KẾT LUẬN
Tình hình xâm nhập mặn tại vùng
nghiên cứu có chiều hướng lấn sâu vào
nội đồng gây ảnh hưởng đến sinh hoạt
của người dân và là yếu tố chính cho sự
thay đổi mô hình canh tác. Đối với đời
sống sinh hoạt, tác động chính là thiếu
nước ngọt vào mùa khô và không có
việc làm đối với các hộ canh tác hai vụ
lúa. Mô hình canh tác chuyển từ hai vụ
lúa sang Lúa-Tôm, Tôm-Cua, Tôm-CuaMàu đang phổ biến ở Huyện An Minh.
Hiệu quả kinh tế của các MH canh tác
chủ lực này đạt khá tốt, trong đó các mô
hình kết hợp thủy sản đạt lợi nhuận cao,
do chi phí đầu tư thấp (nuôi quảng canh
cải tiến), thu nhập cao (giá bán cao) nên
có hiệu quả đầu tư và tỷ suất lợi nhuận
cao. Lợi nhuận đạt cao theo thứ tự là: (1)
Tôm-Cua-Màu, (2) Tôm-Cua, (3) LúaTôm, (4) Hai vụ lúa. Các chiến lược
thích ứng và phát triển nông nghiệp
được đề xuất về chính sách như đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn. Phối
hợp với doanh nghiệp tìm thị trường tiêu
thụ cho sản phẩm nông, thuỷ sản.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong phát triển sản xuất theo các mô
hình Lúa-Tôm, Tôm-Cua, Tôm-CuaMàu, tiếp tục đa dạng hóa đối tượng
nuôi để tăng thu nhập trên đơn vị diện
tích; chú trọng đến phát triển sản xuất
nông nghiệp bền vững.
Nông hộ cần quan tâm thông tin về
tình hình xâm nhập mặn, dự báo thời
tiết, thông tin về giá cả thị trường; liên
kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác do tác động của xâm nhập mặn tại huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
12
HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC DO TÁC ĐỘNG
CỦA XÂM NHẬP MẶN TẠI HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
Lê Văn Dũng1, Nguyễn Duy Cần1**, Lê Thành Sơn1, Võ Thị Gương2*
1 Trường Đại học Cần Thơ,
2Trường Đại học Tây Đô (Email: vtguong@ctu.edu.vn)
Ngày nhận: 15/11/2017
Ngày phản biện: 10/12/2017
Ngày duyệt đăng: 20/12/2017
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá hiện trạng và phân tích hiệu quả kinh tế các
hệ thống canh tác và đề xuất các giải pháp phát triển các mô hình sản xuất phù hợp do tác
động của xâm nhập mặn, tại huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. Đề tài nghiên cứu được thực
hiện bằng phương pháp kết hợp định tính và định lượng, thu thập số liệu thứ cấp qua
phỏng vấn tại cộng đồng sử dụng phương pháp PRA (Participatory Rural Appraisal),
phỏng vấn KIP và phỏng vấn 120 hộ nông dân, phân tích SWOT và phân tích hiệu quả kinh
tế qua ảnh hưởng của xâm nhập mặn (XNM). Kết quả nghiên cứu cho thấy XNM ảnh
hưởng bất lợi cho mô hình canh tác hai vụ lúa, gây thiếu việc làm trong mùa khô và phải
chuyển đổi mô hình canh tác. Tuy nhiên, chuyển đổi sang mô hình canh tác kết hợp nuôi
thuỷ sản giúp hiệu quả kinh tế tăng cao. Các mô hình phổ biến đạt lợi nhuận cao nhất là
(1) Tôm-Cua-Màu, (2) Tôm-Cua, (3) Lúa-Tôm, và sau cùng là (4) Canh tác 2 vụ lúa. Trên
cơ sở phân tích điều kiện tự nhiên, thuận lợi, khó khăn và thách thức, một số giải pháp về
chính sách được đề xuất gồm đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, phối hợp với doanh
nghiệp tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nông, thuỷ sản, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình canh tác, đa dạng hoá đối tượng nuôi để tăng
thu nhập trên đơn vị diện tích, phát triển sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản sạch. Trong chiến
lược phát triển nông hộ, nông dân cần quan tâm theo dõi tình hình XNM, giá cả thị trường,
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Từ khóa: Chiến lược phát triển, hiệu quả kinh tế, mô hình canh tác, xâm nhập mặn.
Trích dẫn: Lê Văn Dũng, Nguyễn Duy Cần, Lê Thành Sơn và Võ Thị Gương, 2017. Hiệu quả kinh
tế các mô hình canh tác do tác động của xâm nhập mặn tại huyện An Minh, tỉnh Kiên
Giang. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 02:
12-23.
*GS.TS. Võ Thị Gương Trưởng phòng QLKH&HTQT, Trường Đại học Tây Đô
**PGS.TS. Nguyễn Duy Cần, Trưởng Khoa Phát triển nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
13
1. GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, tình trạng
xâm nhập mặn (XNM) gây khó khăn
trong đời sống và sản xuất nông nghiệp
của người dân vùng ven biển. Tại Huyện
An Minh, tỉnh Kiên Giang, do ảnh
hưởng của mặn, một diện tích lớn canh
tác lúa bị thiệt hại, nhiều nông dân tự
chuyển đổi canh tác lúa sang mô hình
canh tác các loại thủy sản nước mặn.
diện tích nuôi tôm tăng mạnh trong thời
gian qua, từ 25.090 ha năm 2005 tăng
lên 40.972 ha (tăng 63,3%) năm 2013
(Cục thống kê tỉnh Kiên Giang, 2013).
Tuy nhiên, tình hình thời tiết có nhiều
biến động, nhiệt độ tăng cao, những cơn
mưa trái mùa gây bất lợi cho tôm phát
triển, với khoảng 7.800 ha thiệt hại gần
50% và khoảng 3.736 ha thiệt hại trên
50% (Phòng Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn, 2013). Hiện trạng này cho
thấy tác động của xâm nhập mặn ảnh
hưởng đến cơ cấu mùa vụ, hệ thống
canh tác, nhất là thay đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, đưa đến hạn chế việc
thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp của
huyện. Vì là mô hình tự phát của nông
dân, nên chưa có nghiên cứu đánh giá cụ
thể về hiệu quả kinh tế của các mô hình
này tại Huyện An Minh. Các mô hình
canh tác đạt hiệu quả kinh tế cao ở các
vùng mặn, vùng lợ và vùng nước ngọt là
vấn đề cần thiết được nghiên cứu và
khuyến cáo để giúp nông dân sống trong
vùng ven biển có thể thích nghi với sự
thay đổi về môi trường đất nước do tác
động của xâm nhập mặn (Lê Văn Hòa,
2010; Lindener, 2012; Renaud et al.,
2014; Nguyen My Hoa et al., 2016).
Trong nghiên cứu về xây dựng mô hình
canh tác thích hợp với điều kiện ảnh
hưởng của xâm nhập mặn tại huyện
Thạnh Phú, Bến Tre, các mô hình canh
tác kết hợp thuỷ sản như hệ thống tôm
sú trong mùa khô, lúa xen tôm càng
xanh trong mùa mưa ở tiểu vùng mặn
theo mùa; tôm sú trong mùa khô, tôm
thẻ trong mùa mưa ở tiểu vùng mặn là
các mô hình mới, đạt hiệu quả kinh tế
cao hơn so với mô hình canh tác hiện tại
của nông dân (Lâm Văn Tân và ctv.,
2014). Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
nhằm đánh giá hiện trạng và phân tích
hiệu quả kinh tế của các mô hình chuyển
đổi do ảnh hưởng XNM tại huyện An
Minh, tỉnh Kiên Giang. Từ đó đề xuất
giải pháp phát triển các mô hình canh tác
phù hợp, góp phần phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng
và giảm nhẹ tác động của xâm nhập mặn
đến đời sống của người dân.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu và cách
tiếp cận
An Minh là huyện ven biển nằm trong
vùng U Minh Thượng. Vùng này không
bị ảnh hưởng bởi lũ của sông Mekong,
canh tác chủ yếu dựa vào lượng mưa, đất
canh tác đa số là đất phèn bị nhiễm mặn
vào mùa khô. Ba xã gồm Xã Đông Hòa,
Đông Hưng và Vân Khánh Tây được
chọn khảo sát (Hình 1). Đây là các xã
chịu ảnh hưởng trực tiếp của xâm nhập
mặn, có các hệ thống canh tác đa dạng,
đặc trưng cho ba tiểu vùng sinh thái
(ngọt, lợ, mặn), đáp ứng yêu cầu nghiên
cứu của đề tài. Đề tài thu thập thông tin
và đánh giá tác động của xâm nhập mặn
qua các kiểu sử dụng đất, các hệ thống
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
14
canh tác và đời sống của người dân qua
cách tiếp cận đánh giá nông thôn có sự
tham gia của người dân PRA (Nguyễn
Duy Cần và Nico Vromant, 2009), khảo
sát trực tiếp và phỏng vấn chuyên gia.
Hình 1. Bản đồ hành chính huyện An Minh và vị trí khảo sát.
(Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện An Minh)
2.2. Phương pháp thu thập thông
tin
2.2.1. Thông tin thứ cấp
Số liệu được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau như Tổng cục thống kê quốc
gia, Niên giám thống kê tỉnh Kiên
Giang, huyện An Minh, từ năm 2000
đến 2013; các báo cáo, tham luận, các
công trình nghiên cứu về sự xâm nhập
mặn vùng ĐBSCL và tỉnh Kiên Giang
ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của
người dân; các kết quả theo dõi tình hình
diễn biến hạn hán và sự xâm nhập mặn
trong thời gian qua tại huyện An Minh
tỉnh Kiên Giang. Nơi cung cấp thông tin
là Sở NN - PTNT, Sở Tài nguyên và
Môi trường, Chi cục Thủy lợi, Trung
tâm Khí tượng Thủy văn tỉnh Kiên
Giang; Phòng NN - PTNT, phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện An Minh.
Địa bàn
nghiên
cứu
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
15
2.2.2. Thông tin sơ cấp
* Thực hiện đánh giá nhanh có sự
tham gia của người dân
Thông tin thu nhận về đánh giá hiện
trạng được thu thập qua sự tham gia ý
kiến của cộng đồng (PRA) riêng ở từng
cấp độ nông hộ; cấp độ quản lý ban
ngành xã, huyện và tỉnh, nhằm nhận
định các ảnh hưởng xâm nhập mặn đến
quá trình sử dụng đất, các hệ thống canh
tác và đời sống của người dân.
* Phương pháp đánh giá chuyên gia
Thông tin từ nguồn đánh giá chuyên
gia (KIP) giúp xác định những ảnh
hưởng của xâm nhập mặn đến quá trình
sử dụng đất, các hệ thống canh tác và
đời sống của người dân tại huyện An
Minh, tỉnh Kiên Giang.
* Thực hiện điều tra nông hộ
Thông tin có được thông qua việc
phỏng vấn trực tiếp nông dân bằng bảng
câu hỏi, với các chỉ tiêu có sẵn. Số mẫu
được chọn theo hình thức chọn mẫu
thuận tiện, chọn các nông hộ thực hiện
các mô hình canh tác chủ yếu theo từng
vùng sinh thái. Thông tin này cho phép
xác định rõ hơn ảnh hưởng của XNM
đến các hệ thống canh tác và đời sống
của người dân, cũng như những biện
pháp thích ứng của nông hộ.
* Chọn mô hình điều tra: Qua tham
khảo số liệu thứ cấp và ý kiến của cán
bộ chuyên môn địa phương, bốn mô
hình phổ biến trong cơ cấu sản xuất
nông nghiệp của huyện và đặc trưng cho
từng vùng sinh thái được chọn là: 1) Mô
hình Tôm – Cua và 2) Tôm-Cua-Màu ở
xã Vân Khánh Tây; 3) Mô hình Lúa-
Tôm ở xã Đông Hưng; 4) Mô hình hai
vụ lúa ở xã Đông Hòa. Số lượng khảo
sát là 120 hộ với 30 hộ khảo sát cho mỗi
mô hình.
2.3. Phương pháp phân tích
2.3.1. Phương pháp thống kê mô tả
Phương pháp được sử dụng nhằm mô
tả, thể hiện dưới dạng tần số, phần trăm,
trung bình, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất,
kiểm định tính độc lập của phân phối:
Thực trạng các hệ thống canh tác; Các
đặc điểm của nông hộ: tuổi, kinh
nghiệm, lao động, diện tích, trình độ văn
hóa, thu nhập; Ảnh hưởng XNM đến
đời sống như thu nhập, việc làm, sinh
hoạt của người dân.
2.3.2. Phân tích hiệu quả kinh tế
Đánh giá hiệu quả các mô hình (MH)
thông qua các chỉ tiêu:
- Tổng chi phí gồm:
+ Chi phí tiền mặt: chi phí vật tư,
nhiên liệu và chi thuê mướn
+ Chi phí cơ hội: chỉ chi phí lao động
nhà (không bao gồm chi phí lãi vay)
- Thu nhập = Sản lượng x đơn giá
- Lãi ròng = Thu nhập – chi phí
(không bao gồm chi phí lao động nhà)
- Lãi có lao động nhà = Thu nhập –
Tổng chi phí (bao gồm chi phí LĐ nhà)
- Hiệu quả vốn = Lãi ròng/Chi phí
tiền mặt
- Tỷ suất lợi nhuận = Lãi ròng/Thu
nhập
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
16
2.3.3. Phân tích SWOT
Phân tích SWOT được áp dụng theo
cách phân tích ma trận để xác định các
thuận lợi, khó khăn, cũng như kết hợp
các yếu tố này để làm cơ sở xác định các
giải pháp (Bảng 1).
Bảng 1. Ma trận phân tích SWOT
PHÂN TÍCH
SWOT
(O)
Cơ hội
(T)
Thách thức
(S)
Điểm mạnh
S+O: Kết hợp thế mạnh
để tận dụng cơ hội
S+T: Sử dụng điểm mạnh để
vượt qua thách thức
(W)
Điểm yếu
W+O: Tận dụng cơ hội
để khắc phục điểm yếu
W+T: Cần khắc phục mặt yếu
kém và tìm ra giải pháp để
vượt qua thách thức
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng các mô hình canh
tác
* Lịch thời vụ
Qua kết quả từ khảo sát, nghiên cứu
các tài liệu tham khảo, các báo cáo của
các cơ quan chức năng tại địa phương
(phòng NN & PTNT, Trung tâm khuyến
nông-khuyến ngư huyện An Minh), lịch
thời vụ trong vùng nghiên cứu phân bố
tất cả các tháng trong năm, thời gian
mặn kéo dài từ tháng 1 đến tháng 6, thời
gian ngọt từ tháng 7 đến tháng 12 (Bảng
2).
Mô hình 2 vụ lúa: Sản xuất lúa chủ
yếu sử dụng nguồn nước mưa, nên toàn
huyện chỉ sản xuất lúa 1- 2 vụ/năm. Vụ
1 xuống giống khi mùa mưa bắt đầu,
xuống giống khoảng tháng 5 và thu
hoạch vào tháng 8; vụ 2 xuống giống
vào đầu tháng 9 và thu hoạch vào cuối
tháng 12. Tùy theo tình hình thời tiết nếu
có mưa sớm thì lịch thời vụ có thể được
chuyển sớm hơn.
Mô hình Lúa - Tôm: Là mô hình
luân canh lúa, tôm. Thời điểm cải tạo
vuông nuôi tôm từ tháng 1 đến đầu
tháng 2, thời gian thả giống tôm sú bắt
đầu từ tháng 1 đến hết tháng 3 và thu
hoạch tôm sú trong tháng 7. Sau đó nông
dân tiến hành cải tạo ao, rửa mặn trong
tháng 8, cấy lúa vào tháng 9. Tuy nhiên,
thực tế một số hộ thả tôm quanh năm,
theo kiểu thu tỉa, thả bù cả trong giai
đoạn cấy mạ.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
17
Bảng 2. Lịch thời vụ canh tác tại khu vực nghiên cứu
Tháng
(dl)
1 2 3 4 5 6
7 8 9 10 11 12
Thời gian
nước mặn
Thời gian
nước ngọt
Hai vụ
lúa
Tôm - Lúa
Tôm- Cua
Tôm –
cua-màu
(Nguồn: phòng NN – PTNT huyện An Minh, 2013 và khảo sát thực tế)
Mô hình Tôm-Cua: Là mô hình xen
canh tôm và cua. Để tăng thêm nguồn
thu nhập trên đơn vị diện tích và đa dạng
hóa đối tượng nuôi, nhất là tình hình rũi
ro trong nuôi tôm sú ngày càng phức tạp,
nông dân thay đổi mô hình nuôi bằng thả
nuôi xen canh cua biển, từ tháng 5 đến
tháng 7 người dân bắt đầu thả cua theo
khuyến cáo của cơ quan chức năng địa
phương và thu hoạch từ tháng 10 đến
tháng 12 và đến tháng 1 năm sau.
Mô hình Tôm-Cua-Màu: Giống như
mô hình tôm xen canh cua, cây màu
được trông trên bờ. Những hộ có điều
kiện thuận lợi như có đất bờ rộng, khoan
được giếng thì trồng thêm cây màu, chủ
yếu là cây hành lá, thường trồng từ
tháng 1 đến tháng 10 (3 vụ/năm), có một
số hộ trồng quanh năm (4 vụ) trên đất
bờ.
3.2. Tác động của XNM đến việc
làm và thu nhập
Kết quả khảo sát cho thấy đời sống
nông hộ gặp khó khăn do thiếu nước
ngọt sinh hoạt trong mùa khô. Về việc
làm và thu nhập, kết quả khảo sát được
trình bày ở Bảng 3 cho thấy đối với mô
hình 2 lúa thì XNM gây thiếu nước ngọt
để canh tác, đưa đến nông dân không có
việc làm. Trong khi các mô hình có liên
quan đến thủy sản đều cho rằng XNM
tạo thêm việc làm, thu nhập tăng so với
canh tác chuyên lúa trước đây, có
khoảng 0,2% số hộ cho rằng XNM làm
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
18
giảm thu nhập, tập trung các mô hình
(MH) canh tác hai vụ lúa và có liên quan
đến nước ngọt trong MH Tôm-Cua-Màu.
Điều này cho thấy việc chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, chuyển từ chuyên canh tác
lúa sang Lúa-Tôm hoặc chuyên thủy sản
là hướng đi phù hợp, khắc phục việc làm
và thu nhập, thích ứng với tình hình
XNM như hiện nay. Kết quả này khẳng
định kết quả nghiên cứu trước đây của
Nguyễn Duy Cần (2005).
Bảng 3. Tác động của XNM đến việc làm và thu nhập của nông hộ.
XNM
ảnh hưởng
đến việc làm
và thu nhập
Tần suất và tỉ lệ theo mô hình
Tổng Hai vụ
lúa
Lúa-
Tôm
Tôm-Cua
Tôm-
Cua-Màu
tần
số
%
tần
số
%
tần
số
%
tần
số
%
tần
số
%
Việc làm 0 0,0 30 100 30 100,0 30 100 90 75,0
Thu nhập
Không ảnh
hưởng
19 50,0 0 0,0 2 6,7 4 13,3 25 20,8
Tăng 0 50,0 30 100 28 93,3 24 80,0 82 68,3
giảm 11 0,0 0 0,0 0 0,0 2 6,7 13 10,9
Tổng 30 100 30 100 30 100 30 100 120 100
(Nguồn điều tra thực tế, 2013)
3.3. Hiệu quả tài chính của mô hình
Kết quả điều tra về chi phí, thu nhập
của các mô hình (Bảng 4) được thực
hiện kiểm định ANOVA để so sánh sự
khác biệt đối với các chỉ tiêu tài chính
giữa các mô hình, cho thấy các thông số
tài chính có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
các hình. Mô hình 2 lúa có chi phí tiền
mặt cao nhất, kế tiếp là Tôm-Cua-Màu,
lúa tôm, thấp nhất là Tôm-Cua. Trong
khi chi phí lao động nhà của mô hình
Tôm-Cua-Màu là cao nhất. Vì thế, tổng
chi phí/ha của MH Tôm-Cua-Màu lớn
nhất, kế tiếp là 2 lúa, Lúa-Tôm, có ít chi
phí nhất là Tôm-Cua. Tuy nhiên, thu
nhập cho mỗi ha ở MH Tôm-Cua-Màu
là cao nhất trong 4 MH, kế đến là hai vụ
lúa, Lúa-Tôm, cuối cùng là Tôm-Cua.
Phân tích về lợi nhuận, thì MH tôm-cua-
màu là cao nhất, dù có chi phí lao động
cao, lợi nhuận khác biệt có ý nghĩa, các
MH còn lại tương đương nhau.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
19
Bảng 4. Phân tích chi phí - lợi nhuận các mô hình canh tác
(Đvt 1.000đ/ha)
Khoản mục
Mô hình
Kiểm
định F
Hai vụ
lúa
Lúa-Tôm Tôm-Cua
Tôm-
Cua-Màu
Chi phí tiền mặt 33.581a 26.895b 13.859,1c 28.412,8b 30,84**
Lao động nhà
(ngày)
26,1b 29b 25,3b 77,2a
53,55**
Chi phí LĐ nhà 3.917,1b 4.349,3b 3.798,8b 11.583,3a 53,55**
Tổng chi phí 37.498,3a 31.244,9b 17.658,0c 39.996,2a 27,88**
Thu nhập 72.638,2b 67.522,4b 56.867,5c 85.251,4a 10,46**
Lợi nhuận 39.057,0b 40.626,8b 43.008,4b 56.838,5a 9,94**
Hiệu quả vốn
(LN/CP tiền mặt)
1,19d 1,58c 3,24a 2,13b 63,68**
Tỷ suất lợi nhuận
(LN/thu nhập)
0,53d 0,59c 0,75a 0,67b 55,10**
- Trong cùng một hàng, những số có cùng chữ số kèm theo không khác biệt ý nghĩa ở mức
độ 5% qua phép thừ Duncan. ** khác biệt ở mức độ 1% qua kiểm định F.
(Nguồn kết quả điều tra, 2013)
Về hiệu quả vốn đầu tư, MH Tôm-
Cua có hiệu quả vốn cao nhất là 3,24, kế
tiếp là Tôm-Cua-Màu (2,13), Lúa-Tôm
(1,58), thấp nhất là 2 lúa (1,19). Tương
tự, tỷ suất lợi nhuận của MH Tôm-Cua
cao nhất (0,75), Tôm-Cua-Màu (0,67),
lúa-tôm (0,59), hai vụ lúa (0,53). Những
hộ canh tác MH Tôm-Cua, có thu nhập
trung bình/ha thấp nhất nhưng hiệu quả
vốn và tỷ suất lợi nhuận cao nhất, điều
này do MH này có chi phí đầu tư thấp
hơn MH còn lại, MH Tôm-Cua-Màu có
thu nhập cao nhất, như do chi phí đầu tư
cao, sử dụng nhiều lao động dẫn tới hiệu
quả vốn thấp hơn Tôm-Cua (2,13 so với
3,24) và tương tự tỷ suất lợi nhuận cũng
thấp hơn (0,67 so với 0,75). Đối với MH
Lúa- Tôm có thu nhập/ha thấp hơn MH
hai vụ lúa, do chi phí đầu tư thấp hơn,
nên hiệu quả vốn và tỷ suất lợi nhuận
cao hơn so với hai vụ lúa (1,58 so với
1,19) và (0,59 so với 0,53).
Nhìn chung, MH Tôm-Cua (chi phí
đầu tư thấp nhất) có hiệu quả vốn và tỷ
suất lợi nhuận cao nhưng không cần
nhiều lao động (25,3 ngày/ha), nên đối
với những hộ có nguồn lao động dồi dào
sẽ bị lãng phí, đối với MH Tôm-Cua-
Màu (chi phí đầu tư cao nhất) có hiệu
quả đầu tư, tỷ suất lợi nhuận thấp hơn,
nhưng sử dụng nhiều lao động (gấp 3
lần, 77,2 ngày/ha), nên phù hợp với
những hộ có nhiều lao động. Vì vâỵ, tùy
theo nguồn lực của gia đình (vốn, lao
động, kinh nghiệm, diện tích đất,) mà
nông hộ cân nhắc lựa chọn MH canh tác
phù hợp, hiệu quả và bền vững. Mô hình
canh tác luân canh với thuỷ sản như MH
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
20
Lúa-Tôm là mô hình có tính bền vững
(Nguyễn Duy Cần, 2011).
3.4. Các thuận lợi, khó khăn qua
phân tích SWOT
Qua phân tích và đánh giá dựa vào
điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và
những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất
của nông hộ trong vùng nghiên cứu, các
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức được trình bày ở Bảng 5 như sau:
Bảng 5. Phân tích SWOT các mô hình canh tác vùng nghiên cứu.
Điểm mạnh Cơ hội
- Đất đai phù hợp
- Hệ thống đê, cống, thủy lợi tương đối
hoàn chỉnh
- Thế mạnh là thủy sản
- Kinh nghiệm sản xuất
- Người dân trong vùng đa phần có độ
tuổi nằm trong độ tuổi lao động
- Có nhiều chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng
- Quy hoạch SX phù hợp
- Tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vay vốn (tuy
mức vay chưa cao)
- Có nhiều doanh nghiệp đầu tư, giải
quyết đầu ra cho nông sản
Điểm yếu Thách thức
- Thiếu vốn, kỹ thuật và liên kết trong
SX
- Chi phí sản xuất cao (giá vật tư, lao
động cao)
- Phụ thuộc vào tự nhiên
- Giao thông chưa hoàn chỉnh
- Chất lượng giống chưa đảm bảo
- Thời tiết thất thường, XNM mang lại
nhiều bất lợi cho đời sống, sản xuất
- Giá cả bấp bênh
- Chưa có nhiều chính sách hỗ trợ cho
nông dân
3.5. Đề xuất chiến lược thích ứng
Chiến lược đột phá (Kết hợp mặt
mạnh và cơ hội)
Đẩy mạnh quy hoạch phát triển sản
xuất nông nghiệp bền vững, phối hợp
với các doanh nghiệp trong vùng tìm thị
trường tiêu thụ cho nông thuỷ sản. Đẩy
nhanh tiến độ các dự án cơ sở hạ tầng
đang thực hiện như gia cố đê. Đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, nạo
vét kênh, mương.
Chiến lược chuẩn bị (Kết hợp điểm
yếu và cơ hội)
Tăng cường kiểm tra chất lượng
giống, chất lượng nông sản, kiểm soát
giá cả vật tư. Tăng cường chuyển giao,
ứng dụng khoa học kỹ thuật mới cho
nông hộ. Tăng cường mạng lưới cán bộ
kỹ thuật khuyến nông, khuyến ngư tại
địa phương.
Chiến lược phòng thủ (Kết hợp điểm
yếu và thách thức)
Tăng cường tuyên truyền thông tin về
tình hình XNM, dự báo thời tiết. Tổ
chức liên kết sản xuất các hộ sản xuất
nhỏ lẻ với nhau thành tổ/nhóm để phát
huy nội lực, giảm thiểu rủi ro.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
21
Chiến lược giảm rủi ro (Kết hợp điểm
mạnh và thách thức)
Hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất
giống địa phương, chuyển giao công
nghệ sản xuất giống chất lượng, đảm bảo
cung cấp giống chất lượng cho người
dân trong vùng.
Ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp và thuỷ
sản. Phổ biến các biện pháp hạn chế
những rủi ro do thời tiết thay đổi, giảm
chi phí sản xuất.
3.6. Đề xuất giải pháp chiến lược
cho nông hộ
Với điều kiện tự nhiên (đất đai, nguồn
nước) thích hợp cho việc sản xuất nông
nghiệp – thuỷ sản; có lực lượng lao động
gia đình và kinh nghiệm là điều kiện rất
thuận lợi để cho nông hộ thực hiện mọi
hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, XNM,
thời tiết bất lợi, thiếu vốn sản xuất là
những thách thức. Rủi ro nổi bật là giá
cả đầu vào các loại vật tư có xu hướng
tăng làm tăng giá thành đầu vào; thiếu
sự liên kết sản xuất để khắc phục những
khó khăn và phát huy những thuận lợi
trên, nông hộ cần có chiến lược cho sự
bảo đảm cuộc sống kinh tế và ổn định
sản xuất. Vì vậy, các giải pháp sau được
đề xuất cần thiết thực hiện:
- Thường xuyên quan tâm thông tin
về tình hình xâm nhập mặn, dự báo thời
tiết, thông tin về giá cả thị trường; liên
kết trong sản xuất, tiêu thụ nhằm phát
huy hết nội lực, giảm thiểu rủi ro.
- Tuân thủ lịch thời vụ của các cơ
quan chức năng; tăng cường ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chọn
giống có chất lượng, đa dạng hóa cây
trồng, vật nuôi phù hợp.
- Cần có sự kết hợp giữa phát triển
nông nghiệp và phi nông nghiệp - dịch
vụ để nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống.
4. KẾT LUẬN
Tình hình xâm nhập mặn tại vùng
nghiên cứu có chiều hướng lấn sâu vào
nội đồng gây ảnh hưởng đến sinh hoạt
của người dân và là yếu tố chính cho sự
thay đổi mô hình canh tác. Đối với đời
sống sinh hoạt, tác động chính là thiếu
nước ngọt vào mùa khô và không có
việc làm đối với các hộ canh tác hai vụ
lúa. Mô hình canh tác chuyển từ hai vụ
lúa sang Lúa-Tôm, Tôm-Cua, Tôm-Cua-
Màu đang phổ biến ở Huyện An Minh.
Hiệu quả kinh tế của các MH canh tác
chủ lực này đạt khá tốt, trong đó các mô
hình kết hợp thủy sản đạt lợi nhuận cao,
do chi phí đầu tư thấp (nuôi quảng canh
cải tiến), thu nhập cao (giá bán cao) nên
có hiệu quả đầu tư và tỷ suất lợi nhuận
cao. Lợi nhuận đạt cao theo thứ tự là: (1)
Tôm-Cua-Màu, (2) Tôm-Cua, (3) Lúa-
Tôm, (4) Hai vụ lúa. Các chiến lược
thích ứng và phát triển nông nghiệp
được đề xuất về chính sách như đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn. Phối
hợp với doanh nghiệp tìm thị trường tiêu
thụ cho sản phẩm nông, thuỷ sản.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong phát triển sản xuất theo các mô
hình Lúa-Tôm, Tôm-Cua, Tôm-Cua-
Màu, tiếp tục đa dạng hóa đối tượng
nuôi để tăng thu nhập trên đơn vị diện
tích; chú trọng đến phát triển sản xuất
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
22
nông nghiệp bền vững.
Nông hộ cần quan tâm thông tin về
tình hình xâm nhập mặn, dự báo thời
tiết, thông tin về giá cả thị trường; liên
kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục thống kê tỉnh Kiên Giang.
2013. Niên giám thống kê Tỉnh Kiên
Giang. 458p.
2. Lindener, C. 2012. Historical
development of farming systems facing
salin intrusion in Thanh Phu, Ben Tre-
Mekong delta. Master Thesis. Bonn
University.
3. Renaud, F. Le Thi Thu Huong,
Lindener,. C., Vo Thi Guong, Zita, S.
2014. Resilience and shifts in agro-
ecosystem facing increasing sea-level
rise and salinity intrusion in the Mekong
delta. J. Climatic change. DOI
10.1007/s10584-014-1113-4.
4. Lê Văn Hòa (2010). Phát triển
nông nghiệp bền vững vùng ĐBSCL:
Triển vọng và Thách thức, hội thảo
“Giải pháp phát triển nông nghiệp vùng
ĐBSCL”.TP HCM ngày 21/4/2010.
5. Lâm Văn Tân, Võ Thị Gương,
Dương Nhựt Long, Nguyễn Hồng
Giang.. 2014. Hiệu quả kinh tế các mô
hình canh tác phù hợp trên đất ven biển
huyện Thạnh Phú, Tỉnh Bến Tre. Tạp
chí Khoa học Trường ĐHCT. Số 32. 76-
82.
6. Nguyễn Duy Cần. 2005. Đánh giá
thực trạng và phân tích các hệ thống
canh tác trong vùng chuyển đổi cơ cấu
sản xuất tỉnh Cà Mau: Phân tích khung
sinh kế bền vững. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ. Số 4. 173-
182.
7. Nguyễn Duy Cần và Nico
Vromant. 2009. PRA- Đánh giá nông
thôn với sự tham gia của người dân (tái
bản lần 2). Nhà xuất bản Nông nghiệp.
8. Nguyễn Duy Cần. 2011.
Transformation of farming sysems in the
coastal Mekong delta: seeking for a
better management and sustainability.
Vietnam's Socio-economic
Development. Số 65.
9. Nguyen My Hoa, Vo Thi Guong,
Nguyen Hong Giang. 2016. Economic
return assessment of new farming
systems in saline-affected soil in Binh
Dai district, Ben Tre province, Vietnam.
In proceedings: "Research for
Developing Sustainable Agriculture- Tra
Vinh- 22/9/2016".
10. Phòng NN&PTNT huyện An
Minh. 2013. Báo cáo tổng kết ngành
Nông nghiệp Huyện An Minh từ năm
2005 đến 2013.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
23
ECONOMIC EFFICIENCY OF FARMING SYSTEMS IN SALINITY
INTRUSION AREAS OF AN MINH DISTRICT,
KIEN GIANG PROVINCE
Le Van Dung1, Nguyen Duy Can1, Le Thanh Son1 and Vo Thi Guong2
1Can Tho University, 2Tay Do University (Email: vtguong@ctu.edu.vn)
ABSTRACT
The aim of this study was to evaluate the effect of salt water intrusion to land use and
farming systems, in order to developing suitable farming systems in An Minh district, Kien
Giang province. Qualitative and quantitative methods were applied in this research.
Secondary data collecting was implemented by using a Participatory Rural Appraisal
(PRA) exercises, KIP (Key Information Panel) combined with 120 household interviewing.
SWOT (Strengths, Weaknesses, Opportunities and Threats) and economic efficiency
analysation were accordingly carried out. The results indicated that salinity intrusion
(XNM) has caused adversely effect to two rice crops cultivation system, resulting in job
reduction in the dry season and the consequential conversion of farming systems. However,
this transformation of cultivation system in turn enhanced the overall economic efficiency.
The farming systems which created high benefits were (1) shrimp-crab- upland crop, (2)
crab-shrimp, (3) rice-shrimp, and finally 2-rice crops. Based on the analysis of natural
conditions, suitability, difficulties and challenges, appropriate solutions were suggested
such as gathering investment on upgrading rural infrastructure, as well as finding markets
for agricultural and aquacultural products. In addition, new technology application needs
to be enhanced to improve the productivity of suitable farming systems. On the other hand,
diversifying aquaculture varieties to increase income per unit area, and developing clean
agriculture and aquaculture products are also among necessary measures. For farming
development strategies, farmers need to be fully aware of the salinity intrusion progress,
essential market information; in order to close the gap between production and
consumption process.
Key words: Development strategy, economic efficiency, farming system, salt water
intrusion
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_kinh_te_cac_mo_hinh_canh_tac_do_tac_dong_cua_xam_nh.pdf