Khi đánh giá hiệu quả của cải cách tư pháp
cần phải xác định được những biến đổi về số
lượng, chất lượng hay trạng thái của từng lĩnh
vực. Chẳng hạn, khi đánh giá hiệu quả của
hoạt động tư pháp cần xem xét sự biến đổi về
kết quả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
trên cơ sở số lượng vụ việc tăng hay giảm; chất
lượng tốt hay xấu; có khắc phục được những
tiêu cực hay không, cải cách tư pháp có ảnh
hưởng tích cực và mang lại lợi ích kinh tế,
chính trị, xã hội lớn hơn so với trạng thái trước
khi cải cách. Trên cơ sở xác định được những
biến đổi thực tế của tổ chức và hoạt động tư
pháp cả về chất và lượng, cùng với những lợi
ích mà cải cách tư pháp mang lại cùng với các
tiêu chí khác, chúng ta sẽ đánh giá được hiệu
quả kinh tế của cải cách tư pháp và của chính
các cơ quan tư pháp.
2.5. Mức chi phí hợp lý để đạt được mục tiêu
của cải cách tư pháp
Dưới góc độ kinh tế, chi phí cho cải cách
tư pháp thể hiện thực tế sử dụng các nguồn lực
khác nhau để thực hiện được mục tiêu của cải
cách tư pháp như: số lượng người tham gia,
thời gia vật chất thực hiện cải cách, chi phí về
cơ sở vật chất, ngân sách, tinh thần và những
chi phí khác bảo đảm cho cuộc cải cách thành
công. Chi phí cải cách tư pháp tập trung vào
các hoạt động cơ bản sau đây:
- Chi phí cho việc nghiên cứu xây dựng,
hội thảo, toạ đàm, thẩm định, thông qua Chiến
lược cải cách tư pháp và tổ chức quán triệt, tổ
chức triển khai thực hiện Chiến lược;
- Chi phí cho việc nghiên cứu các đề tài
khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn của cải cách tư pháp; chi phí cho
công tác khảo sát, tổng kết, sơ kết, đánh giá
thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách, pháp luật và thiết kế mô hình các
cơ quan tư pháp phù hợp; thu thập thông tin,
tài liệu và kinh nghiệm cải cách tư pháp của
các nước trên thế giới;
- Chi phí cho việc rà soát hệ thống hoá các
văn bản pháp luật có liên quan, trên cơ sở đó
tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc xây
dựng mới, tổ chức lấy ý kiến góp ý, thẩm định,
thông qua, công bố và tổ chức thực hiện các dự
án luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp;
- Chi phí về cơ sở vật chất, trụ sở, trang
thiết bị làm việc, phương tiện đi lại của các
cơ quan tư pháp theo yêu cầu của cải cách tư
pháp; công sức, thời gian dành cho cải cách tư
pháp;
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả kinh tế của cải cách tư pháp - Một số vấn đề về phương pháp đánh giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
CHÍNH SÁCH
1. Hiệu quả kinh tế của cải cách tư pháp
Vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta đã được đề
ra trong Nghị quyết 8 Trung ương Đảng (khoá
VII), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, các Nghị quyết 3, 7 của Trung ương
Đảng (khoá VIII), các Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, thứ X, Nghị quyết
số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho nhà nước
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Xét về nội dung cơ bản, cải cách tư pháp
trong điều kiện hiện nay thực chất là đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
(cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, cơ
quan thi hành án) và các cơ quan, tổ chức bổ
trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định tư
pháp, trợ giúp pháp lý...) nhằm thực hiện mục
tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, bảo
đảm các hành vi vi phạm pháp luật đều được
xử lý nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đúng
pháp luật, khách quan, công bằng và nghiêm
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, xã hội và công dân, góp phần đổi
mới và thúc đẩy kinh tế phát triển, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đổi
mới hệ thống chính trị, bảo đảm cho bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực
và hiệu quả, phục vụ sự nghiệp đổi mới toàn
Hiệu quả cải cách tư pháp phụ thuộc vào hiệu quả đổi mới công tác lập pháp, hiệu quả của pháp luật và
hiệu quả của cách hành chính, bởi cải cách tư pháp có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với đổi mới công tác lập
pháp, xây dựng pháp luật và cải cách hành chính. Hoạt động xây dựng pháp luật không kịp thời sẽ làm chậm
chương trình cải cách tư pháp. Hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp thiếu thống nhất, toàn diện, mâu thuẫn, chồng chéo, không đồng bộ, không có tính khả thi, hiệu quả
thấp tác động tiêu cực đến thực hiện cải cách tư pháp. Cải cách hành chính tiến hành chậm, không mang lại
hiệu quả cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp.
TRẦN HUY LIệU *
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP -
(*) TS, Bộ Tư pháp.
(1) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 3711
2010
CHÍNH SÁCH
diện đất nước, thực hiện mục tiêu chung: “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Cải cách tư pháp có quan hệ mật thiết và
biện chứng với cải cách kinh tế, đổi mới hệ
thống chính trị, đổi mới công tác lập pháp và
cải cách hành chính. Cải cách tư pháp có thành
công hay không phụ thuộc vào kết quả cải cách
kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới
công tác lập pháp và cải cách hành chính nhà
nước. Vì vậy, hiệu quả kinh tế của cải cách tư
pháp gắn liền với hiệu quả kinh tế của cải cách
kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới
công tác lập pháp và cải cách hành chính.
Hiệu quả kinh tế của cải cách tư pháp là
một vấn đề phức tạp, có nhiều cách tiếp cận,
xem xét ở những khía cạnh, cấp độ và phạm
vi khác nhau, tuỳ thuộc vào ý chí của người
nghiên cứu, đánh giá.
Dưới góc độ kinh tế - chính trị học thì hiệu
quả của cải cách tư pháp thể hiện ở sự đúng
đắn và phù hợp của cải cách tư pháp với quy
luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội và mục tiêu chính trị của giai cấp cầm
quyền. Các cơ quan tư pháp là bộ phận của bộ
máy nhà nước thực hiện quyền tư pháp trong
tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất, là
thành tố của kiến trúc thượng tầng theo quy
luật khách quan phải phù hợp sự phát triển
kinh tế - xã hội (cơ sở hạ tầng) và quyền lực
chính trị của Nhà nước. Kết quả mà cải cách
tư pháp mang lại góp phần thúc đẩy kinh tế,
xã hội phát triển và giữ vững quyền lực chính
trị của lực lượng cầm quyền. Theo quan niệm
này thì hiệu quả kinh tế của cải cách tư pháp
thể hiện một cách gián tiếp mang lại lợi ích
chính trị, kinh tế, xã hội.
Theo quan điểm hệ thống, hiệu quả của cải
cách tư pháp phụ thuộc vào hiệu quả tổ chức
và hoạt động của từng cơ quan tư pháp hợp
thành hệ thống tư pháp, hay nói cách khác là
hiệu quả, chất lượng hoạt động của chính các
cơ quan tư pháp, bởi hệ thống các cơ quan
tư pháp ở Việt Nam không chỉ là hệ thống cơ
quan Toà án (cơ quan tư pháp nguyên nghĩa
của nó) mà còn bao gồm cả hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra,
thi hành án, tổ chức bổ trợ tư pháp. Hơn nữa,
hoạt động tư pháp, bản thân nó là một chỉnh
thể thống nhất do nhiều khâu khác nhau như
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bào chữa, thi
hành án hợp thành. Mặc dù “mỗi một khâu của
hệ thống tư pháp có vị trí độc lập, không thay
thế được”2 cho nhau nhưng chúng đều nằm
trong một trình tự tố tụng có quan hệ chặt chẽ
với nhau, nối tiếp nhau, bổ sung cho nhau, kế
thừa nhau tạo thành hoạt động tư pháp thống
nhất nhằm thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm
cho việc giải quyết các xung đột xảy ra trong
đời sống xã hội đúng pháp luật. Như vậy, hiệu
quả của cải cách tư pháp phụ thuộc vào hiệu
quả đổi mới tổ chức và hoạt động của từng
cơ quan tư pháp. Một cơ quan tư pháp hoạt
động không có chất lượng, hiệu quả sẽ làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả của toàn bộ
hệ thống tư pháp và sẽ không mang lại lợi ích
mong muốn.
Dưới góc độ kinh tế, hiệu quả kinh tế của
cải cách tư pháp là sự đạt được mục tiêu mà
cải cách tư pháp đặt ra với những chi phí ít
nhất (nguồn lực con người, vật chất, ngân
sách, tinh thần...). Theo quan niệm này thì
hiệu quả kinh tế có thể tính toán được, nếu
chi phí cho cải cách tư pháp ít hơn giá trị lợi
ích mang lại thì cải cách tư pháp có hiệu quả.
Ngoài ra, hiệu quả kinh tế của cải cách tư pháp
phải căn cứ vào những tổn thất và chi phí của
xã hội bỏ ra do có sự tác động của cải cách tư
pháp. Nếu cải cách tư pháp chi phí ít nhưng
mang lại những tổn thất lớn cho xã hội hoặc
xã hội phải bỏ ra chi phí lớn hơn những lợi ích
mà họ được hưởng thì cũng không có hiệu quả
kinh tế. “Đối với hoạt động tư pháp, tiêu chí
của hiệu quả phải là sự tuân thủ pháp chế và
tôn trọng con người chứ không thể lấy phí tổn
vật chất đã được Toà án hoặc các cơ quan tư
(2) Đào Trí Úc, Nội dung cơ bản của khái niệm hệ thống tư pháp và các nguyên tắc đổi mới hệ thống tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 10 năm 2001, tr. 30.
38 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
CHÍNH SÁCH
pháp sử dụng. Châm ngôn, trong trường hợp
đó, có câu: Một nền tư pháp rẻ tiền bắt xã hội
phải trả giá đắt”3.
Trong thực tiễn rất khó có thể cân, đong,
đo đếm giá trị lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội
mà cải cách tư pháp mang lại để so sánh với
những chi phí bỏ ra. Hơn nữa, cải cách tư pháp
được thực hiện trong một thời gian dài và lợi
ích mang lại chỉ thể hiện thông qua tổ chức và
hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của các
cơ quan tư pháp. Trong nhiều trường hợp cải
cách đã tiến hành xong, các nhiệm vụ (các hoạt
động) cải cách đã hoàn thành với chi phí hợp
lý nhưng chưa chắc đã mang lại hiệu quả, nếu
như sau cải cách, tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp không có hiệu lực, hiệu quả
hoặc không có hiệu quả cao hơn so với trước
khi cải cách. Tuy nhiên, khi nói đến hiệu quả
kinh tế của bất kỳ một hoạt động nào thì đều
phải xác định chi phí bỏ ra ít nhất nhưng mang
lại kết quả (giá trị lợi ích) cao nhất. Hiệu số
giữa giá trị lợi ích mang lại với chi phí bỏ ra
càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn.
Như vậy, hiệu quả kinh tế của cải cách tư
pháp là kết quả thực tế đạt được do công cuộc
cải cách tư pháp mang lại trong những phạm
vi và điều kiện nhất định phù hợp với mục tiêu
chính trị, sự phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện
ở sự biến đổi về chất trong tổ chức và các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án,
đáp ứng được các yêu cầu và định hướng cải
cách tư pháp với mức chi phí thấp nhất.
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế
của cải cách tư pháp
Để đánh giá được hiệu quả của cải cách tư
pháp cần phải có những tiêu chí nhất định. Mỗi
tiêu chí là một căn cứ để xác định hiệu quả
của công cuộc cải cách tư pháp ở một phương
diện nhất định. Hiện nay có nhiều cách hiểu
khác nhau về hiệu quả của cải cách tư pháp
nên cũng có nhiều cách xác định các tiêu chí
để đánh giá hiệu quả kinh tế của cải cách tư
pháp. Có ý kiến cho rằng, chỉ số về hiệu quả
cải cách tư pháp bao gồm: những dữ liệu cụ
thể phản ánh trạng thái tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp trước khi thực hiện
cải cách; những dữ kiện thể hiện kết quả đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp; những dữ liệu thể hiện mục tiêu của cải
cách tư pháp đã đạt được và chưa đạt được và
những khiếm khuyết và hệ quả tiêu cực xảy ra
sau cải cách.
Quan điểm thứ hai cho rằng, những tiêu
chuẩn để đánh giá hiệu quả của cải cách tư
pháp bao gồm: Sự phù hợp của kết quả công
cuộc cải cách tư pháp với quy luật khách quan
và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền và xã hội
đối với các cơ quan tư pháp; tính hợp lý của
cải cách tư pháp và tổ chức, hoạt động của các
cơ quan tư pháp; mức độ hoà hợp giữa kết quả
thu được trong quá trình cải cách tư pháp với
mục tiêu của cải cách tư pháp đặt ra.
Có quan điểm cho rằng, tiêu chí đánh giá
hiệu quả của cải cách tư pháp chính là những
kết quả thực tế đạt được trên thực tế do cải
cách tư pháp mang lại phù hợp với mục tiêu
của cải cách tư pháp đặt ra.
Chúng tôi cho rằng, việc đánh giá hiệu
qủa kinh tế của cải cách tư pháp phải dựa trên
những tiêu chí sau đây: một là, phải xác định
rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp và đòi hỏi phải tiến hành cải
cách; hai là, xác định rõ những mục tiêu, yêu
cầu và định hướng cải cách; ba là, xác định
đúng chất lượng tổ chức, người tiến hành tố
tụng và hoạt động tư pháp (điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án); bốn là, những biến đổi
thực tế về chất và những lợi ích chính trị, kinh
tế, xã hội mà cải cách tư pháp mang lại; năm
là, mức độ chi phí cụ thể để đạt được mục tiêu
của cải cách tư pháp.
2.1. Xác định thực trạng tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp đòi hỏi phải
cải cách tư pháp
Để đánh giá được hiệu quả của công cuộc
cải cách tư pháp trước tiên phải xác định được
thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan
(3) Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 260.
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 3911
2010
CHÍNH SÁCH
tư pháp trong bối cảnh điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội của một quốc gia đòi hỏi phải tiến
hành cải cách. Đây là tiêu chí đầu tiên làm cơ
sở để so sánh, đánh giá chính xác những kết
quả thực tế trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp do cải cách tư pháp mang lại.
Nếu không đánh giá đúng thực trạng tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong bối
cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước thì
chưa thể phát hiện được những tồn tại, khiếm
khuyết và nguyên nhân gây ra nó và rất khó có
thể đề ra những mục tiêu, yêu cầu và giải pháp
tiến hành cải cách một cách đúng đắn, khách
quan và phù hợp, đồng thời không có căn cứ
làm cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của cải
cách tư pháp.
Để xác định mục tiêu, định hướng cải cách
tư pháp trong điều kiện thực hiện đổi mới toàn
diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế, hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, đánh giá khái quát thực
trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp như sau: Trong những năm qua, hệ thống
các cơ quan tư pháp đã từng bước được củng
cố, kiện toàn. Hoạt động tư pháp đã góp phần
quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, phục
vụ tích cực công cuộc đổi mới4. Tuy nhiên, tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp còn
bộc lộ những khuyết điểm và yếu kém, đó là:
“Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp còn nhiều
bất hợp lý nhưng chậm được đổi mới cho phù
hợp”; “Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số
lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ,
một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu
bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức”; “chất
lượng công tác tư pháp chưa ngang tầm với
yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều
trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công
dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, nhà nước và các cơ quan tư pháp”5. Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đánh giá: “Công tác tư pháp còn bộc
lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, pháp luật
dân sự và pháp luật tố tụng tư pháp còn nhiều
bất cập. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp
còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ
tư pháp còn thiếu... Vẫn còn tình trạng oan sai
trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ
quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”. Kết quả
cuối cùng của cải cách tư pháp là khắc phục
được những bất cập trên đây.
Việc đánh giá đúng thực trạng tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp trước khi
tiến hành cải cách là hết sức phức tạp, bởi
quyền tư pháp ở Việt Nam được thực hiện
thông qua hoạt động xét xử của Toà án và hoạt
động của các cơ quan khác của Nhà nước như
điều tra, công tố, thi hành án và các cơ quan, tổ
chức bổ trợ tư pháp: luật sư, công chứng, giám
định tư pháp v.v.. Nhưng dù có phức tạp đến
đâu chăng nữa thì cũng phải đánh giá, nhận
diện một cách đầy đủ, khách quan, và đúng
đắn thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp trước và sau khi cải cách, làm cơ
sở so sánh với kết quả đạt được sau cải cách
tư pháp, và từ đó mới có thể đánh giá hiệu quả
kinh tế của cải cách tư pháp.
2.2. Mục tiêu, yêu cầu và định hướng cải
cách tư pháp
Mục tiêu, yêu cầu và định hướng cải cách
tư pháp là tiêu chí quan trọng làm cơ sở để
đánh giá hiệu quả của cải cách tư pháp, bởi
đây là cái đích cuối cùng mà cải cách tư pháp
(4) Nghị quyết số 08/-NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, tr.1.
(5) Nghị quyết số 08/-NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, tr.1.
40 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
CHÍNH SÁCH
nhằm đạt được. Cải cách tư pháp được tiến
hành bằng nhiều nguồn lực trong một thời
gian dài (đến năm 2020) mà không đạt được
mục tiêu đề ra, hoặc không đáp ứng yêu cầu
và không theo đúng định hướng đã dự liệu thì
đương nhiên không có hiệu quả kinh tế. Chẳng
hạn, trong Chiến lược cải cách tư pháp ở nước
ta đến năm 2020, Bộ Chính trị đã xác định các
nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án) và các
cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (luật sư, công
chứng, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý)
nhằm đạt được mục tiêu chung là: “Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”6, bảo đảm các hành
vi vi phạm pháp luật đều được xử lý nhanh
chóng, kịp thời, chính xác, đúng pháp luật,
khách quan, công bằng và nghiêm minh, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội và công dân.
Đây là mục tiêu chung bao trùm mà cải
cách tư pháp đặt ra cho tất cả các cơ quan tư
pháp. Để đạt được mục tiêu chung, công cuộc
cải cách tư pháp xác định mục tiêu riêng phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ cải cách của
từng cơ quan tư pháp, đồng thời xác định các
nhiệm vụ và định hướng đổi mới tổ chức và
hoạt động cho từng cơ quan tư pháp cần được
triển khai thực hiện. Ví dụ, để thực hiện mục
tiêu bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên toà và coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ phải “hoàn thiện
các thủ tục tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân
chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người... Khi xét xử, các Toà án
phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan;
việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ,
ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa,
bị cáo nhân chứng và những người có quyền,
lợi ích hợp pháp để đưa ra quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục”7.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, thực hiện
hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam, cải cách tư pháp đã xác
định nhiệm vụ phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp theo hướng phát
huy vai trò của quyền tư pháp trong việc thực
thi quyền lực nhà nước thống nhất nhằm bảo
đảm cho nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã
hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức và cá
nhân đều tuân theo pháp luật và được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở pháp luật, các hành
vi vi phạm pháp luật đều được xử lý nhanh
chóng, chính xác, đúng pháp luật, công bằng
và nghiêm minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà nước, xã hội và công dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW
Đảng (khoá VII) đã đề ra nhiệm vụ đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
theo các định hướng sau đây:
+ Tiếp tục sửa đổi, bổ sung pháp luật, làm
cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp; sớm ban hành các Bộ luật Dân
sự, tố tụng dân sự và những văn bản pháp luật
khác liên quan đến việc giải quyết các tranh
chấp trong nội bộ nhân dân. Nghiên cứu sửa
đổi Bộ luật Hình sự, tố tụng hình sự phù hợp
với tình hình mới. Mở rộng quan hệ quốc tế về
tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và
các tệ nạn xã hội.
+ Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho
TAND cấp quận, huyện theo hướng việc xét
xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở cấp này.
Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Toà
(6) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tr.2.
(7) Nghị quyết số 08/-NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, tr.3-4.
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4111
2010
CHÍNH SÁCH
án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc
thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn
các Toà án địa phương thực hiện xét xử thống
nhất theo pháp luật. Nghiên cứu tiếp tục thành
lập các Toà án chuyên môn”8 và “Sớm xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án
theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản
lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ
Tư pháp9.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, trong phần “Tiếp tục
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” đã đề ra phương hướng đổi mới
tổ chức và hoạt động tư pháp trên cả ba lĩnh
vực, đó là:
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và
hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp,
bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan
tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm
quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân cấp
huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ
trợ tư pháp.
+ Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký toà
án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chấp hành
viên, Công chứng viên, Giám định viên, Luật
sư v.v.. có phẩm chất chính trị và đạo đức chí
công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch,
vững mạnh10.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII
của Đảng về cải cách tư pháp, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba BCHTW Đảng (khoá VIII) đã
xác định: “Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử.
Nghiên cứu thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời
một số vụ án đơn giản, rõ ràng; Toà án nhân
dân Tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét
xử, hướng dẫn các Toà án áp dụng pháp luật
thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét
xử. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm
xét xử vừa đúng đắn vừa nhanh chóng”11.
Kế thừa những nhiệm vụ cải cách tư pháp
mà đảng ta đã đề ra, Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định
các phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư
pháp tiếp tục được triển khai thực hiện đến
năm 202012.
Mục tiêu, yêu cầu và định hướng cải cách tư
pháp chỉ mang lại hiệu quả kinh tế khi nó đáp
ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế
quốc tế, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, phù
hợp với quy luật khách quan và điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội, có tính khả thi trên thực
tế với mức chi phí hợp lý. Trường hợp ngược
lại, mục tiêu, yêu cầu và định hướng cải cách
tư pháp mang tính chủ quan, duy ý chí, không
phù hợp với quy luật khách quan, không phù
hợp với tình độ phát triển kinh tế, xã hội và
không đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền cử dân, do dân và vì dân thì mặc dù mục
tiêu, kết quả cải cách tư pháp có thể đạt được
nhưng cũng không mang lại hiệu quả kinh tế,
mà thực chất là mang lại hậu quả tiêu cực, gây
lãng phí sức người, của cải trong quá trình cải
cách. Tóm lại, cải cách tư pháp chỉ có hiệu quả
khi các mục tiêu, yêu cầu và định hướng đề
ra đã đạt được trong thực tế và góp phần thực
hiện mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước.
2.3. Chất lượng của tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp
Chất lượng của tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế của
(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khoá VII, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 1995, tr. 37-38.
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khoá VII, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 1995, tr. 38-39.
(10) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 132-133.
(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 57.
(12) Xem Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
42 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
CHÍNH SÁCH
cải cách tư pháp, bởi nó vừa là mục tiêu, vừa là
hiện thực hoá kết quả của cải cách tư pháp.
Suy cho cùng, mục tiêu của cải cách tư
pháp là đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp theo định hướng đã đề
ra nhằm nâng cao chất lượng hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm
thực thi có hiệu quả quyền tư pháp trong tổng
thể quyền lực nhà nước thống nhất. Vì vậy, có
thể nói chất lượng của tổ chức và hoạt động
tư pháp chính là những cái thuộc về bản chất
bên trong, cái mang lại giá trị cho nhà nước
và xã hội, thể hiện là nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, có đầy đủ
năng lực để thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ
công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các hành
vi vi phạm pháp luật đều được xử lý nhanh
chóng, kịp thời, chính xác, đúng pháp luật,
khách quan, công bằng và nghiêm minh, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội và công dân. Đó cũng chính là giá trị đích
thực mà cải cách tư pháp mang lại cho Nhà
nước và xã hội thông qua tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp.
Chất lượng cải cách tư pháp cần được thể
hiện thông qua chất lượng của tổ chức, bộ máy,
đội ngũ người thực hiện các hoạt động tư pháp
(chất lượng hình thức) và chất lượng hoạt động
tư pháp (chất lượng nội dung). Về mặt hình
thức, mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp bao
gồm các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án phải được đổi mới theo định hướng mà
Chiến lược cải cách tư pháp đa đặt ra, đó là bộ
máy các cơ quan tư pháp phải gọn nhẹ có hiệu
lực và hiệu quả; sắp xếp, kiện toàn tổ chức cơ
quan Viện kiểm sát nhân dân; thu gọn đầu mối
các cơ quan điều tra; tập trung nhiệm vụ quản
lý công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp; thành
lập Cảnh sát tư pháp để hỗ trợ công tác thi hành
án hình sự, dân sự. Thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử; phân định lại thẩm quyền xét xử của
Toà án và thẩm quyền của các cơ quan tư pháp;
đổi mới thủ tục giám đốc thẩm và nghiên cứu
áp dụng thủ tục rút gọn để bảo đảm việc xét xử
vừa đúng đắn vừa nhanh chóng.
Chất lượng tổ chức hệ thống các cơ quan
tư pháp còn thể hiện ở chỗ nó đáp ứng với yêu
cầu cải cách hành chính, hoàn thiện bộ máy
nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền Việt Nam và phù hợp với điều kiện kinh
tế, văn hoá, xã hội của đất nước và hội nhập
quốc tế. Đội ngũ cán bộ tư pháp phải thật sự
trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt và có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ vững vàng.
Về mặt nội dung, chất lượng của các cơ
quan tư pháp thể hiện thông qua các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và hoạt
động bổ trợ tư pháp, nhằm thực hiện quyền
tư pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước
thống nhất. Chất lượng của hoạt động tư pháp
thể hiện ở chỗ bảo đảm các hành vi vi phạm
pháp luật đều được xử lý nghiêm minh, nhanh
chóng, kịp thời, chính xác, khách quan, công
bằng và đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công
dân; không bỏ lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội. Sẽ không có hiệu quả kinh tế nếu
sau cải cách, tổ chức bộ máy các cơ quan tư
pháp cồng kềnh, chồng chéo; đội ngũ cán bộ tư
pháp vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chuyên
môn, nghiệp vụ và hoạt động tư pháp không
có chất lượng, không đáp ứng yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền, tội phạm, tranh chấp xã hội
phát triển, còn bỏ lọt tội phạm hay làm oan
người vô tội.
2.4. Những biến đổi thực tế và những lợi ích
chính trị, kinh tế, xã hội mà cải cách tư pháp
mang lại
Đây là tiêu chí phức tạp nhất, bởi cải cách
tư pháp có phạm vi ảnh hưởng rộng, tác động
đến nhiều cơ quan, tổ chức, con người, cơ sở
vật chất, tư tưởng, ý thức, tâm lý của các chủ
thể. Những biến đổi thực tế so với trạng thái
ban đầu và những lợi ích do cải cách tư pháp
mang lại thường được đánh giá theo các lĩnh
vực cơ bản của đời sống xã hội như kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội và những đổi mới
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp.
Về mặt hình thức, cải cách tư pháp mang
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4311
2010
CHÍNH SÁCH
lại những biến đổi về mô hình tổ chức, bộ máy
các cơ quan tư pháp theo hướng gọn, nhẹ, có
hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại, phù hợp
với cải cách hành chính nhà nước, góp phần
hoàn thiện bộ máy nhà nước. Đội ngũ cán bộ
tư pháp được tinh giản và tăng cường đủ năng
lực thực hiện các hoạt động tư pháp. Cơ sở vật
chất, trụ sở, trang thiết bị làm việc được đầu tư
đầy đủ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Về mặt nội dung, chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của các cơ quan tư pháp được sắp xếp
lại trong toàn bộ hệ thống và trong nội bộ từng
cơ quan tư pháp một cách khoa học, phù hợp
với lý luận và thực tiễn cuộc sống, khắc phục
tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo; trình tự, thủ
tục tố tụng được đổi mới theo hướng đơn giản
hoá nhưng vẫn bảo đảm chặt chẽ khắc phục
bệnh quan liêu, gây phiền hà cho người tham
gia tố tụng, bảo đảm giải quyết kịp thời những
xung đột xã hội. Hiệu quả của cải cách tư pháp
còn thể hiện ở những lợi ích chính trị (thực
hiện quyền tư pháp, hoàn thiện bộ máy nhà
nước, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ quyền
tự do dân chủ của nhân dân...); lợi ích kinh
tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nước, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, tạo môi
trường pháp lý ổn định và cơ chế giải quyết
tranh chấp nhanh chóng, kịp thời để thúc đẩy
kinh tế phát triển và lợi ích xã hội (môi trường
xã hội lành mạnh, trật tự an toàn xã hội được
bảo đảm). Trường hợp ngược lại, cải cách tư
pháp diễn ra, chi phí tốn kém nhưng không
mang lại những biến đổi (cái mới) tích cực và
không mang lại lợi ích nhiều hơn so với trạng
thái ban đầu thì không có hiệu quả.
Khi đánh giá hiệu quả của cải cách tư pháp
cần phải xác định được những biến đổi về số
lượng, chất lượng hay trạng thái của từng lĩnh
vực. Chẳng hạn, khi đánh giá hiệu quả của
hoạt động tư pháp cần xem xét sự biến đổi về
kết quả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
trên cơ sở số lượng vụ việc tăng hay giảm; chất
lượng tốt hay xấu; có khắc phục được những
tiêu cực hay không, cải cách tư pháp có ảnh
hưởng tích cực và mang lại lợi ích kinh tế,
chính trị, xã hội lớn hơn so với trạng thái trước
khi cải cách. Trên cơ sở xác định được những
biến đổi thực tế của tổ chức và hoạt động tư
pháp cả về chất và lượng, cùng với những lợi
ích mà cải cách tư pháp mang lại cùng với các
tiêu chí khác, chúng ta sẽ đánh giá được hiệu
quả kinh tế của cải cách tư pháp và của chính
các cơ quan tư pháp.
2.5. Mức chi phí hợp lý để đạt được mục tiêu
của cải cách tư pháp
Dưới góc độ kinh tế, chi phí cho cải cách
tư pháp thể hiện thực tế sử dụng các nguồn lực
khác nhau để thực hiện được mục tiêu của cải
cách tư pháp như: số lượng người tham gia,
thời gia vật chất thực hiện cải cách, chi phí về
cơ sở vật chất, ngân sách, tinh thần và những
chi phí khác bảo đảm cho cuộc cải cách thành
công. Chi phí cải cách tư pháp tập trung vào
các hoạt động cơ bản sau đây:
- Chi phí cho việc nghiên cứu xây dựng,
hội thảo, toạ đàm, thẩm định, thông qua Chiến
lược cải cách tư pháp và tổ chức quán triệt, tổ
chức triển khai thực hiện Chiến lược;
- Chi phí cho việc nghiên cứu các đề tài
khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn của cải cách tư pháp; chi phí cho
công tác khảo sát, tổng kết, sơ kết, đánh giá
thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách, pháp luật và thiết kế mô hình các
cơ quan tư pháp phù hợp; thu thập thông tin,
tài liệu và kinh nghiệm cải cách tư pháp của
các nước trên thế giới;
- Chi phí cho việc rà soát hệ thống hoá các
văn bản pháp luật có liên quan, trên cơ sở đó
tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc xây
dựng mới, tổ chức lấy ý kiến góp ý, thẩm định,
thông qua, công bố và tổ chức thực hiện các dự
án luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp;
- Chi phí về cơ sở vật chất, trụ sở, trang
thiết bị làm việc, phương tiện đi lại của các
cơ quan tư pháp theo yêu cầu của cải cách tư
pháp; công sức, thời gian dành cho cải cách tư
pháp;
- Chi phí cho các hoạt động điều tra, truy tố,
44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
CHÍNH SÁCH
xét xử, thi hành án của các cơ quan tư pháp và
các hoạt động bổ trợ tư pháp;
- Chi phí cho hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra việc tuân theo pháp luật, áp dụng
pháp luật và xử lý vi phạm của các cơ quan có
thẩm quyền;
- Chi phí cho việc đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
năng thực hành cho đội ngũ cán bộ tư pháp đáp
ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và những chi
phí cần thiết khác.
Dưới góc độ hiệu quả kinh tế của cải cách
tư pháp thì các chi phí cho các hoạt động trên
đây phải hợp lý hoặc ở mức thấp nhất nhưng
vẫn bảo đảm đạt được mục tiêu và yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp đặt ra và mang lại
lợi ích chung cho Nhà nước, xã hội và mỗi
công dân. Không thể nói đến hiệu quả kinh tế
nếu như chi phí cho cải cách quá tốn kém hoặc
chi phí lớn hơn lợi ích mang lại sau cải cách.
Lợi ích ở đây không chỉ là lợi ích kinh tế có
thể cân đong, đo, đếm được mà bao hàm cả lợi
ích chính trị, xã hội, sức khoẻ và tính mạng của
mỗi con người mà không thể định giá được.
Đây là những lợi ích phù hợp với mục tiêu và
nhiệm vụ của cải cách tư pháp.
Quán triệt những quan điểm cải cách tư
pháp của Đảng, sử dụng phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, bằng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê
kết hợp chặt chẽ với phương pháp khảo sát
thực tiễn và điều tra xã hội học, trên cơ sở
những tiêu chí trên đây, chúng ta có thể đánh
giá được hiệu quả kinh tế của công cuộc cải
cách ở Việt Nam.
quyết định sơ thẩm không? Theo chúng tôi,
vì bản án, quyết định sơ thẩm là kết quả của
quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án
nên để xác định số phận pháp lý của bản án,
quyết định sơ thẩm phải dựa trên cơ sở xem
xét của Hội đồng xét xử phúc thẩm, nên trong
trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở
phiên tòa để xem xét việc rút yêu cầu của các
đương sự có xuất phát từ ý chí tự nguyện hay
không? có trái pháp luật và đạo đức xã hội hay
không? có thuộc giới hạn của phạm vi xét xử
phúc thẩm không? các đương sự khác có đồng
ý với việc rút yêu cầu của đương sự không? Và
khi Tòa án cấp phúc thẩm đã mở phiên tòa xét
xử thì trong mọi trường hợp, Hội đồng xét xử
phúc thẩm đều ra bản án để giải quyết số phận
pháp lý của bản án sơ thẩm.
Vì vậy, theo chúng tôi, Điều 269 BLTTDS
nên quy định theo hướng:
1. Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm nhận được
đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị của Viện
kiểm sát, đương sự có quyền rút một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu một cách tự nguyện, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hội đồng
xét xử phúc thẩm hỏi ý kiến của các đương
sự khác và tùy từng trường hợp mà giải quyết
như sau:
a. Các đương sự khác không đồng ý thì
không chấp nhận việc rút yêu cầu của đương
sự và Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn tiếp tục
giải quyết vụ án trên cơ sở kháng cáo, kháng
nghị.
b. Các đương sự khác đồng ý thì Hội đồng
xét xử chấp nhận việc rút yêu cầu của đương
sự đồng thời ra bản án đình chỉ giải quyết đối
với yêu cầu đã rút và hủy một phần hoặc toàn
bộ bản án sơ thẩm mà đương sự đã rút.
VIệC RÚT YÊU CẦU CỦA
ĐƯƠNG SỰ...
(Tiếp theo trang 35)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_kinh_te_cua_cai_cach_tu_phap_mot_so_van_de_ve_phuon.pdf