Hiệu quả tài chính
Đầu tư canh tác lúa của ruộng mô hình thấp hơn
so với ruộng đối chứng hơn 5 triệu đồng/ha. Tổng
thu nhập của ruộng mô hình cũng cao hơn ruộng đối
chứng gần hai triệu đồng/ha do năng suất cao hơn.
Lợi nhuận của ruộng mô hình đạt 26,5 triệu đồng
và ruộng đối chứng đạt 19,4 triệu đồng, chênh lệch
hơn 7 triệu đồng (Bảng 5). Hiệu quả tài chính đạt
được do ruộng mô hình đã giảm lượng giống 74 kg,
23 kg N, 26 kg P2O5, hai lần bơm nước, 4,3 lần phun
thuốc dẫn đến giảm công lao động khá nhiều.
Kết quả nghiên cứu này tương tự với kết quả
nghiên cứu tại Châu Thành, An Giang năm 2019 và
kết quả công bố của Sở Nông Nghiệp và PTNT An
Giang (Sở Nông Nghiệp và PTNT An Giang, 2009;
Nguyễn Thị Thanh Xuân và ctv., 2019).
KẾT LUẬN
Mô hình sản xuất lúa theo hướng an toàn giảm
được bốn lần phun thuốc trừ sâu, rầy do giảm mật
độ sạ, bón phân theo nhu cầu cây lúa. Canh tác
lúa theo hướng an toàn tiết kiệm 74 kg lúa giống,
23 kg N, 26 kg P2O5, 2,7 lần tưới nước nhưng vẫn đảm
bảo năng suất cao 6,95 tấn/ha. Chi phí đầu tư giảm
5 triệu đồng/ha và lợi nhuận thì tăng 7 triệu đồng/ha
so với ruộng đối chứng nông dân.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả mô hình sản xuất lúa theo hướng an toàn tại huyện An Phú - tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Pradeepika C., V.D. Gasti, T. Vardihini Kumari,
Evor S.C, 2017. Per se perfomance of pumpkin
gennotype. Environment and Ecology, 35 (1): 51-54.
Xiaohua Du, Yongdong Sun, Xinzheng Li, Junguo
Zhou, Xiaomei Li, 2011. Genetic divergence among
inbred lines in Cucurbita moschata from China.
Science in Horticulture, 127: 207-213.
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH SẢN XUẤT LÚA THEO HƯỚNG AN TOÀN
TẠI HUYỆN AN PHÚ - TỈNH AN GIANG
Nguyễn Thị Thanh Xuân1, Dương Chí Tôn1,2, Phạm Văn Quang1
TÓM TẮT
Mô hình sản xuất lúa theo hướng an toàn tại huyện An Phú, tỉnh An Giang được bố trí tại 3 xã của huyện với
15 ruộng canh tác theo hướng an toàn không phun thuốc trừ rầy nâu, sâu cuốn lá suốt vụ, sạ thưa (mô hình) và và
15 ruộng canh theo tập quán nông dân như sạ dầy, phun thuốc khi thấy dịch hại hoặc phun định kỳ (đối chứng). Kết
quả ruộng mô hình giảm giống gieo sạ trung bình 74 kg/ha, lượng phân bón giảm 23 kg N/ha, 26 kg P2O5/ha, giảm
được số lần phun thuốc trừ sâu rầy 4 lần. Năng suất ở ruộng mô hình cao hơn so với ruộng đối chứng 590 kg/ha;
đầu tư thấp hơn 5 triệu đồng/ha nhưng lợi nhuận cao hơn so với ruộng đối chứng 7 triệu đồng/ha. Ứng dụng mô
hình sản xuất lúa theo hướng an toàn không những mang lại hiệu quả tài chính, an toàn cho người sản xuất, tiêu
dùng và môi trường.
Từ khóa: Hiệu quả tài chính, năng suất lúa, rầy nâu, sâu cuốn lá, thiên địch
Ngày nhận bài: 25/4/2020
Ngày phản biện: 16/5/2020
Người phản biện: TS. Tô Thị Thu Hà
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh
2 Trạm Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật huyện An Phú, tỉnh An Giang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long đóng
vai trò quan trọng. Năng suất và sản lượng lúa cao
nhưng đầu tư tăng và lợi nhuận giảm do bón phân
cao hơn mức khuyến cáo của ngành nông nghiệp từ
50 - 100 kg urea/ha, phun thuốc tăng gấp hai, ba liều
khuyến cáo và sạ với mật độ dầy (Nguyễn Phan Nhân
và ctv., 2015; Dương Chí Tôn và ctv., 2018). Chương
trình IPM được đưa vào áp dụng ở Việt nam từ 1992
là không phun thuốc trừ sâu sớm trong giai đoạn lúa
đẻ nhánh để giữ thiên địch trên đồng ruộng nhằm
tạo sự cân bằng sinh thái. “1 Phải 5 Giảm” (một Phải
năm Giảm) được ứng dụng trong sản xuất vào năm
2005, mang lại hiệu quả cao nhưng việc áp dụng
vẫn còn nhiều khó khăn (Lê Cảnh Dũng và Võ Văn
Tuấn, 2014; Nguyễn Ngọc Sơn và ctv., 2013). Trong
bối cảnh thị trường không ổn định, khí hậu biến
đổi bất thường, việc giảm chi phí đầu tư trong sản
Evaluation of agromorphological characteristics
of local pumpkin collection
Ha Minh Loan, Tran Danh Suu,
Ngo Thi Hanh, Nguyen Thi Tam Phuc
Abstract
A hundred of local pumpkin accessions collected from Northern mountainous provinces of Vietnam were evaluated
for agromorphological characteristics in winter-spring season, 2016. The results showed that all 100 local pumpkin
assessions belonged to C. Moschata species and had a significant diversity in morphological traits such as internode
length, leaf size, fruit shape, fruit size and fruit flesh quality. The internode lenght of vine varried from 13.2 - 30.3 cm;
the leaf width was 21.4 - 35.6 cm and the leaf length was 21.7 - 39.8 cm; the fruit length was 9.3 - 34 cm while the
fruit diameter was 8.5 - 28.7 cm. The average number of fruit per plant was 0.3 - 1.9 and the average fruit weight
was 0.59 - 4.96 kg. The fruit flesh thickness varied from 12.7 - 37.6 mm, Brix and total yield varied 12.7 - 37.6 mm,
4.9 - 13, and 18.76 - 365.55 quintals/ha, respectively. 12 promising pumpkin assessions with high total yield
(160 - 215 quintals/ha); globe and flat in shape; the fruit weight of 1.5 - 3.95 kg; flesh thichness from 27.5 - 37.6 mm
and Brix from 8.6 - 13 were primarily selected for further study.
Keywords: Pumpkin (Curcurbita spp.), Northern moumtainous provinces of Vietnam
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
xuất lúa là mục tiêu cần thiết giúp người nông dân.
Để đạt được những mục tiêu trên cần có một biện
pháp tổng hợp trong sản xuất lúa như sử dụng lượng
giống thấp, bón phân theo nhu cầu cây lúa, hạn chế
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không sử dụng thuốc
trừ sâu rầy, bảo vệ thiên địch và cân bằng hệ sinh
thái đồng ruộng. Vì vậy, nghiên cứu “hiệu quả mô
hình sản xuất lúa theo hướng an toàn tại huyện An
Phú - Tỉnh An Giang” thực hiện nhằm chứng minh
việc canh tác lúa theo kỹ thuật canh tác không phun
thuốc trừ sâu rầy nhưng tăng lợi nhuận và bảo vệ
môi trường.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên 30 ruộng nông dân
sản xuất lúa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm ở ba xã, mỗi xã bố trí 5 ruộng
mô hình và 5 ruộng đối chứng là 5 lần lập lại/xã,
tổng số là 30 ruộng, 3.000 m2/ruộng.
- Công thức ruộng mô hình: Ứng dụng 1 Phải
5 Giảm nhưng gieo sạ né rầy, không phun thuốc
trừ sâu rầy suốt vụ, quản lý sâu rầy chủ yếu bằng
kỹ thuật canh tác, không bón thừa đạm, bón phân
cân đối, sạ thưa và sử dụng kỹ thuật cho ngập nước
nếu có rầy nâu nhiều. Sử dụng giống lúa xác nhận
OM 5451, sạ thưa với mật độ 80 - 100 kg/ha bón
phân trung bình bón 123 N - 55P2O5 - 60 K2O kg/ha,
bón phân thực hiện theo bảng so màu lá lúa. Tưới
nước theo kỹ thuật ngập khô xen kẽ.
- Công thức ruộng đối chứng: Theo tập quán
sản xuất của nông dân, gieo sạ với mật độ 150 - 200
kg/ha, bón phân khá cao và không cân đối, 146 N -
81 P2O5 - 49 K2O kg/ha, phun thuốc theo các giai
đoạn 3 - 4 lần thuốc trừ sâu rầy và 4 lần thuốc trừ
bệnh, tưới nước 10 - 11 lần/vụ.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Mỗi ruộng đặt 5 khung, 0,4 m ˟ 0,5 m (QCVN 01-
166: 2014/BNNPTNT), thu thập số liệu về sinh dịch
hại, thiên địch 21, 49, 56 và 77 ngày sau sạ (NSS).
- Sâu cuốn lá và rầy nâu: Đếm mật số sâu rầy có
hiện diện trong khung tại thời điểm thu thập số liệu,
tính ra mật số con/m2.
- Về thiên địch: Đếm các loài thiên địch chính
như Nhện, bọ xít mù xanh, kiến ba khoang hiện diện
trong khung, tính số con/m2.
- Thành phần năng suất và năng suất:
+ Thành phần năng suất: Thu toàn bộ bông/
khung, đếm bông/khung, tính số bông/m2. Sau đó
rút 10 bông ngẫu nhiên ở mỗi khung, đếm số hạt
chắc, lép và cân trọng lượng 1000 hạt.
+ Năng suất thực tế: Mỗi ruộng gặt 5 ô, mỗi ô
5 m2 lúa trên hai đường chéo góc, sau khi thu hoạch,
quạt sạch, cân khối lượng qui đổi ra năng suất lúa
(tấn/ha) qui đổi ẩm độ 14%.
- Hiệu quả tài chính:
Tổng chi phí (đồng/ha) = Chi phí vật tư + Chi phí
lao động
Tổng thu (đồng/ha) = Năng suất lúa (kg/ha) ˟ giá
lúa (đồng/kg)
Lợi nhuận (đồng/ha) = Tổng thu – Tổng chi
Giá lúa được tính theo giá thị trường tại thời
điểm nghiên cứu.
2.2.3. Phân tích số liệu
Các số liệu thu thập được tính toán và so sánh
trung bình giữa ruộng mô hình và đối chứng bằng
kiểm định T-test.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu tại ba xã: Vĩnh Lộc, Phú
hữu, Vĩnh Hậu huyện An Phú, tỉnh An Giang, thực
hiện vụ Đông Xuân 2017 - 2018.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Diễn biến mật số sâu cuốn lá nhỏ
(Cnaphalocrocis medinalis)
Bảng 1 cho thấy, mật số sâu cuốn lá trung bình ở
ruộng mô hình cao hơn so với ruộng đối chứng và
có sự khác biệt thống kê ở thời điểm 49 và 77 NSS. Ở
56 NSS sâu bắt đầu hóa nhộng thành bướm nên mật
số sâu trung bình ở ruộng mô hình 1,2 con/m2 so với
ruộng đối chứng 2,0 con/m2.
Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa ruộng mô
hình và đối chứng vì ruộng đối chứng, nông dân
đã phun 2 - 3 lần trước khi lúa trổ. Ruộng mô hình
không phun thuốc trừ sâu nhưng mật số sâu chưa tới
ngưỡng phun thuốc, khả năng sinh trưởng của cây
lúa phục hồi lá mới và mật số thiện địch có khả năng
khống chế mật số sâu. Để quản lý được sâu cuốn lá
mà không phun thuốc, cần chú ý bón phân cân đối,
không được bón thừa đạm, lá lúa thẳng đứng làm
sâu cuốn lá không đẻ trứng.
3.2. Diễn biến mật số rầy nâu (Nilaparvata lugens)
Bảng 1 cho thấy, mật số rầy ở nghiệm thức mô
hình luôn thấp hơn đối chứng. Mật số rầy tăng dần
và cao nhất lúc 56 NSS, ruộng mô hình có mật số
rầy trung bình 384 con/m2 trong khi ở đối chứng là
1.111 con/m2, sau đó mật số rầy giảm do nông dân
36
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
đã phun thuốc. Ruộng mô hình không phun thuốc
nhưng mật số không vượt ngưỡng phòng trừ có thể
do sạ thưa, bón phân cân đối và có thiên địch cao
như nhện và kiến ba khoang (Bảng 2).
Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu ở
Châu Thành, An Giang: Mật số rầy nâu ở ruộng mô
hình thấp hơn ruộng đối chứng (Nguyễn Thị Thanh
Xuân và ctv., 2019). Nông dân phun thuốc trừ sâu
trong giai đoạn cây lúa dưới 40 ngày tuổi chủ yếu là
để phòng trừ sâu cuốn lá nhưng khi phun nhiều lần
trong ruộng lúa gây phá vỡ cân bằng sinh thái, tạo
môi trường thuận lợi cho rầy nâu phát triển. Nhiều
nghiên cứu đã chứng minh khi phun thuốc trừ sâu
trong ruộng lúa đã thúc đẩy rầy nâu gia tăng mật
số dẫn đến tình trang bộc phát rầy nâu (Kenmore
et al., 1984).
Bảng 1. Mật số sâu cuốn lá nhỏ và rầy nâu (con/m2) của ruộng mô hình
và đối chứng tại 3 xã của huyện An Phú, An Giang
Xã Nghiệm thức
Sâu cuốn lá nhỏ Rầy nâu
21 NSS 49 NSS 56 NSS 77 NSS 21 NSS 49 NSS 56 NSS 77 NSS
Vĩnh Lộc
MH 5,0 2,1 1,0 4,5 2 417 787 47
ĐC 1,3 6,9 2,9 1,1 14 589 413 82
Phú Hữu
MH 1,7 4,9 0,9 8,9 8 17 144 102
ĐC 2,4 4,6 1,2 1,1 10 640 1.000 180
Vĩnh Hậu
MH 2,4 6,0 1,8 6,9 13 26 221 156
ĐC 1,8 2,0 2,0 1,1 23 1183 1918 390
Trung bình (1)
MH 3,0 5,7 a 1,2 b 6,4 a 8 b 153 b 384 b 102 b
ĐC 1,9 3,0 b 2,0 a 1,1 b 16 a 804 a 1111 a 217 a
P (T <= t) (1) 0,1ns 0,02* 0, 02* 0,000** 0,002** 0,00** 0,04* 0,005**
Ghi chú: (1) So sánh giá trị trung bình giữa mô hình và đối chứng sử dụng T-test. Ghi chú tương tự cho các bảng 2 - 4.
MH: Mô hình; ĐC: đối chứng.
3.3. Diễn biến mật số bọ xít mù xanh (Cyrtorhinus
lividipennis)
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, mật số bọ xít mù xanh
ruộng mô hình thấp hơn ruộng đối chứng. Điều này
có thể do mật số rầy nâu tăng dần và cao ở ruộng
đối chứng. Giai đoạn 77 NSS, mật số bọ xít mù xanh
ở ruộng mô hình (54 con/m2) cao hơn ruộng đối
chứng (31 con/m2).
3.4. Diễn biến mật số nhện thiên địch
Mật số nhện ở ruộng mô hình luôn cao hơn
ruộng đối chứng, đặc biệt, khác biệt ý nghĩa. Mật số
nhện ruộng đối chứng thấp có thể do ảnh hưởng của
việc phun thuốc bảo vệ thực vật sớm và nhiều lần
(2 - 3 lần đến trước thời điểm lúa làm đòng).
Bảng 2. Mật số bọ xít mù xanh và nhện (con/m2), của ruộng mô hình
và đối chứng tại 3 xã của huyện An Phú, An Giang
Xã Nghiệm thức
Bọ xít mù xanh Nhện
21 NSS 49 NSS 56 NSS 77 NSS 21 NSS 49 NSS 56 NSS 77 NSS
Vĩnh Lộc
MH 7 14 26 51 3,5 12,0 6,5 3,5
ĐC 33 173 69 40 1,0 3,5 3,5 2,5
Phú Hữu
MH 6 13 27 47 7,0 6,0 8,0 5,0
ĐC 23 127 66 29 2,0 4,5 1,0 2,5
Vĩnh Hậu
MH 9 18 36 63 3,5 5,0 6,5 6,0
ĐC 21 111 47 25 1,0 1,5 1,0 2,0
Trung bình (1)
MH 8 b 15 b 30 b 54 a 4,6 a 7,3 a 7,2 a 5,1 a
ĐC 26 a 137 a 61 a 31 b 1,0 b 3,0 b 2,4 b 2,3 b
P (T <= t) (1) 0,000** 0,000 0,002 0,002 0,000 0,007 0,000 0,008
37
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
3.5. Diễn biến mật số kiến ba khoang (Paederus
fuscipec)
Mật số kiến ba khoang ở ruộng mô hình và đối
chứng có khác biệt ý nghĩa thống kê ở giai đoạn
49 đến 77 NSS.
Bảng 3. Mật số kiến ba khoang (con/m2)
của ruộng mô hình và đối chứng tại 3 xã
của huyện An Phú, An Giang
Xã Nghiệm thức
21
NSS
49
NSS
56
NSS
77
NSS
Vĩnh
Lộc
MH 4,5 9,0 9,5 9,5
ĐC 4,0 4,0 1,0 7,0
Phú
Hữu
MH 4,5 7,0 8,5 6,0
ĐC 2,0 2,0 1,0 3,0
Vĩnh
Hậu
MH 3,5 5,0 7,0 7,5
ĐC 2,0 2,0 1,0 3,0
Trung
bình
MH 4,6 7,1 a 6,6 a 7,7 a
ĐC 3,0 3,0 b 1,0 b 4,0 b
P (T <= t) (1) 0,143ns 0,000 0,017 0,000
Mật số nhện và kiến ba khoang cánh ngắn ở
ruộng đối chứng giảm có thể bị ảnh hưởng của việc
phun thuốc trừ sâu, rầy 3 - 4 lần/vụ. Theo nghiên
cứu của Schoenly và cộng tác viên (1996) cho thấy,
phun thuốc gốc Chlopyriphos vào lúc 29 và 43 NSS
làm phục hồi tính phong phú của sâu hại nhanh hơn
thiên địch ăn mồi.
3.6. Sự phát triển chồi, các thành phần năng suất
và năng suất
Số chồi của ruộng đối chứng ở 21NSS cao khác
biệt ý nghĩa ruộng so với mô hình (P = 0,012) nhưng
đến 49 NSS không còn khác biệt nữa. Mặc dù sạ với
mật số thấp hơn nhưng ruộng mô hình vẫn tăng số
chồi tương đương đối chứng. Điều này cho thấy khả
năng đẻ nhánh của lúa trong điều kiện sạ thưa.
Số bông trêm m2, số hạt trên bông và tỷ lệ % hạt
chắc ở ruộng mô hình và đối chứng có khác biệt ý
nghĩa thống kê, trọng lượng 1.000 hạt không khác
biệt. Việc sạ thưa và bón phân cân đối góp phần làm
tăng số hạt trên bông và tỷ lệ hạt chắc cao hơn so với
ruộng đối chứng (Bảng 4).
Ruộng mô hình năng suất 6,95 tấn/ha so với
ruộng đối chứng 6,36 tấn/ha (bảng 4) chênh lệch
0,59 tấn/ha mặc dù không phun thuốc trừ sâu rầy,
giảm lượng giống 50 - 120 kg/ha, giảm lượng phân
đạm, phân lân và số lần bơm nước.
Bảng 4. Sự phát triển chồi, thành phần năng suất và năng suất giữa ruộng mô hình
và đối chứng tại tại 3 xã của huyện An Phú, An Giang
Xã Nghiệm thức
Số chồi/m2 Bông/
m2
Hạt/
bông
% hạt
chắc
W 1000
hạt
Năng suất
(t/ha)21NSS 49NSS 56NSS
Vĩnh Lộc
MH 751 809 731 617 45,7 92,8 26,1 6,95
ĐC 1.160 847 773 667 43,8 88,1 26,0 6,58
Phú Hữu
MH 845 829 730 619 44,9 91,0 26,0 6,77
ĐC 1.131 815 759 644 36,1 86,7 26,1 6,17
Vĩnh Hậu
MH 908 814 701 544 45,3 93,1 25,9 7,15
ĐC 1.070 840 759 623 38,3 82,7 26,0 6,35
Trung bình
MH 835 b 818 721 b 594 b 45,3a 92,3 a 26,0 6,95 a
ĐC 1.120 a 834 764 a 645 a 39,4 b 85,9 b 26,0 6,36b
P (T < = t) (1) 0,012* 0,38ns 0,049* 0,001** 0,001** 0,02* 0,4ns 0,002**
3.7. Hiệu quả tài chính
Đầu tư canh tác lúa của ruộng mô hình thấp hơn
so với ruộng đối chứng hơn 5 triệu đồng/ha. Tổng
thu nhập của ruộng mô hình cũng cao hơn ruộng đối
chứng gần hai triệu đồng/ha do năng suất cao hơn.
Lợi nhuận của ruộng mô hình đạt 26,5 triệu đồng
và ruộng đối chứng đạt 19,4 triệu đồng, chênh lệch
hơn 7 triệu đồng (Bảng 5). Hiệu quả tài chính đạt
được do ruộng mô hình đã giảm lượng giống 74 kg,
23 kg N, 26 kg P2O5, hai lần bơm nước, 4,3 lần phun
thuốc dẫn đến giảm công lao động khá nhiều.
Kết quả nghiên cứu này tương tự với kết quả
nghiên cứu tại Châu Thành, An Giang năm 2019 và
kết quả công bố của Sở Nông Nghiệp và PTNT An
Giang (Sở Nông Nghiệp và PTNT An Giang, 2009;
Nguyễn Thị Thanh Xuân và ctv., 2019).
38
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 5. Hiệu quả tài chính (1.000 đồng/ha)
của ruộng mô hình sản xuất theo hướng an toàn
tại An Phú, An Giang
Các mục Mô hình
Đối
chứng
Chênh
lệch
Tổng chi phí 17.834 22.887 -5.053
Chi giống 1.167 2.083 -917
Phân bón 4.200 5.440 -1.24
Thuốc sâu, rầy 0 798 -798
Thuốc dưỡng, bệnh, ốc 1.866 2.918 -1.052
Bơm nước 1.747 2.147 -400
Chi khác (làm đất, sạ,
phun thuốc, dọn bờ,
thu hoạch...)
8.854 9.501 -647
Tổng thu 41.836 39.848 1.988
Lợi nhuận 24.002 16.961 7.041
IV. KẾT LUẬN
Mô hình sản xuất lúa theo hướng an toàn giảm
được bốn lần phun thuốc trừ sâu, rầy do giảm mật
độ sạ, bón phân theo nhu cầu cây lúa. Canh tác
lúa theo hướng an toàn tiết kiệm 74 kg lúa giống,
23 kg N, 26 kg P2O5, 2,7 lần tưới nước nhưng vẫn đảm
bảo năng suất cao 6,95 tấn/ha. Chi phí đầu tư giảm
5 triệu đồng/ha và lợi nhuận thì tăng 7 triệu đồng/ha
so với ruộng đối chứng nông dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Tuấn, 2014. Nhân tố ảnh hưởng
việc thực hiện 1 phải 5 giảm trong canh tác lúa ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn, (7): 27-36.
Nguyễn Phan Nhân, Bùi Thị Nga, Phạm Văn Toàn,
2015. Sử dụng thuốc bảo bệ thực vật và quản lý bao
bì chứa thuốc rong canh tác lúa tại tỉnh Hậu Giang.
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, số chuyên
đề: Môi trường và Biến đổi khí hậu: 41-49.
Sở Nông nghiệp và PTNT An Giang, 2009. Báo cáo kết
quả triển khai ứng dụng mô hình “1 phải 5 giảm”
trong sản xuất lúa tại An Giang năm 2009.
Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Hồng Tín và Nguyễn Văn
Sánh, 2013. Thâm canh lúa và áp dụng 1 phải 5 giảm
(1P5G): hiện trạng, khó khăn trở ngại và biện pháp
cải tiến sản xuất lúa trên cấp độ nông hộ . Tạp chí
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, (66): 66-74.
Dương Chí Tôn, Nguyễn Minh Bửu và Nguyễn Thị
Thanh Xuân, 2018. Canh tác lúa ba giảm ba tăng
và một phải năm giảm 2016 tại huyện An Phú, An
Giang. Trong Kỷ yếu hội thảo Tiềm năng nhân rộng
mô hình lúa an toàn ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Hữu Phước, Phạm
Văn Quang, 2019. Ảnh hưởng mô hình một phải
năm giảm lên dịch hại, thiên địch và hiệu quả kinh
tế trong sản xuất lúa tại Huyện Châu Thành, Tỉnh An
Giang. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn,
(2): 91-99.
Quy chuẩn Viêt nam, 2014. QCVN 01-166: 2014/
BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương
pháp điều tra phát hiện dịch hại lúa.
Kenmore, P. E, F, O. Carino and C. A. Perez, 1984.
Poputation regulation of the rice brow planr hopper,
Nilaparvata Ingens Stal, within rice fields in the
Philippines. Journal of Phalnt Protection in the
tropics 1, 19-38.
Schoenly K. G., Cohen J. E., and Heong K. L. 1996.
Quantifying the impact of insecticides on food
web structure of rice arthropod population in a
Philippines famers irrigated fields: a case study, in
Food webs, Intergration of Partterns and Dynarnics,
eds, G. Polis and K. Winemiller, Chapman and Hall,
London, pp. 343-351.
Effect of rice production model towards safe orientation
in An Phu district, An Giang province
Nguyen Thi Thanh Xuan, Duong Chi Ton, Pham Van Quang
Abstract
The safe rice production model was carried out in 3 communes in An Phu district, An Giang province with 15 plots,
which applied “1 Must, 5 Reductions” model and without using insecticides for brown plant hopper and rice leaf
folder (safe model ) and other 15 plots, which applied local rice farming (control treatment). The results showed
that the method of applying the safe rice production model reduced 74 kg of seed/ha, 23 kg N/ha, 26 kg P2O5/ha,
and 4 times of insecticide application. The yield of safe rice production model increased 590 kg/ha, the input was
5 million VND/ha lower and the profit was by 7 million VND/ha higher than those of the control treatment. Safe rice
production model gained the high financial effect as well as reduced the environmental pollution.
Keywords: Brown plant hopper, financial effect, leaf folder, natural enemies, rice yield
Ngày nhận bài: 06/4/2020
Ngày phản biện: 10/4/2020
Người phản biện: TS. Vũ Anh Pháp
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_mo_hinh_san_xuat_lua_theo_huong_an_toan_tai_huyen_a.pdf