửi nhiều lần rút một lần, gửi nhiều lần rút nhiều lần, đưa các sản phẩm thanh toán với nhiều tiện ích vào hoạt động.
Đối với sản phẩm tiết kiệm gửi góp có thể có các hình thức mới như: TKGG mua nhà, TKGG cho mục đích đào tạo
Đối với sản phẩm tài khoản tiết kiệm cá nhân gửi rút nhiều nơi Công ty đã phát triển thêm các dịch vụ bổ trợ như: chuyển tiền, nhờ thu qua tài khoản, nhờ trả qua tài khoản. Trong tương lai không xa có thể phát hành các thẻ thông minh để rút tiền, thanh toán.
Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện (TKBĐ) là hình thức huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, được thực hiện trên mạng lưới Bưu chính viễn thông công cộng để chuyển giao cho Ngân hàng phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội, nhằm bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nguồn vốn vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo chủ trương của Chính phủ. Bưu điện tỉnh đã triển khai dịch vụ TKBĐ trên mạng lưới tại Cao Bằng từ ngày 1/9/1999. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 2 bưu cục tại Bưu điện trung tâm và 12 bưu điện huyện cung cấp dịch vụ. Bưu điện tỉnh không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng phục vụ đa dạng hóa loại hình dịch vụ theo định hướng của Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện (VPSC).
Với phương châm: "Nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, không gây phiền hà cho khách hàng", trong giao tiếp, các giao dịch viên luôn thể hiện phong cách phục vụ "Văn minh bưu điện", với hình thức giao dịch một cửa và phục cả ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, tết... thuận tiện cho khách hàng giao dịch. Những năm qua, TKBĐ tỉnh đã thu hút ngày càng nhiều khách hàng với mọi tầng lớp nhân dân đến với loại hình dịch vụ này. Năm 2000, số tiền TKBĐ huy động được 22 tỷ đồng, đến năm 2007 tăng lên đến 300 tỷ đồng, gấp 13,6 lần so với năm 2000. Năm 2008, huy động được 928,6 tỷ đồng, vượt 184,9% kế hoạch được giao. Nhiều năm qua, Bưu điện tỉnh liên tục là một trong 10 đơn vị có số dư TKBĐ huy động lớn nhất trên toàn mạng. Có được sự tăng trưởng, phát triển của dịch vụ là do Bưu điện tỉnh không chỉ quan tâm đến chất lượng dịch vụ, thái độ phục vụ mà còn đặc biệt chú trọng đến nghiệp vụ chuyên môn và đảm bảo an toàn kho quỹ, phòng, chống rửa tiền, tiền giả... Qua các đợt thanh tra, kiểm tra của Công ty Dịch vụ TKBĐ và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, đơn vị luôn được đánh giá tốt trong việc thực hiện quy trình nghiệp vụ; luôn thực hiện đúng pháp luật trong hoạt động huy động vốn.
Hiện nay, ngoài các loại hình tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm có kỳ hạn lĩnh lãi định kỳ, tiết kiệm có kỳ hạn rút từng phần, tài khoản tiết kiệm cá nhân, Bưu điện còn cung cấp các dịch vụ: chuyển tiền, nhờ thu, nhờ trả..., phát hành thẻ TKBĐ - thẻ thông minh với chíp điện tử vi mạch, được Chính phủ đảm bảo vì đây là kênh thu hút vốn của Chính phủ nhằm tham gia chủ yếu vào an sinh xã hội. Thời gian tới, Bưu điện tỉnh tiếp tục mở rộng mạng lưới cung cấp ích vụ, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao phong cách phục vụ, nâng cao chất lượng các dịch vụ nói chung và dịch vụ TKBĐ nói riêng nhâm phục vụ ngày càng tốt hơn, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
3.2.2. Đưa ra mức lãi suất huy động hợp lý
Việc đưa ra được lãi suất huy động hợp lý là mục tiêu có tính chất chiến lược của TKBĐ vì nó không chỉ là nhân tố quyết định chi phí đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ mà còn là công cụ có tính chất điều tiết đối với lượng vốn huy động trong từng thời kỳ. Xây dựng lãi suất huy động hợp lý còn bao hàm cả việc giảm thiểu khả năng rủi ro lãi suất. Trong 3 nhân tố đã phân tích ở các chương trên dẫn đến rủi ro lãi suất, có một nhân tố mà TKBĐ cần chủ động loại bỏ: Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến của TKBĐ.
Muốn bám sát được lãi suất thị trường để xây dựng được cơ chế lãi suất huy động linh hoạt, TKBĐ cần xây dựng một hệ thống thông tin quản lý. Đồng thời TKBĐ phải theo dõi sát sao các biến động trên thị trường liên ngân hàng.
3.2.3. Tăng cường hiệu quả đầu tư
Đối với phần vốn dư thừa huy động được, TKBĐ có thể gửi tại các tổ chức tín dụng khác hoặc đầu tư vào tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc và trái phiếu công trình dưới hình thức trực tiếp tham gia đấu thầu hoặc mua trực tiếp từ kho bạc nhà nước khi Kho bạc nhà nước thực hiện phát hành trái phiếu theo hình thức bán lẻ. TKBĐ cần có bộ phận chuyên trách nghiên cứu các loại hình đầu tư và hiệu quả của từng loại hình để đưa ra những phương án đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất trong từng giai đoạn.
3.2.4. Giảm thiểu chi phí quản lý và hoạt động kinh doanh
Để làm được điều này, Công ty Dịch vụ TKBĐ cần đào tạo đội ngũ thực hiện dịch vụ trên mạng lưới. Mở rộng mạng lưới tin học, đưa các ứng dụng phần mềm vào quản lý hệ thống.
Cùng với việc mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ, hệ thống tin học cũng cần được đầu tư kịp thời. Tại các bưu cục ở những thành phố, trung tâm thị xã, thị trấn cần được đầu tư nối mạng vi tính để giảm thiểu thời gian và quản lý dữ liệu một cách tốt nhất, sau đó tập trung đầu tư tin học hoá ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
5 cách giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí công nghệ
- Công nghệ thông tin luôn được cho là cỗ máy “ngốn sạch sẽ” mọi khoản đầu tư dù to lớn tới cỡ nào. Phần nổi nhìn thấy được là những khoản đầu tư cho phần cứng, phần chìm còn có chí phí lớn hơn nhiều với các khoản chi phí bản quyền, đào tạo và xây dựng phần mềm. Do đó, để tiết giảm chi phí các đơn vị cần phải thay đổi thói quen sử dụng, dần thích nghi với các sản phẩm miễn phí và nguồn mở.
Tuy chưa có tất cả mọi tính năng của bộ sản phẩm Microsoft Office nhưng OpenOffice sẽ trở thành lựa chọn phù hợp khi doanh nghiệp muốn cắt giảm chi phí công nghệ. Ở một ví dụ khác, trong khi phải bỏ ra tới $450 cho bộ Acrobat Professional của Adobe mà chỉ để tạo ra các tài liệu PDF thì sử dụng CutePDF miễn phí mới là giải pháp thông minh.
- Theo một nghiên cứu của Gartner thì năm 2009 sẽ có tới 25% nhân viên văn phòng các công ty của Mỹ sẽ chuyển sang hình thức làm việc tại nhà. Giải pháp này sẽ giúp giảm các chi phí về xăng, môi trường và các chi phí văn phòng khác.
Tuy nhiên để thực hiện cũng cần phải xét đến việc thuê dịch vụ hoặc xây dựng các sản phẩm phần mềm ứng dụng cho làm việc nhóm từ xa như BPWiki, Google Docs, LogMeIn, Central Desktop...
- Hội họp luôn làm tốn thời gian, chi phí cho việc di chuyển, ăn nghỉ của các thành viên. Việc xây dựng phương án họp trực tuyến, hội nghị truyền hình đang được nhiều nơi ứng dụng. Hiện tại, một số cuộc họp giao ban của chính phủ và các bộ ngành cũng đã được triển khai theo mô hình này với hiệu quả cao.
Để ứng dụng cho họp trực tuyến ở mô hình nhỏ thì về kỹ thuật không đòi hỏi đầu tư nhiều mà chỉ cần bổ sung tai nghe gắn míc, webcam cho mỗi máy tính và sử dụng Skype, GotoMeeting, NetMeeting hay WebEx của Cisco.
- Tâm lý “đập hộp” các sản phẩm phần cứng cũng cần phải thay đổi. Thông thường hàng lỗi mốt, tồn kho hay chỉ bị chút xước sát nhỏ, còn ít thời gian bảo hành... đều có giá rẻ hơn hàng mới từ 30% đến 40% giá trị sản phẩm. Loại hàng này được gọi dưới cái tên refurbished, hàng tân trang lại.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu về hàng tân trang đều được các hãng chỉ ra rõ ràng và nghiêm ngặt, không giống như khái niệm tân trang của dân IT trong nước. Thông tin về hàng refurbished nên tham khảo tại các trang mua bán trực tuyến có uy tín như Amazon, eBay..
- Một khoản chi phí “thường xuyên” khác, tuy nhỏ nhưng với mật độ lớn nên cũng cần phải xét đến đó là chi phí cho in ấn. Khoản chi phí này không chỉ đơn thuần là chi phí mua giấy in mà nó bao gồm từ việc đổ mực, bảo dưỡng, khấu hao thiết bị với vòng đời khá ngắn.
Dẫu vậy, quá tiết kiệm không phải là giải pháp hay khi sử dụng giấy, mực chất lượng tồi, không có chế độ bảo dưỡng định kỳ sẽ khiến tuổi thọ máy giảm nhanh và chi phí sửa chữa, thay mới có thể lớn hơn khoản tiền tiết kiệm được. Giải pháp ở đây là nên tái sử dụng những bản in 1 mặt không còn giá trị, tận dụng mặt còn lại của bản in, photo tài liệu 2 mặt và in ở chế độ tiết kiệm mực.
3.2.5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ của Công ty
Dịch vụ TKBĐ ở Việt Nam là một dịch vụ hoàn toàn mới mẻ. Các cán bộ của công ty Dịch vụ TKBĐ một phần được chuyển từ Ngành Bưu điện, phần lớn được chuyển từ các Ngân hàng thương mại sang và tuyển dụng những người đã tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Ngân hàng. Do đó cần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để nâng cao năng lực chuyên môn và quản lý, tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ tiếp cận với những công nghệ mới nhất cũng như có khả năng tổng hợp, phân tích, tư vấn cho lãnh đạo đưa ra những quyết định kinh doanh hiệu quả.
"Hợp tác quốc tế - chiến lược và hành động” Có thể nói, hoạt động hợp tác quốc tế của Tiết kiệm Bưu điện (TKBĐ) Việt Nam có tuổi đời nhiều hơn cả tuổi đời của Công ty dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện (VPSC). Ngay từ khi dịch vụ còn chưa ra đời, những thành viên đầu tiên của TKBĐ đã triển khai hoạt động hợp tác và đã nhận được sự trợ giúp rất nhiệt tình của TKBĐ Nhật Bản. Đây là một trong những bước khởi đầu quan trọng của công việc hợp tác quốc tế của TKBĐ Việt Nam. Với việc tham khảo mô hình TKBĐ của Nhật bản – một nước có TKBĐ phát triển bậc nhất trên thế giới, Việt nam đã lần đầu tiên đưa ra dân cư 1 hình thức huy động vốn rất mới mẻ và gần gũi với dân chúng - thu hút tiền nhàn rỗi từ dân cư thông qua hệ thống các bưu cục rộng lớn của ngành Bưu điện. Ngay từ khi thành lập, Lãnh đạo Công ty VPSC đã có chiến lược chú trọng phát triển công tác hợp tác quốc tế, coi đây là 1 định hướng quan trọng để tìm kiếm các hướng phát triển công ty trong tương lai vươn kịp tầm phát triển của thế giới và khu vực. Chiến lược đó là:
- Đẩy mạnh việc hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức TKBĐ các nước trên thế giới như: TKBĐ Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc
- Tìm kiếm các cơ hội đào tạo cán bộ nhân viên thông qua các khóa học hoặc tham quan tại các nước có TKBĐ phát triển để nâng cao năng lực và trình độ cán bộ.
- Tham gia tích cực và phấn đấu trở thành thành viên hiệp hội các ngân hàng TKBĐ thế giới WSBI để học hỏi và tìm kiếm các đối tác phát triển dịch vụ
- Làm việc với các tổ chức tài chính quốc tế khác như WB, UN, Eurogiro để tìm ra các hướng phát triển mới cũng như tìm kiếm nguồn vốn ODA, các hoạt động tài trợ kỹ thuật, quản lý hoặc các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp tác với TKBĐ các nước và các tổ chức khác, các chương trình làm việc ngắn ngày và dài ngày với chuyên gia của Liên minh bưu chính thế giới (UPU), JICA, TKBĐ Nhật Bản, theo các chủ đề:
- Tư vấn về hệ thống các văn bản pháp quy khai thác dịch vụ TKBĐ và giúp soạn thảo các thể lệ, quy trình cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ.
- Đánh giá sự hợp tác hỗ trợ và bàn bạc các hình thức hỗ trợ tiếp theo của TKBĐ Nhật Bản đối với TKBĐ Việt Nam; tư vấn về các vấn đề thủ tục xin hỗ trợ tài chính cho hệ thống mạng online TKBĐ, nguồn vay ODA và các nguồn vay tài trợ, cho vay trực tiếp cho dự án xây dựng mạng online TKBĐ.
- Giới thiệu và hướng dẫn phát triển các dịch vụ e-commerce ở Việt nam: Telephone Banking, Internet Banking, IC Card, POS
- Giới thiệu và tư vấn về hệ thống kỹ thuật, loại hình và quy trình khai thác dịch vụ nhờ thu nhận trả.
- Tư vấn về định hướng phát triển các dịch vụ tài chính bưu chính tại Việt Nam.
Trong thời gian tới Công ty dự định:
- Liên kết chặt chẽ hơn nữa hợp tác với các tổ chức quốc tế, thắt chặt mối quan hệ sẵn có và tăng cường trao đổi kinh nghiệm
- Tham gia các chương trình đào tạo tại các nước có TKBĐ phát triển để học hỏi và trau dồi kinh nghiệm thông qua các chương trình đào tạo tại chỗ hoặc tham quan, đào tạo của WSBI và TKBĐ các nước phát triển.
- Mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng trong và ngoài nước để phát triển dịch vụ chuyển tiền quốc tế, đặc biệt chú trọng tới kiều hối.
- Tham gia đầy đủ các hoạt động của WSBI, trở thành 1 thành viên tích cực của Hiệp hội để có thể học hỏi và nhận được nhiều hơn nữa sự trợ giúp của Hiệp hội.
- Triển khai thành công các dự án hợp tác với Prevoir, WB
Việc phát triển hoạt động hợp tác quốc tế sẽ là một cơ hội lớn cho cán bộ nhân viên Công ty – một đội ngũ nhân viên trẻ, có trình độ có dịp cọ xát, trao đổi học tập với đối tác, nâng cao thêm sự hiểu biết và trình độ của nhân viên cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển của TKBĐ nhanh chóng và tiến kịp với thế giới.
3.2.6. Kế hoạch phát triển dịch vụ
Nghiên cứu, triển khai thử nghiệm dịch vụ mới như nhờ thu nhờ trả kèm theo chứng từ, tích hợp với các công nghệ thông tin hiện đại như SMS, internet; dịch vụ Ví điện tử; dịch vụ phát hành thẻ thanh toán ghi nợ với các đơn vị sử dụng dịch vụ nhờ thu nhờ trả; dịch vụ đại lý nhận lệnh giao dịch chứng khoán và các dịch vụ khác.
Phối hợp với các Ban chức năng của Tổng công ty rà soát các văn bản pháp qui qui định hoạt động TKBĐ để trình Tổng công ty sớm ban hành bổ sung những văn bản cần thiết, tạo điều kiện cho hoạt động TKBĐ được thuận lợi hơn;
Phối hợp với các Ban chức năng của Tổng công ty về việc đổi mới cơ chế quản lí DVTKBĐ để phát huy hiệu quả khai thác trên mạng lưới bưu chính;
Phối hợp với Ban Tài chính - Kế toán xây dựng phương án bàn giao tài sản, thiết bị TKBĐ tại bưu cục cho BĐT quản lí;
Làm việc với Viện Kinh tế Bưu điện về việc xây dựng phương án phân chia doanh thu DVTKBĐ phù hợp với cơ chế mới quản lí DVTKBĐ;
Tăng cường công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng để đẩy mạnh dịch vụ nhờ thu, nhờ trả, chú trọng công tác quảng bá thương hiệu DVTKBĐ
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Cán bộ CNV của Công ty trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu khi Công ty chuyển đổi thành Ngân hàng Bưu điện.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động TKBĐ trên toàn mạng, chú trọng công tác an toàn kho quỹ và quản lý chứng từ, quản lý và khai thác dữ liệu TKBĐ.
Phối hợp thực hiện việc xác định giá trị doanh nghiệp Công ty để phục vụ việc thành lập Ngân hàng TMCP trên cơ sở chuyển đổi Công ty dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện;
3.2.7. Phương hướng phát triển kinh doanh
* Công tác nhờ thu nhận trả
Tập trung công tác tiếp thị tận địa chỉ và phối hợp với phòng kinh doanh - Bưu chính Bưu điện tỉnh, thành phố để phát triển mạnh trên địa bàn
Phối hợp với cộng tác viên qua hình thức trả hợp đồng hoa hồng môi giới tìm khách hàng. Trong năm 2009 đăng ký phát triển 3.000 tài khoản nhờ thu nhận trả.
* Công tác phát triển thẻ
Tập trung tiếp thị tận các trường phổ thông Trung học dân lập nội trú, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Đẩy mạnh công tác trả lương sẽ kích thích tăng số lượng thẻ phát hành.
* Công tác chuyển tiền
Tập trung giới thiệu với đối tượng khách hàng là CB-CNV tham gia trả lương qua tài khoản Tiết kiệm Bưu điện sử dụng chuyển tiền, chuyển khoản đặt biệt sử dụng dịch vụ chuyển khoản qua điện thoại. Đẩy mạnh bằng biện pháp tiếp thị, hướng dẫn trực tiếp.
* Công tác chăm sóc khách hàng
Tặng quà cho khách hàng đã sử dụng dịch vụ với hình thức tặng nhân ngày khai trương dịch vụ Tiết kiệm Bưu Điện. Thường xuyên theo dõi tình hình thực hiện công tác nhờ thu nhận trả để giải quyết kịp thời những phát sinh xảy ra trong quá trình thực hiện.
* Công tác điều hành và phát triển mạng lưới
Công ty chú trọng quan tâm an toàn mạng lưới. Ngoài việc nhập số liệu đối soát hàng ngày Công ty còn tổ chức đi kiểm tra, khảo sát về nghiệp vụ, kế toán, công tác maketing chăm sóc khách hàng.
3.3. Đề xuất các điều kiện, tiền đề để thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty
3.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến hoạt động của Dịch vụ TKBĐ ở Việt Nam
Hiện nay, việc tổ chức và hoạt động của công ty Dịch vụ TKBĐ vẫn chịu sự điều chỉnh chung của Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Mà luật các tổ chức tín dụng là luật chuyên ngành nhưng thực tế lại ra đời trước luật gốc là Luật doanh nghiệp nên còn khá nhiều bất cập. Hiện tại ngay trong Luật các tổ chức tín dụng cũng thiếu sự chặt chẽ và nhất quán khi đưa ra những khái niệm cơ bản về TCTD, về Ngân hàng, về tổ chức tín dụng phi Ngân hàng, về hoạt động Ngân hàng.
Cụ thể hơn nữa là Luật tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung cũng cần có qui định cụ thể để xác định mô hình của từng loại tài chính trung gian: Ngân hàng, TCTD phi Ngân hàng, các tổ chức khác hoạt động ngân hàng trong đó có Dịch vụ TKBĐ. Hiện nay Dịch vụ TKBĐ được phép huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn nên cũng có thể coi Dịch vụ TKBĐ như là một loại hình hoạt động Ngân hàng đặc biệt. Do đó có thể ban hành một Luật riêng điều chỉnh toàn bộ hoạt động của Dịch vụ TKBĐ (ở Trung Quốc và Hàn Quốc cũng làm theo hướng này).
Bên cạnh đó, khi Công ty Dịch vụ TKBĐ muốn mở thêm dịch vụ mới phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước mà Công ty Dịch vụ TKBĐ hoạt động trong thị trường tài chính tiền tệ với các ngân hàng, trong khi các ngân hàng được phép khai thác tất cả các dịch vụ có thể để cung cấp cho khách hàng thì dịch vụ của TKBĐ còn bị hạn chế nhiều. Cùng hoạt động trong một môi trường, cùng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất, do vậy, khả năng cạnh tranh của TKBĐ với các ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra, TKBĐ có thể cùng với Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước ở những vùng sâu vùng xa nên rất cần được tạo điều kiện trong việc đa dạng hoá dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán.
3.3.2. Xây dựng cơ chế chính sách hợp lý đối với hoạt động TKBĐ
Trước hết cần mở rộng đầu ra cho vốn huy động của Tiết kiệm Bưu điện. Dịch vụ TKBĐ có nhiệm vụ chuyển vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch, trong khi đó hoạt động huy động vốn lại diễn ra thường xuyên, liên tục. Vì vậy, việc dư thừa vốn tạm thời ở Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện là điều có thể xảy ra và thực tế đã xảy ra. Do đó, để mở rộng đầu ra cho vốn huy động được của TKBĐ, cần có thay đổi cơ bản trong Quyết định 215/1998/QĐ-Ttg ngày 04/11/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc Tổ chức huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn tiền gửi TKBĐ.
Tiếp đó cần đổi mới cơ chế lãi suất hiện nay. Lãi suất Quỹ Hỗ trợ phát triển trả cho Tổng Công ty BCVT VN do Bộ trưởng Bộ Tài chính Quyết định trên cơ sở lãi suất trái phiếu Kho bạc Nhà nước cùng loại, cùng thời kỳ. Lãi suất này được cố định trong suốt thời gian vay vốn cho đến khi Quỹ Hỗ trợ trả hết nợ vay. Trong khi đó lãi suất huy động của TKBĐ phải phù hợp với lãi suất thị trường, với mặt bằng lãi suất của từng thời điểm trên thị trường tiền tệ. Do vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện. Trên cơ sở những cơ chế quy định chung về cách xác định lãi suất cho TKBĐ, Bộ Tài Chính tích cực nghiên cứu và có đánh giá đến mặt bằng lãi suất tại từng thời điểm để đưa ra mức lãi suất hợp lý cho vốn huy động của TKBĐ.
3.3.3. Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông VN (VNPT) cần quan tâm hơn nữa đến TKBĐ
Công ty VPSC đi vào hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã mở ra một mảng hoạt động mới đầy triển vọng cho VNPT. Điều này cũng thích hợp với chiến lược phát triển của VNPT để tiến tới thành lập Tập đoàn bưu chính- viễn thông là đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, hoạt động đa ngành, đa nghề. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của TKBĐ nói riêng cũng như của toàn Tổng công ty nói chung, VNPT cần quan tâm hỗ trợ cho TKBĐ trong một số các khâu thiết yếu:
- Tập trung đầu tư hệ thống tin học hiện đại cho mạng lưới dịch vụ TKBĐ, giúp TKBĐ phát triển các dịch vụ mới được thuận tiện.
- Cần nhanh chóng có những quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa các bưu điện tỉnh/thành và Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện trong khâu quản lý, điều hành công việc. Tổng công ty nên có quy định cụ thể về việc chấp hành, triển khai các yêu cầu của TKBĐ khi khai thác nhiệm vụ đối với các bưu điện tỉnh/thành, hoặc có thể cho phép TKBĐ và các bưu điện tỉnh thành ký kết hợp đồng, bưu điện tỉnh làm đại lý cho TKBĐ nhằm xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của các bên, cho phép TKBĐ chủ động trong việc huy động vốn, quản lý mạng lưới, nâng cao chất lượng dịch vụ, thực hiện tốt công tác marketing chăm sóc khách hàng
So với nhiều nước trên thế giới, tiết kiệm bưu điện Việt Nam ra đời muộn vì thế chưa có điều kiện phát triển đa dạng hoá dịch vụ. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp... dịch vụ TKBĐ rất quen thuộc đối với mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt ở Nhật Bản có tới 99,6% dân chúng sử dụng dịch vụ TKBĐ. Tại các nước này, các sản phẩm TKBĐ cung cấp rất đa dạng, bao gồm tiết kiệm thường, gửi góp, góp mua nhà, góp đi học, định kỳ, các loại dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong nước và quốc tế...
Trong khu vực Đông Nam Á, TKBĐ cũng được một số nước như Thái Lan, Philippin ... áp dụng, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ so với các nước trong khu vực thì các dịch vụ TKBĐ Việt Nam đang cung cấp vẫn còn rất hạn chế, hiện chỉ mới khai thác với các loại dịch vụ tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm gửi góp, tài khoản tiết kiệm cá nhân cùng với các dịch vụ thanh toán đơn giản như chuyển tiền từ ngoài vào tài khoản, chuyển tiền trực tiếp giữa hai tài khoản chứ chưa được thực hiện các dịch vụ nhờ thu, nhận trả. Trong khi đó, ở một số nước Đông Nam Á kể trên, các dịch vụ TKBĐ cung cấp đã rất phong phú. Chẳng hạn ở Philippin, bên cạnh các dịch vụ tiết kiệm truyền thống như TK có kỳ hạn, TK gửi góp, dịch vụ thanh toán trả tiền lương, tài khoản chuyển tiền tự động... ngân hàng TKBĐ Philippin còn cung cấp dịch vụ chuyển tiền đặc biệt, phát hành séc, chuyển tiền điện tử...
Tại Việt Nam, TKBĐ đang dần trở nên quen thuộc với đời sống xã hội. Tuy nhiên, với tiềm năng dân số trên 80 triệu dân và số vốn nhàn rỗi có thể huy động trong dân cư ước tính đạt trên 70.000 tỷ đồng, với lợi thế mạng lưới trên 3.000 bưu cục trên toàn quốc của VNPT, những gì TKBĐ Việt Nam đã và đang làm mới chỉ là những bước khởi đầu.
Lãnh đạo VNPT và VPSC cần có kế hoạch phát triển TKBĐ sao cho tương xứng với tiềm năng của mạng lưới hiện có cũng như nhu cầu của thị trường. Yêu cầu bức thiết trước mắt là đa dạng hoá các loại hình dịch vụ TKBĐ. Trong tương lai, TKBĐ Việt Nam sẽ phát triển các dịch vụ TKBĐ khác như gửi góp có mục đích, đổi ngoại tệ, thanh toán các loại tiền trợ cấp, tiền lương hưu, điện thoại, tiền nước qua tài khoản TKBĐ; các dịch vụ tài chính hiện đại như ngân hàng tại nhà, thương mại điện tử, thanh toán thẻ... Theo các chuyên gia TKBĐ Nhật Bản, dịch vụ TKBĐ Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ ban đầu, và giờ đây chính là thời điểm để Việt Nam phát triển dịch vụ này lên một mức mới cao hơn. Theo đó, TKBĐ Việt Nam sẽ phải phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các tổ chức ngân hàng, tài chính khác.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đi lên từ một xuất phát điểm thấp nên nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển luôn là vấn đề bức thiết. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam đã huy động vốn từ rất nhiều nguồn trong và ngoài nước.
Với tinh thần dựa vào sức mình là chính, Việt Nam luôn đánh giá cao nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn huy động của hệ thống Ngân hàng hiện nay để cho vay chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn đầu tư cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế. Dịch vụ TKBĐ ra đời là nhằm thực hiện sứ mệnh tập trung những khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ của mọi tầng lớp dân cư đáp ứng cho sự nghiệp đầu tư phát triển của đất nước. Với lợi thế là cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của ngành Bưu chính viễn thông, TKBĐ đã tạo ra bước đột phá mới trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, phù hợp với định hướng phát triển kinh doanh của VNPT theo hướng đa ngành đa nghề.
Tuy nhiên, do những đặc thù riêng biệt với các tổ chức tín dụng và ngân hàng khác trong tổ chức huy động và sử dụng vốn, hoạt động kinh doanh của VPSC phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cơ chế chính sách. Để Dịch vụ TKBĐ phát huy được tối đa khả năng của mình, Công ty Dịch vụ TKBĐ cần sự hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện của Chính phủ, của Tổng Công ty, của Ngân hàng Nhà nước cũng như của dân chúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả Chuyên đề Nghiên cứu phát triển các dịch vụ tiết kiệm Bưu điện, Viện Kinh tế Bưu điện, 2002
2. Hệ thống hoá các Văn bản Tiết kiệm Bưu điện, Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện, 2005
3. Tài liệu hội thảo Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2006
4. Luật Các Tổ chức Tín dụng
5. Luật Doanh Nghiệp và Các văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Lao động, 2000
6. Phương án xây dựng dịch vụ TKBĐ ở Việt nam của Tổng ty Bưu chính viễn thông Việt nam.
7. Các báo cáo của các Đoàn khảo sát dịch vụ TKBĐ tại các nước Nhật bản, Hàn quốc và Trung quốc
8. Báo cáo thường niên, Báo cáo Tài chính, Công ty Dịch vụ Tiết kiệm 2006, 2007, 2008
9. Postal Savings in Japan 2001, 2002
10. Báo cáo lãi suất, Kho bạc Nhà nước
11. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2253.doc