Bên cạnh rủi ro sản xuất (production risk), rủi ro
thể chế (institutional risk), rủi ro do
con người (individual risk) và rủi ro tài chính
(financial risk), nông hộ thường xuyên chịu ảnh
hưởng và đối mặt với rủi ro giá (price or
marketing risk) (George R. Patrick và ctv, 1985;
Gudbrand Lien và ctv, 2003; James Hanson và
ctv, 2004; World Bank, 2005). Biến động giá đầu
ra là một nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro
trong nông nghiệp. Tình trạng “mất mùa được
giá” hay “được giá mất mùa” luôn tồn tại và diễn
biến phức tạp. Vì vậy, dù năng suất có tăng cao
nhưng khi thu hoạch vào thời điểm “rớt giá” thì
hiệu quả kinh tế cũng là bài toán nan giải. Kết quả
khảo sát cho thấy, tại Hàm Thuận Bắc, do chi phí
đầu tư cho thanh long ở quy trình bón phân của
nông dân vào vụ nghịch khá cao (cao hơn so với
quy trình bón phân cân đối) nhưng năng suất lại
thấp (thấp hơn quy trình bón phân cân đối) và thời
điểm thu hoạch lại gặp rủi ro về giá (giá khá thấp
(8.000 – 14.500 đồng/kg)) nên đã dẫn đến lợi
nhuận âm hay nói cách khác, ở nghiệm thức đối
chứng (bón phân theo quy trình của nông dân),
nông hộ bị lỗ vào vụ nghịch; từ đó, dẫn đến lợi
nhuận âm trong cả năm. Trong khi đó, bảng 7 cho
thấy, vào thời điểm này, do năng suất cao hơn và
mức đầu tư thấp hơn nên quy trình thử nghiệm
vẫn có lời và cho mức lợi nhuận cao hơn đối
chứng 120.101.000 đồng/ha.
Như vậy, xét trong một năm, quy trình bón phân
cân đối đã làm tăng lợi nhuận đến 62.464,3 đến
122.722,7 nghìn đồng/ha.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả mô hình bón phân cân đối trên thanh long ruột trắng (hylocereus undatus) giai đoạn kinh doanh tại tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
68
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH BÓN PHÂN CÂN ĐỐI TRÊN THANH LONG RUỘT TRẮNG
(Hylocereus undatus) GIAI ĐOẠN KINH DOANH TẠI TỈNH BÌNH THUẬN
Thái Nguyễn Diễm Hương1, Võ Thái Dân1, Nguyễn Hào Hiệp1, Nguyễn Thị Uyên Nhiên1
1Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 06/05/2019
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
09/12/2019
Ngày chấp nhận đăng:
04/2020
Title:
Effect of balanced fertilizer
application model on white
flesh pitaya (Hylocereus
undatus) during bearing - fruit
stage in Binh Thuan province
Keywords:
Balanced fertilizer
application, white flesh pitaya,
bearing-fruit stage
Từ khóa:
Bón phân cân đối, thanh long
ruột trắng, giai đoạn kinh
doanh
ABSTRACT
This field experiment was arranged on large scale, without replication, two
pilot experiments were applied balanced fertilizer (full of macro-nutrients,
balance in on-season and off-season) (On-season: 5 kg cow manure + 1 kg
micro-organic fertilizer + 150 g N + 100 g P2O5 + 200 g K2O + 150 g CaO
+ 5 g MgO/pillar; off – season: 5 kg cow manure + 1 kg micro-organic
fertilizer + 250 g N + 200 g P2O5 + 300 g K2O + 150 g CaO + 5 g
MgO/pillar) and control (fertilizers applied as farmer’s produce), was
carried out in Ham Thuan Nam and Ham Thuan Bac district, Binh Thuan
province from March, 2015 to March, 2016. The purpose of the study was to
evaluate the effect of balanced fertilizer application model on yield, quality
and income in white flesh pitaya production. The result showed balanced
fertilizer application helped increase yield from 28,78 – 40,74% in on–
season; 13,37 – 43,48% in off-season and income from 62.464.300
VND/ha/year to 122.722.700 VND/ha/year when compared with control.
TÓM TẮT
Thí nghiệm diện rộng, không lặp lại, gồm mô hình bón phân cân đối (bón
đầy đủ các nguyên tố đa lượng, cân bằng giữa vụ thuận và nghịch) (Vụ
thuận: 5 kg phân bò + 1 kg phân hữu cơ vi sinh + 150 g N + 100 g P2O5 +
200 g K2O + 150 g CaO + 5 g MgO/trụ/vụ; vụ nghịch: 5 kg phân bò + 1 kg
phân hữu cơ vi sinh + 250 g N + 200 g P2O5 + 300 g K2O + 150 g CaO + 5
g MgO/trụ/vụ) và đối chứng (bón phân theo quy trình của nông dân) được bố
trí tại huyện Hàm Thuận Nam và Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận từ tháng
3/2015 đến tháng 3/2016. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá ảnh hưởng
của 2 mô hình bón phân đến năng suất, phẩm chất và hiệu quả kinh tế thanh
long ruột trắng. Kết quả đã chỉ ra rằng quy trình bón phân cân đối giúp tăng
năng suất thanh long ruột trắng giai đoạn nuôi quả từ 28,78 – 40,74% vào
vụ thuận; 13,37 – 43,48% vào vụ nghịch và tăng lợi nhuận từ 62.464,3 –
122.722,7 nghìn đồng/ha/năm so với đối chứng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quản lý dinh dưỡng cây trồng trong sản xuất nông
nghiệp là một khâu quan trọng trong việc xây
dựng hệ thống nông nghiệp bền vững. Việc thiếu
hay thừa bất kì một nguyên tố dinh dưỡng nào
cũng làm giới hạn năng suất cây trồng, đặc biệt là
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
69
một số nguyên tố ít được người dân chú ý trong
quá trình canh tác mặc dù cây cần với một lượng
khá lớn như canxi, magie.
Trong những năm vừa qua, do nhu cầu phát triển
lớn và giá trị kinh tế của thanh long, diện tích
trồng thanh long ngày càng mở rộng. Cùng với
việc đầu tư thâm canh, rải vụ nhiều năm lại không
được bổ sung dinh dưỡng hợp lí và kịp thời đã
khiến nguồn tài nguyên đất bị khai thác quá mức,
cây thanh long trở nên kiệt quệ, giảm sức chống
chịu với sâu bệnh hại. Việc sử dụng quá nhiều
phân bón hóa học và bón phân không cân đối đã
làm cho đất trồng thanh long ngày càng suy kiệt
sức sản xuất. Bên cạnh đó, độ phì nhiêu của đất
trồng thanh long dễ bị suy giảm do tàn dư không
để lại trên đồng ruộng. Vì vậy, nguồn dinh dưỡng
trong đất bị lấy đi là chủ yếu.
Kết quả khảo sát về hiện trạng sử dụng phân bón
trên thanh long năm 2014 tại Bình Thuận cho thấy
các nông hộ có đầu tư phân hữu cơ, bón phân
NPK với liều lượng khá nhưng ít quan tâm đến
canxi, magie cũng như cải thiện pH đất dẫn đến
năng suất thanh long bị giới hạn. Mặt khác, việc
bón phân thiếu tính cân đối (tập trung bón với một
lượng khá lớn vào vụ nghịch (thời điểm thanh
long có giá cao) nhưng lại ít đầu tư vào vụ thuận)
cũng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến cây thanh long
nói chung và năng suất thanh long nói riêng (Thái
Nguyễn Diễm Hương và cs., 2017). Trên cơ sở kế
thừa kết quả thí nghiệm trước đó về ảnh hưởng
của một số nguyên tố dinh dưỡng đến năng suất
và phẩm chất thanh long ruột trắng giai đoạn kinh
doanh, quy trình bón phân cân đối cho thanh long
bón đầy đủ dinh dưỡng và cân đối ở cả hai vụ
thuận – nghịch được xây dựng. Đề tài được tiến
hành nhằm khảo sát hiệu quả của quy trình bón
phân cân đối cho thanh long so với quy trình bón
phân thông thường của nông dân tại Bình Thuận
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm
Đề tài đã được thực hiện từ tháng 03/2015 đến
tháng 03/2016 trên nền đất thịt pha cát ở xã Hàm
Minh, huyện Hàm Thuận Nam và nền đất ruộng ở
xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
2.2 Điều kiện thí nghiệm
2.2.1 Đất đai
Theo kết quả phân tích đất của Trung tâm kỹ thuật
đo lường chất lượng Bình Thuận năm 2014, đất
đai tại khu vực thí nghiệm có đặc điểm:
- Hàm Thuận Nam: Đất thịt pha cát, đất ít chua
(pHKCl 6,02), hàm lượng chất hữu cơ thấp, hàm
lượng đạm tổng số khá (0,19%), hàm lượng
lân tổng số khá (0,10%) nhưng hàm lượng lân
dễ tiêu lại rất nghèo (0,35 mg/100 g), hàm
lượng kali tổng số nghèo (0,28%), hàm lượng
kali dễ tiêu rất giàu (18,07 mg/100 g), khả
năng trao đổi cation thấp.
- Hàm Thuận Bắc: Nền đất trước đây trồng lúa, sa
cấu thịt pha cát, đất ít chua (pHKCl 6,22), hàm
lượng chất hữu cơ thấp, hàm lượng đạm tổng số
trung bình (0,12%), lân tổng số rất giàu, kali tổng
số ở mức trung bình nhưng hàm lượng lân và
kali dễ tiêu ở mức rất nghèo, canxi khá, magie
trung bình, khả năng trao đổi cation thấp
2.2.2 Thời tiết
Theo Trạm khí tượng thủy văn khu vực Phan Thiết
(2016), nhiệt độ không khí và số giờ nắng trong
thời gian làm thí nghiệm vụ thuận (từ tháng
03/2015 đến tháng 10/2015) phù hợp cho sự sinh
trưởng của cây thanh long. Tuy nhiên, lượng mưa
và ẩm độ trong giai đoạn này tương đối cao tạo
môi trường thuận lợi cho nấm bệnh phát triển nên
cần làm vệ sinh vườn tốt để giảm bệnh hại. Trong
vụ nghịch (tháng 10/2015 đến tháng 03/2016),
nhiệt độ không khí và số giờ nắng trong thời gian
làm thí nghiệm phù hợp cho sự sinh trưởng của
cây thanh long. Tuy nhiên, lượng mưa và ẩm độ
trong giai đoạn này tương đối thấp nên cần cung
cấp nước tưới để cây sinh trưởng và phát triển tốt.
2.3 Vật liệu thí nghiệm
- Vườn thanh long ruột trắng giai đoạn kinh
doanh đồng đều về sinh trưởng, độ tuổi và chế
độ chăm sóc.
- Các loại phân bón sử dụng trong thí nghiệm:
• Phân bò
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
70
Bảng 1. Hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong phân bò
Nguồn: Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Bình Thuận, 2014
• Vôi bột: dạng bột mịn, màu trắng, thành phần
là vôi bột nung, hàm lượng CaO >30%. Sản
phẩm của cơ sở sản xuất vôi Tấn Phát.
• Ure Phú Mỹ (N: 46,3%): Phân có dạng tinh thể
hạt, màu trắng, có mùi, sản phẩm của Tổng
Công ty phân bón và hóa chất dầu khí
(PVFCCo).
• Kali đỏ (K2O: 60%): Phân có dạng bột mịn,
màu nâu đỏ, sản phẩm của Tổng Công ty phân
bón và hóa chất dầu khí (PVFCCo)
• Lân nung chảy (P2O5: 16%): Phân có dạng bột
mịn, cỡ hạt < 0,5 mm, sản phẩm của Công ty
cổ phần lân nung chảy Văn Điển.
• Super lân Long Thành (P2O5: 16%): Phân có
dạng bột mịn, màu xám đen, sản phẩm của
Công ty phân bón miền Nam.
• Magnesium Sulphate (MgSO4.7H2O): 16,3%
MgO, dạng tinh thể hạt, màu trắng, có mùi, dễ
tan trong nước.
• Phân hữu cơ vi sinh Thiên Hòa – VS1: Phân
dạng hạt nhỏ, màu đen và có mùi khai, sản
phẩm của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển
Thiên Hòa. Thành phần: Hữu cơ: 15 %; Axit
Humic: 0,5%; N: 0,5%; P2O5: 3%; K2O: 0,5%;
Cu: 60 ppm; Zn: 60 ppm; Fe: 3 ppm; B: 10
ppm; Mn: 38 ppm; Mo: 2 ppm; Vi sinh vật:
Tên chỉ tiêu Kết quả Phương pháp thử
pHH2O 8,03
TCVN 5979 –
2007
pHKCl 7,7
TCVN 5979 –
2007
Độ ẩm % 30,0
TCVN 9297 –
2012
Dung lượng cation trao đổi (CEC) cmol(+)/kg 8,0
TCVN 8568 –
2010
Hàm lượng nitơ tổng số % 0,89
TCVN 8557 –
2010
Hàm lượng (P2O5) tổng số % 0,77
TCVN 8563 –
2010
Hàm lượng (P2O5) hữu hiệu % 0,51
TCVN 8559 –
2010
Hàm lượng K2O tổng số % 1,66
TCVN 8562 –
2010
Hàm lượng K2O hữu hiệu % 1,28
TCVN 8560 –
2010
Hàm lượng chất hữu cơ tổng số % 48,9
TCVN 9297 –
2012
Hàm lượng canxi (Ca2+) % 0,68
Ref AOAC
964.01
Hàm lượng magie (Mg2+) % 0,50
Ref AOAC
964.01
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
71
Azotobacter, Trichoderma, Bacillus polymixa
(1 x 106 cfu/g mỗi loại).
• Phân NPK Đầu trâu 20-20-15+TE: Phân dạng
hạt, màu đen. Thành phần: N: 20%; P2O5:
20%; K2O: 15%; CaO: 0,25%; MgO: 0,35%;
S: 0,5%; Fe: 10 ppm; Cu: 5 ppm; Bo: 10 ppm.
• Phân hữu cơ sinh học Trimix – N1: Sản phẩm
của công ty phân bón Điền Trang, sản phẩm có
chứa hệ vi sinh vật Trichoderma,
Streptomyces, Bacillus, ...
• Vôi vi trung lượng Humic: Hàm lượng dinh
dưỡng gồm: CaO 35%, MgO 7%, S 0,1%, Zn
10.000 ppm, B 10.000 ppm, Mn, Fe, Cu: 500
ppm. Sản phẩm của công ty cổ phần hữu cơ.
• + Phân Tím Đức: thành phần dinh dưỡng gồm:
N: 15%, P2O5: 3%; K2O: 20%; MgO: 2%; S:
10%; B: 0,02%; Zn: 0,01%; Fe: 0,06%. Sản
phẩm của công ty Compo, Đức.
• Phân cá dạng viên Alaska: thành phần dinh
dưỡng: N: 5%, P2O5: 1%, K2O: 1%, Ca: 0,01%
, Mg: 0,1% , S: 0,5% , Na: 1%, Zn: 5ppm ,
Mn: 5ppm, Cu: 5ppm. Sản phẩm của công ty
Grow More, Mỹ.
2.4 Phương pháp thí nghiệm
Hai thí nghiệm được bố trí diện rộng trên nền đất
thịt pha cát của Hàm Thuận Nam và nền đất trước
đây trồng lúa của Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận, gồm 2 NT, NT1: Bón phân theo quy trình
bón phân cân đối (BPCĐ), NT2: đối chứng (bón
theo quy trình của nông dân); mỗi quy trình thực
hiện trên 500 trụ thanh long đồng đều về độ tuổi,
chế độ chăm sóc và sinh trưởng. Tổng diện tích
mỗi khu thí nghiệm: 10.000 m2.
Bảng 2. Liều lượng phân bón trong các quy trình thí nghiệm
Vụ
Hàm Thuận Nam Hàm Thuận Bắc
NT1: Quy trình
BPCĐ
NT2: Đối
chứng
NT1: Quy trình
BPCĐ
NT2: Đối chứng
Vụ
thuận
- Đầu vụ bón 5 kg
phân bò + 100 g P2O5
+ 150 g CaO + 5 g
MgO/trụ (tương
đương 625 g lân nung
chảy + 500 g vôi + 30
g Magnesium
sulphate).
- Giữa vụ: 1 kg phân
hữu cơ vi sinh/trụ
- Định kì 1,5
tháng/lần (4 lần/vụ):
150 g N + 200 g
K2O/trụ/vụ (tương
đương 320 g Đạm
Phú Mỹ + 330 g Kali
Phú Mỹ)
Bón 1
lần vào đầu
vụ 60 g N +
172 g P2O5 +
45 g K2O +
0,75 g CaO +
1,05 g MgO +
1,5 g S/trụ và
một số
nguyên tố vi
lượng khác
tương đương
300 g NPK
Đầu trâu 20-
20-15 TE +
700 g lân
nung chảy/trụ.
- Đầu vụ bón 5 kg
phân bò + 100 g
P2O5 + 150 g CaO +
5 g MgO/trụ (tương
đương 625 g lân
nung chảy + 500 g
vôi + 30 g
Magnesium
sulphate).
- Giữa vụ: 1 kg phân
hữu cơ vi sinh/trụ
- Định kì 1,5
tháng/lần (4 lần/vụ):
150 g N + 200 g
K2O/trụ/vụ ( tương
đương 320 g Đạm
Phú Mỹ + 330 g Kali
Phú Mỹ)
- Đầu vụ bón 48 g P2O5 + 60
g K2O (tương đương 300 g
super lân Long Thành + 100
g KCl).
- 21 ngày sau đậu quả vụ
thuận và chuẩn bị cho vụ
nghịch: Bón 1 kg phân hữu
cơ vi sinh + 60 g CaO (tương
đương 200 g vôi bột)
Vụ
nghịch
- Đầu vụ bón 5 kg
phân bò + 200 g P2O5
+ 150 g CaO + 5 g
- Đầu vụ bón
10 kg phân bò
+ 1 kg phân
- Đầu vụ bón 5 kg
phân bò + 200 g
P2O5 + 150 g CaO +
Bón theo đợt chong đèn (4
lần/đợt): Lần 1 bón trước khi
chong đèn, 900 g phân cá +
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
72
MgO/trụ (tương
đương 1.250 g lân
nung chảy + 500 g vôi
+ 30 g Magnesium
sulphate).
- Giữa vụ bón 1 kg
phân hữu cơ vi
sinh/trụ.
- Phân đạm và kali:
bón theo đợt chong
đèn (3 lần/đợt), lượng
250 g N + 300 g
K2O/trụ/vụ (tương
đương 540 g Đạm
Phú Mỹ + 500 g Kali
Phú Mỹ): Lần 1 ở 10
ngày trước chong đèn;
lần 2 ở 7 ngày sau rút
râu và lần 3 ở 10 ngày
sau bón lần 2.
hữu cơ vi sinh
+ 18 g
P2O5/trụ
(tương đương
300 g lân
nung chảy).
- Bón theo đợt
chong đèn (2
lần/đợt) lượng
132 g N + 40
g P2O5 + 150
g K2O + 0,5 g
CaO + 0,7 g
MgO + 1 g
S/trụ/vụ
(tương đương
200 g NPK
Đầu trâu 20-
20-15 TE +
200 g Đạm
Phú Mỹ + 200
g Kali Phú
Mỹ): Lần 1
sau khi cây ra
nụ 10 ngày và
lần 2 sau rút
râu
5 g MgO/trụ (tương
đương 1.250 g lân
nung chảy + 500 g
vôi + 30 g
Magnesium
sulphate).
- Giữa vụ bón 1 kg
phân hữu cơ vi
sinh/trụ.
- Phân đạm và kali
bón theo đợt chong
đèn (3 lần/đợt),
lượng 250 g N + 300
g K2O/trụ/vụ (tương
đương 540 g Đạm
Phú Mỹ + 500 g Kali
Phú Mỹ): Lần 1 ở 10
ngày trước chong
đèn; lần 2 ở 7 ngày
sau rút râu và lần 3 ở
10 ngày sau bón lần
2.
90 g N + 18 g P2O5 + 120 g
K2O + 12 g MgO + 60 g S +
0,12 g B + 0,06 g Zn + 0,36
g Fe/trụ/vụ (tương đương
900 g phân cá + 600 g Tím
Đức 15-3-20-2 TE); lần 2
bón sau khi xuất hiện nụ, 900
g phân cá 90 g CaO + 90 g N
+ 18 g P2O5 + 120 g K2O +
12 g MgO + 60 g S + 0,12 g
B + 0,06 g Zn + 0,36 g Fe
(tương đương 900 g phân cá
+ 300 g vôi + 600 g Tím
Đức 15-3-20-2 TE); lần 3
bón trước khi rút râu, 900 g
phân cá + 90 g N + 18 g
P2O5 + 120 g K2O + 12 g
MgO + 60 g S + 0,12 g B +
0,06 g Zn + 0,36 g Fe/trụ
(tương đương 900 g phân
cá/trụ + 600 g Tím Đức 15-
3-20-2 TE) và lần 4 ở 15
ngày sau rút râu, 90 g N + 18
g P2O5 + 120 g K2O + 12 g
MgO + 60 g S + 0,12 g B +
0,06 g Zn + 0,36 g Fe/trụ (
tương đương 600 g Tím Đức
15-3-20-2 TE)
❖ Phương pháp bón: Cào nhẹ lớp rơm tủ gốc
thanh long, rải đều phân trên mặt đất xung
quanh tán trụ, sau đó tủ rơm lại và tưới nước
cho phân tan.
Chỉ tiêu theo dõi
Mỗi nghiệm thức chọn ngẫu nhiên 30 điểm, mỗi
điểm gồm 3 trụ. Như vậy, tổng số trụ theo dõi là
90 trụ/NT để theo dõi các chỉ tiêu:
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất:
• Tổng số trái/ trụ: Đếm toàn bộ số trái được thu
hoạch trên các trụ theo dõi.
• Trọng lượng trung bình trái (g) = (tổng trọng
lượng trái đem cân (kg)/tổng số trái đem cân
(trái)) x 10-3 (chỉ tính trên những trụ theo dõi).
• Năng suất lý thuyết (kg/trụ) = Trọng lượng
trung bình trái x tổng số trái/ trụ x 103.
• Năng suất thực tế (kg/trụ): cân toàn bộ số trái
thu hoạch trên toàn nghiệm thức.
- Phẩm chất thanh long: Lấy mẫu ngẫu nhiên
4 trái/trụ theo TCVN 5102:1990 để đo đạc các
chỉ tiêu sau:
• Chiều dài trái (cm): Đo từ cuống trái đến chóp
trái bằng thước kẹp
• Đường kính trái (cm): Đo ở phần phình to nhất
của trái bằng thước kẹp
• Chiều dài tai, chiều rộng chân tai, độ dày tai
(cm): Đo bằng thước kẹp ở 3 tai ở phần đầu
trái, sau đó lấy giá trị trung bình
• Độ dày vỏ (cm): Cắt ngang trái, đo bằng thước
kẹp
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
73
• Tỉ lệ thịt trái (%): Tính theo trọng lượng trái
• Độ Brix (%): Đo bằng Brix kế ATAGO của
Nhật (thang đo 0 – 32%) ở 3 vị trí, sau đó lấy
giá trị trung bình
- Các chỉ tiêu cảm quan
Để đánh giá cảm quan trái thanh long, hội đồng
cảm quan được thành lập gồm 10 người có hiểu
biết về trái thanh long. Quy trình đánh giá cảm
quan được cụ thể hóa với 8 chỉ tiêu cảm quan:
dạng quả, màu sắc vỏ quả, màu sắc tai quả, hình
thức chung, độ tróc thịt quả, màu sắc và lượng
nước thịt quả, mật độ và kích thước hạt, hương vị
thịt quả được đánh giá riêng lẻ bằng cách cho
điểm theo thang điểm từ thấp đến cao với thang
điểm hệ 5 (dạng quả, màu sắc vỏ quả, màu sắc tai
quả, hình thức chung, độ tróc thịt quả, mật độ và
kích thước hạt) và hệ 10 (màu sắc và lượng nước
thịt quả, hương vị thịt quả).
- Đánh giá hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được tính trên mỗi nghiệm thức
rồi qui ra 1 hecta với mật độ trồng là 1.000 trụ/ha.
Đơn vị tính: 1.000 đồng.
Tổng chi = Chi phí phân bón và chất kích thích
sinh trưởng + Thuốc bảo vệ thực vật + Công lao
động + Chi phí chong đèn (vụ nghịch).
Tổng thu = Giá bán thanh long ở từng thời điểm x
năng suất.
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi.
Chênh lệch lợi nhuận so với đối chứng = Lợi
nhuận thu được từ mô hình BPCĐ – Lợi nhuận
thu được từ mô hình đối chứng.
2.5 Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được tổng hợp và phân tích thống
kê mô tả và so sánh t – test bằng phần mềm Excel.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Hiệu quả của quy trình bón phân cân đối
đến các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất thanh long tại tỉnh Bình Thuận
Tại Bình Thuận, vào vụ thuận, do giá cả thanh
long xuống thấp nên nông dân ít quan tâm đến
việc bón phân cho cây (quy trình đối chứng). Tại
Hàm Thuận Nam, việc cung cấp phân bón cho
thanh long trong giai đoạn này chỉ thực hiện một
lần vào đầu vụ với loại phân chủ yếu là NPK 20 –
20 – 15 + TE kết hợp phân lân nung chảy. Trong
khi đó, ở Hàm Thuận Bắc, việc bón phân trong
giai đoạn này được thực hiện 2 lần, nhưng chỉ có
lần một bón vào đầu vụ với phân lân và kali
(không bón đạm); thời điểm bón của lần 2 mặc dù
diễn ra trong vụ thuận nhưng chủ yếu chuẩn bị
cho vụ nghịch (21 ngày sau đợt đậu quả cuối của
vụ thuận – bón phân hữu cơ vi sinh và vôi bột)
(Bảng 2). Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất trên
thanh long. Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác
biệt rất có ý nghĩa thống kê về số quả/trụ/vụ, khối
lượng trung bình quả và năng suất lý thuyết của
thanh long giữa quy trình bón phân cân đối và quy
trình đối chứng của nông dân trồng thanh long tại
Bình Thuận khi so sánh bằng phép thử t - test.
Việc cung cấp đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng
cần thiết (đạm, lân, kali, canxi, magie), phân bò
(vào đầu vụ), phân hữu cơ vi sinh (giữa vụ) của
quy trình bón phân cân đối đã giúp cây hồi phục
sau đợt khai thác quá mức trong vụ nghịch. Vì
vậy, quy trình đã làm tăng số quả/trụ, khối lượng
trung bình quả và năng suất của thanh long so với
đối chứng (năng suất thực tế cao hơn 28,78% so
với đối chứng tại Hàm Thuận Nam và 40,74% tại
Hàm Thuận Bắc) trong vụ thuận (Bảng 3).
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
74
Bảng 3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của quy trình bón phân cân đối (BP cân đối) và đối chứng trên
thanh long giai đoạn kinh doanh tại Bình Thuận
Địa điểm Vụ Quy trình
Số quả/trụ
(quả/trụ/vụ)
Khối lượng trung
bình quả (g/quả)
Năng suất lý
thuyết
(kg/trụ/vụ)
Năng suất
thực tế
(kg/trụ/vụ)
Hàm
Thuận
Nam
Vụ thuận
BP cân đối 32,4±2,1 564,8±9,5 18,2±1,0 17,9
Đối chứng 27,4±2,7 527,8±9,6 14,3±1,2 13,9
T-test ** ** ** -
Vụ
nghịch
BP cân đối 42,8±4,6 504,0±22,1 21,8±2,9 21,2
Đối chứng 41,3±4,0 467,0±17,8 19,2±1,9 18,7
T-test ns ** ** -
Hàm
Thuận
Bắc
Vụ thuận
BP cân đối 28,5 ± 2,4 498,3 ± 14,7 14,2 ± 1,3 11,4
Đối chứng 21,8 ± 2,3 475,0 ± 15,0 10,4 ± 1,2 8,1
T-test ** * ** -
Vụ
nghịch
BP cân đối 54,7 ± 4,9 530,9 ± 12,7 29,1 ± 2,8 26,4
Đối chứng 47,2 ± 4,8 499,4 ± 15,8 23,6 ± 2,6 18,4
T-test * * ** -
ns: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; ** sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê ở mức 0,01; * sự khác biệt rất có ý
nghĩa thống kê ở mức 0,05; ± khoảng tin cậy ở mức 95%.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng, vào vụ
nghịch, nông dân trồng thanh long ở Bình Thuận
quan tâm đến việc bón phân nhiều hơn do thu
nhập mà cây thanh long mang lại vào thời điểm
này khá lớn. Vì vậy, quy trình bón phân của nông
dân (đối chứng) vào vụ nghịch có sự thay đổi. Tại
Hàm Thuận Nam, phân hữu cơ được sử dụng với
liều lượng lớn hơn quy trình bón phân cân đối
nhưng hàm lượng đạm, lân, kali nguyên chất được
sử dụng vẫn thấp hơn quy trình thử nghiệm.
Trong khi đó, ở Hàm Thuận Bắc, lượng phân vô
cơ sử dụng lớn hơn nhưng nguồn phân hữu cơ chỉ
sử dụng phân cá và 1 kg phân hữu cơ vi sinh. Kết
quả chỉ ra rằng có sự khác biệt rất có ý nghĩa đối
với khối lượng trung bình quả và năng suất lý
thuyết giữa hai quy trình. Việc ứng dụng quy trình
bón phân cân đối đã làm tăng khối lượng trung
bình quả, từ đó dẫn đến việc tăng năng suất quả
thanh long trong vụ nghịch so với đối chứng
(năng suất thực tế cao hơn 13,37% so với đối
chứng tại Hàm Thuận Nam và 43,48% so với đối
chứng tại Hàm Thuận Bắc) (Bảng 3). Điều này
cho thấy việc cân đối dinh dưỡng khi bón cho cây
cả hai vụ đã giúp cải thiện được năng suất quả
trong cả năm.
3.2 Hiệu quả của mô hình ứng dụng quy trình
bón phân cân đối trên thanh long ruột
trắng đối với phẩm chất quả
Phẩm chất quả là một trong những chỉ tiêu khá
quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân
loại quả thanh long. Thanh long loại 1 sẽ có giá
bán cao và chính vì vậy sẽ mang lại hiệu quả kinh
tế. Quả to, tai dài, xanh, cứng là tiêu chí quan
trọng trong phân loại quả thanh long. Việc bón
đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết trên
thanh long đã giúp cải thiện được những đặc điểm
này của quả thanh long vào vụ thuận tại Hàm
Thuận Nam. Kết quả phân tích quả thanh long thu
được từ quy trình bón phân cân đối và quy trình
bón phân của nông dân ở Hàm Thuận Nam cho
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
75
thấy có sự khác biệt rất có ý nghĩa ở các chỉ tiêu
chiều dài quả, đường kính quả, chiều dài, độ dày
tai quả và khác biệt ở mức có ý nghĩa đối với chỉ
tiêu độ rộng chân tai. Đa số các chỉ tiêu về đặc
điểm bên ngoài quả đều tăng khi ứng dụng quy
trình bón phân cân đối. Tuy nhiên, tại Hàm Thuận
Bắc, kết quả phân tích quả thanh long vào vụ
thuận thu được từ quy trình bón phân thử nghiệm
và theo quy trình bón phân của nông dân cho thấy
có sự khác biệt rất có ý nghĩa ở chỉ tiêu độ dày tai
quả. Các chỉ tiêu khác như chiều dài quả, đường
kính quả, chiều dài tai và độ rộng chân tai khác
biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê khi so sánh
giữa hai mô hình bằng phép thử t – test (Bảng 4).
Bảng 4. Đặc điểm bên ngoài quả thanh long ruột trắng của quy trình bón phân cân đối (BP cân đối)
và đối chứng tại Bình Thuận
Địa điểm Vụ Quy trình
Chiều dài
quả (cm)
Đường kính
quả (cm)
Chiều dài tai
quả (mm)
Độ dày tai
quả (mm)
Độ rộng
chân tai
(mm)
Hàm
Thuận
Nam
Vụ
thuận
BP cân đối 13,5±0,3 8,7±0,2 56,9±1,8 4,4±0,2 39,9±1,2
Đối chứng 12,6±0,3 8,4±0,2 51,6±1,9 3,9±0,3 38,2±1,3
T-test ** ** ** ** *
Vụ
nghịch
BP cân đối 13,3±0,3 8,6±0,2 66,7±1,8 5,2±0,3 37,9±1,3
Đối chứng 12,8±0,3 8,5±0,1 66,2±2,3 4,9±0,3 37,5±1,1
T-test * ns ns ns ns
Hàm
Thuận
Bắc
Vụ
thuận
BP cân đối 13,0±0,1 8,4±0,1 62,6±0,03 4,5±0,03 18,3±0,07
Đối chứng 12,9±0,3 8,3±0,1 59,9±0,19 5,2±0,04 18,7±0,09
T-test Ns ns ns * ns
Vụ
nghịch
BP cân đối 13,0±0,4 8,3±0,2 6,1±0,2 0,5±0,03 1,9±0,06
Đối chứng 12,0±0,3 8,4±0,2 6,1±0,2 0,5±0,03 2,0±0,08
T-test ** ns ns ns ns
ns: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; ** sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê ở mức 0,01; * sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê ở mức 0,05;± khoảng tin cậy ở mức 95%.
Trong khi đó, xét về đặc điểm bên ngoài, vào vụ
nghịch, việc ứng dụng quy trình bón phân cân đối
chỉ làm tăng chiều dài quả một cách có ý nghĩa
thống kê so với đối chứng khi so sánh bằng phép
thử t – test. Các đặc điểm khác không có sự khác
biệt về mặt thống kê khi ứng dụng theo quy trình
bón phân cân đối. Điều này có thể được giải thích
do vào vụ nghịch, thanh long ở nghiệm thức đối
chứng đã được chú ý hơn và cung cấp dinh dưỡng
đầy đủ.
Bảng 5 cho thấy đặc điểm bên trong quả thanh
long có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê ở
các chỉ tiêu về độ dày vỏ, tỉ lệ thịt quả và độ Brix
tại Hàm Thuận Nam nhưng không tạo ra sự khác
biệt các chỉ tiêu này ở Hàm Thuận Bắc khi so
sánh bằng phép thử t-test giữa 2 quy trình bón
phân. Việc ứng dụng quy trình bón phân cân đối
đã làm tăng độ dày vỏ nhưng lại làm giảm tỉ lệ
thịt quả và độ Brix của quả thanh long vào vụ
thuận tại Hàm Thuận Nam. Tuy nhiên, độ Brix
của thanh long khi bón phân cân đối theo quy
trình thử nghiệm phù hợp với số liệu phân tích
của ICBF (1992) và Morton (1987) (giá trị Brix
của Hylocereus undatus là 11 – 19%). Kết quả
cũng cho thấy, trong vụ nghịch, dinh dưỡng được
chú trọng hơn nên việc bón phân cân đối theo quy
trình thử nghiệm chỉ tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa
về mặt thống kê đối với chỉ tiêu độ dày vỏ đối với
quả thanh long ở Hàm Thuận Nam và độ Brix của
quả tại Hàm Thuận Bắc.
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
76
Bảng 5. Đặc điểm bên trong quả thanh long ruột trắng của quy trình bón phân cân đối (BP cân đối)
và đối chứng tại Bình Thuận
Địa điểm Vụ Quy trình Độ dày vỏ (mm) Tỉ lệ thịt quả (%) Độ Brix (%)
Hàm
Thuận
Nam
Vụ thuận
BP cân đối 5,3±0,3 66,72±1,34 13,35±0,62
Đối chứng 4,0±0,3 71,22±1,08 14,53±0,50
T-test ** ** **
Vụ nghịch
BP cân đối 5,3±0,3 59,88±1,21 12,85±0,29
Đối chứng 4,8±0,4 60,02±1,21 13,11±0,33
T-test * ns ns
Hàm
Thuận Bắc
Vụ thuận
BP cân đối 4,5±0,03 65,1±1,42 18,2 ± 0,39
Đối chứng 4,3±0,03 64,2±1,57 18,8 ± 0,59
T-test ns ns ns
Vụ nghịch
BP cân đối 0,5±0,03 63,3±3,98 18,6 ± 0,4
Đối chứng 0,5±0,03 66,4±1,72 17,4 ± 0,6
T-test ns ns **
ns: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; ** sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê ở mức 0,01;
± khoảng tin cậy ở mức 95%.
3.3 Hiệu quả của mô hình ứng dụng quy trình bón phân cân đối trên thanh long ruột trắng tại Hàm
Thuận Nam đối với các chỉ tiêu đánh giá cảm quan
Bảng 6. Đánh giá cảm quan quả thanh long ruột trắng của quy trình bón phân cân đối (BP cân đối)
và đối chứng tại Bình Thuận
Địa
điểm
Vụ Quy trình
Đặc điểm bên ngoài Đặc điểm bên trong
Dạng
quả
(5 đ)
Màu
sắc vỏ
quả
(5 đ)
Tai
quả
(5 đ)
Hình
thức
chung
(5 đ)
Độ
tróc
thịt
quả (5
đ)
Màu
sắc và
lượng
nước
thịt
quả
(10 đ)
Mật độ
và kích
thước
hạt
(5 đ)
Hương
vị thịt
quả
(10 đ)
Hàm
Thuận
Nam
Vụ
thuận
BP cân đối 4,4 4,5 4,8 4,7 4,9 10,0 3,5 7,8
Đối chứng 4,7 4,3 4,5 4,5 4,7 10,0 2,8 8,2
Vụ
nghịch
BP cân đối 4,4 4,5 4,9 4,8 4,6 10,0 3,5 7,5
Đối chứng 4,3 4,4 4,9 4,8 4,6 10,0 3,4 7,8
Hàm
Thuận
Bắc
Vụ
thuận
BP cân đối 5,0 3,9 4,5 5,0 4,1 6,9 4 7,8
Đối chứng 5,0 3,0 4,3 5,0 4,1 6,1 3,8 7,7
Vụ
nghịch
BP cân đối 5,0 3,9 4,3 5,0 3,9 7,1 3,7 8,1
Đối chứng 5,0 3,7 4,1 5,0 4,0 6,6 3,6 7,6
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
77
Kết quả đánh giá cảm quan cho thấy mẫu quả
thanh long của vườn thử nghiệm ứng dụng quy
trình bón phân cân đối cho kết quả cao hơn so với
quy trình đối chứng của nông dân ở cả vụ thuận
và vụ nghịch. Bảng 6 cũng cho thấy, riêng tại
Hàm Thuận Bắc, màu sắc và lượng nước thịt quả
theo đánh giá cảm quan dao động từ 6,1 – 7,1
điểm trong khi tại Hàm Thuận Nam, điểm đánh
giá cho chỉ tiêu này là 10. Điều này cho thấy tại
Hàm Thuận Bắc, thịt quả thanh long có màu trắng
hơi đục và khá nhiều nước. Tuy nhiên, mức chênh
lệch này không ảnh hưởng lớn đến phẩm chất và
giá trị quả thanh long tại hai địa điểm thí nghiệm.
Nhìn chung, quả thanh long trong quy trình bón
phân cân đối có màu sắc vỏ quả tươi, tai quả
xanh, cứng, đẹp, dễ tách vỏ, nhiều nước, vị ngọt
chua, ít nhớt, mật độ, kích thước hạt vừa phải,
thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
3.4 Ước tính hiệu quả kinh tế của mô hình ứng
dụng quy trình bón phân cân đối trên
thanh long ruột trắng tại Hàm Thuận Nam
Để cung cấp kịp thời và hiệu quả, giúp thanh long
phục hồi sau thời gian nuôi quả trong vụ nghịch,
quy trình bón phân cân đối được xây dựng. Việc
bón phân và sử dụng phân bón của quy trình thử
nghiệm đã làm tăng chi phí đầu tư so với đối
chứng (cao hơn đối chứng 18.771.000 đồng/ha tại
Hàm Thuận Nam và 14.725.000 đồng/ha tại Hàm
Thuận Bắc). Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy,
việc áp dụng quy trình bón phân cân đối cho
thanh long đã giúp năng suất và thu nhập tăng cao
so với mô hình đối chứng của nông dân mặc dù
giá thanh long vào những thời điểm thu hoạch
trên vườn thí nghiệm khá thấp (Giá thanh long
vào vụ thuận tại các đợt thu hoạch dao động trong
khoảng từ 4.000 – 10.000 đồng/kg tại Hàm Thuận
Nam và 4.500 – 6.000 đồng/kg tại Hàm Thuận
Bắc).
Bảng 7. Ước tính hiệu quả kinh tế của quy trình bón phân cân đối (BP cân đối) và đối chứng trên thanh long giai
đoạn kinh doanh tại Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận (tính trên 1 ha. Mật độ 1.000 trụ/ha)
Đơn vị tính: nghìn đồng
Địa điểm Vụ Quy trình Tổng chi Tổng thu Lợi nhuận
Chênh lệch
lợi nhuận
Hàm
Thuận
Nam
Vụ thuận
BP cân đối 30.337,0 117.448,3 87.111,3 11.124,0
Đối chứng 11.566,0 87.553,3 75.987,3 -
Vụ nghịch
BP cân đối 121.219,0 351.253,3 230.034,3 51.340,3
Đối chứng 128.836,0 307.530,0 178.694,0 -
Cả năm
BP cân đối 151.556,0 468.701,7 317.145,7 62.464,3
Đối chứng 140.402,0 395.083,3 254.681,3
Hàm
Thuận
Bắc
Vụ thuận
BP cân đối 25.463,5 58.655,0 33.191,5 2.621,7
Đối chứng 10.738,5 41.308,3 30.569,8 -
Vụ nghịch
BP cân đối 136.013,0 211.408,0 75.395,0 120.101,0
Đối chứng 191.49,0 146.784,0 - 44.706,0 -
Cả năm
BP cân đối 161.476,5 270.063,0 108.586,5 122.722,7
Đối chứng 202.228,5 188.092,3 -14.136,2 -
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
78
Ghi chú:
- Giá bán thanh long vào các đợt thu hoạch quả tại vườn thí nghiệm ở Hàm Thuận Nam trong vụ thuận năm 2015:
4.000 – 10.000 đồng/kg; vụ nghịch năm 2015 – 2016: 10.000 – 19.000 đồng/kg.
- Giá bán thanh long vào các đợt thu hoạch quả tại vườn thí nghiệm ở Hàm Thuận Bắc trong vụ thuận 2015 dao động
trong khoảng từ 4.500 – 6.000 đồng/ kg; vụ nghịch 2015 - 2016: 8.000 – 14.500 đồng/kg.
Bảng 7 cũng cho thấy trong vụ nghịch, có một sự
khác biệt về chi phí đầu tư giữa hai mô hình. Thời
điểm này, giá thanh long tăng nên nông dân cũng
chú trọng hơn đến việc sử dụng phân bón trên
thanh long. Do đó, chi phí đầu tư ở quy trình đối
chứng của nông dân cao hơn so với quy trình thử
nghiệm. Mức chênh lệch về chi phí đầu tư giữa
hai địa điểm thí nghiệm cũng khác nhau. Tại Hàm
Thuận Nam, nông dân đầu tư cao hơn quy trình
thử nghiệm 7.617.000 đồng/ha trong khi tại Hàm
Thuận Bắc, mức đầu tư của nông dân lại cao hơn
quy trình thử nghiệm đến 55.477.000 đồng/ha. Dù
vậy, kết quả cũng chỉ ra rằng, thu nhập ở quy trình
đối chứng vẫn thấp hơn nên có sự chênh lệch lợi
nhuận giữa quy trình thử nghiệm và quy trình đối
chứng của nông dân. Tại Hàm Thuận Nam, bảng
7 cho thấy trung bình trên 1 ha, quy trình thử
nghiệm cho mức lợi nhuận cao hơn đối chứng
51.340.333 đồng.
Bên cạnh rủi ro sản xuất (production risk), rủi ro
thể chế (institutional risk), rủi ro do
con người (individual risk) và rủi ro tài chính
(financial risk), nông hộ thường xuyên chịu ảnh
hưởng và đối mặt với rủi ro giá (price or
marketing risk) (George R. Patrick và ctv, 1985;
Gudbrand Lien và ctv, 2003; James Hanson và
ctv, 2004; World Bank, 2005). Biến động giá đầu
ra là một nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro
trong nông nghiệp. Tình trạng “mất mùa được
giá” hay “được giá mất mùa” luôn tồn tại và diễn
biến phức tạp. Vì vậy, dù năng suất có tăng cao
nhưng khi thu hoạch vào thời điểm “rớt giá” thì
hiệu quả kinh tế cũng là bài toán nan giải. Kết quả
khảo sát cho thấy, tại Hàm Thuận Bắc, do chi phí
đầu tư cho thanh long ở quy trình bón phân của
nông dân vào vụ nghịch khá cao (cao hơn so với
quy trình bón phân cân đối) nhưng năng suất lại
thấp (thấp hơn quy trình bón phân cân đối) và thời
điểm thu hoạch lại gặp rủi ro về giá (giá khá thấp
(8.000 – 14.500 đồng/kg)) nên đã dẫn đến lợi
nhuận âm hay nói cách khác, ở nghiệm thức đối
chứng (bón phân theo quy trình của nông dân),
nông hộ bị lỗ vào vụ nghịch; từ đó, dẫn đến lợi
nhuận âm trong cả năm. Trong khi đó, bảng 7 cho
thấy, vào thời điểm này, do năng suất cao hơn và
mức đầu tư thấp hơn nên quy trình thử nghiệm
vẫn có lời và cho mức lợi nhuận cao hơn đối
chứng 120.101.000 đồng/ha.
Như vậy, xét trong một năm, quy trình bón phân
cân đối đã làm tăng lợi nhuận đến 62.464,3 đến
122.722,7 nghìn đồng/ha.
4. KẾT LUẬN
Kết quả khảo sát hiệu quả của mô hình bón phân
cân đối trên thanh long ruột trắng giai đoạn kinh
doanh tại 2 huyện Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận
Nam, tỉnh Bình Thuận cho thấy việc cân đối và bổ
sung đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết
cho cây thanh long giai đoạn kinh doanh đã giúp
tăng năng suất và hiệu quả kinh tế thanh long trên
nền đất thịt pha cát và nền đất trước đây trồng lúa
của tỉnh Bình Thuận.
LỜI CẢM TẠ
Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Sở Khoa học
và Công nghệ Bình Thuận đã hỗ trợ kinh phí để
hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chapin, F.S., Vitousek, P.M. & Van Cleve, K.
(1986). The nature of nutrient limitation in
plant communities. American Naturalist, 127,
48-58.
Cục Trồng Trọt. (2012). Tài liệu tập huấn phương
pháp lấy mẫu đất, nước và sản phẩm cây
trồng. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn.
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 25 (2), 68 – 79
79
Đặng Văn Giáp (1997). Phân tích dữ liệu khoa
học bằng chương trình MS – Excel. Nhà xuất
bản giáo dục
George R. Patrick, Wilson, Paul N., Barry, Peter
J., Boggess, William G., Young, Douglas L.
(1985). Risk Perceptions and Management
Reponses Generated Hepothesis for Risk
Modeling. Sothern Journal of Agricultural
Economics, 1985, p.231-238.
Gudbrand Lien, Flaten, Ola, Ebbesvik, Martha,
Koesling, Matthias, Valle, Paul Steinar (2003).
Risk and Risk Management in Organic and
Conventional Dairy Farming: Emperical
Results from Norway. International Farm
Management Congress, 2003.
ICBF. (1992). Table de Composicion de
Alimentos. 6th Ed. From: El cultivo de Pitaya
Fposicionmiento en elmercardo.
lications/PDFs/BC07324.PD, 25 November
2011.
Joy Harwood, Richard Heifner, Keith Coble, Janet
Perry, Agapi Somwaru (1999). Managing Risk
in Farming: Concepts, Research, and
Analysis. Economic Research Service, USDA
James Hanson, Robert Dismukes, William
Chambers, Catherine Greene And Amy
Kremen (2004). Risk and Risk Management in
Organic Farming: Views of Organic Farmers.
Renewable Agriculture and Food System,
19(4), p. 218-227.
Morton, J. F. (1987). Fruits of warm climates.
Strawberry Pear. Florisa Flair Books, Miami.
Pp. 347 – 348.
Thái Nguyễn Diễm Hương., Võ Thái Dân., Hồ
Thị Hưng Truyền., Nguyễn Mạnh Hùng.
(2017). Khảo sát hiện trạng sử dụng phân bón
trên thanh long ruột trắng giai đoạn kinh doanh
tại Bình Thuận. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật
Nông Lâm Nghiệp. Hồ Chí Minh: Trường Đại
học Nông Lâm.
Von Liebig, J. (1840). Chemistry in its
application to agriculture and Physiology.
Taylor and Walton, London
World Bank (2005). Managing Agricultural
Production Risk. Agriculture & Rural
Development Department. Report Vol 32.727-
GLB.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_mo_hinh_bon_phan_can_doi_tren_thanh_long_ruot_trang.pdf