Hiệu quả phõng trừ tuyến trùng sần rễ hồ tiêu (meloidogyne sp) của chế phẩm nấm paecilomyces lilacinus

Hiệu quả phòng trừ bệnh vàng lá cây hồ tiêu của nấm Paecilomyces lilacinus Dropkin (1980) cho biết tuyến trùng Meloidogyne spp. ký sinh gây thương tổn cho bộ rễ của cây trước, sau đó một số loài nấm Fusarium, Phytopthora và Pythium ký sinh theo, gây bệnh vàng lá chết chậm cho cây. Thử nghiệm được tiến hành trên cây hồ tiêu tại Đắc Lắc cho thấy, trước khi xử lý, toàn bộ cây hồ tiêu ở các vùng thí nghiệm đều có biểu hiện bệnh vàng lá nhẹ từ cấp 1-2 và chủ yếu là ở cấp 2. Chỉ số bệnh không có sự khác biệt nhiều giữa lô thí nghiệm và lô đối chứng (bảng 3.2). Tuy nhiên sau khi phun 15 ngày, mặc dù không có sự khác nhau về tỷ lệ bệnh nhưng chỉ số bệnh đã có sự thay đổi. Chỉ số bệnh tăng cao nhất ở lô đối chứng không xử lý thuốc (67%) tăng gần 21% so với trước xử lý. Ở lô đối chứng, do không xử lý nên có 2 cây bị chết (bệnh ở cấp 4). Chỉ số bệnh vàng lá ở lô xử lý vifu super 5GR không tăng so với trước xử lý. Trái lại, chỉ số bệnh có xu hướng giảm ở lô xử lý nấm Paecilomyces lilacinus. Giải thích điều này, Esfahani và Ansaribour (2006) cho rằng ngoài việc ký sinh lên tuyến trùng và túi trứng, nấm Paecilomyces lilacinus còn kích thích sự phát triển của cây nhờ vậy làm giảm khả năng nhiễm bệnh của cây. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trong điều kiện phòng thí nghiệm, chế phẩm nấm Paecilomyces lilacinus ký sinh 93,7% số tuyến trùng cái sau 5 ngày nhiễm nấm và 95,33% túi trứng của tuyến trùng Meloidogyne sp. sau 6 ngày nhiễm nấm. Chế phẩm nấm Paeciloyces lilacinus 1 x 108 bào tử/g (liều lượng 20kg/ha) cho hiệu lực đối với tuyến trùng trong đất trồng hồ tiêu là 73,67%, tương đương với hiệu lực của thuốc carbosulfan sau 2 tuần xử lý. Chỉ số bệnh vàng lá ở lô xử lý chế phẩm nấm Paeciloyces lilacinus sau 2 tuần đã giảm hơn hẳn so với lô đối chứng không xử lý và có chiều hướng giảm hơn so với lô xử lý thuốc hóa học. Tiếp tục khảo nghiệm chế phẩm ở quy mô rộng hơn và ở nhiều vùng sinh thái. Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất và bảo quản chế phẩm từ nấm P. lilacinus

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả phõng trừ tuyến trùng sần rễ hồ tiêu (meloidogyne sp) của chế phẩm nấm paecilomyces lilacinus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 3/2018 14 không tham gia các tổ chức xã hội rất cao (72%) nên việc tiếp cận thông tin cùng với tính tự phát trong phòng trừ ruồi dẫn đến hiệu quả thấp. Phòng trừ ruồi đục quả dâu Hạ Châu trên diện rộng cần phối hợp ba biện pháp gồm (i) Định kỳ vệ sinh đồng ruộng bằng cách hái và thu gom chôn lấp quả bị ruồi gây hại; (ii) Phun điểm định kỳ bả protein sau khi đậu quả 40 ngày và dừng phun trước đợt thu hoạch cuối cùng 10 ngày; (iii) Treo 20 bẫy dẫn dụ diệt con đực/ha cho hiệu quả khá, tỷ lệ quả bị ruồi gây hại ở cuối vụ ở vườn mô hình là 3,7%, vườn đối chứng là 43,3%. 4.2 Đề nghị Triển khai giải pháp quản lý ruồi đục quả đồng loạt cho toàn vùng sản xuất từ khi quả dâu Hạ Châu được 40 ngày tuổi. Mở rộng diện tích ứng dụng kết quả nghiên cứu nhằm góp phần thực hiện thành công định hướng phát triển “Hình thành các tiểu vùng nông nghiệp đặc trưng” của ngành nông nghiệp thành phố Cần Thơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Allwood A.J. and L.Leblanc, 1996, Losses caused by fruit flies (Diptera: Tephritidae) in seven Pacific Island countries”. In: Management of Fruit flies in The Pacific - ACIAR proceedings N 0 76. A.J.Allwood and R.A.I.Drew. tr. 208-211. 2. AllWood A.J. and Drew R.A.I., 1996. Management of Fruit flies in The Pacific, ACIAR proceedings N 0 76, pp. 111-113, 171 – 178. 3. Keng-Hong Tan and R. Nishida, 1996. Sex Pheromone and Mating competition after Methyl Eugenol consumption in the Bactrocera dorsalis complex. In: Fruit fly pests: A world assessment of their biology and management. Bruce A.McPheron, Gary J.Steck, 1996. pp.147-153. 4. Nguyễn Thị Thanh Hiền, Lê Đức Khánh, Lê Quang Khải, Vũ Thị Thuỳ Trang, Trần Thanh Toàn, Trần Thị Thuý Hằng, Đặng Đình Thắng, Lê Công Hoàng, Đào Kim Dung, Nguyễn Hữu Quang, Lê Ngọc Thành, 2012. Nghiên cứu biện pháp quản lý ruồi hại trái thanh long trên diện rộng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm trái xuất khẩu tại Bình Thuận. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ cấp nhà nước về giải quyết vấn đề cấp thiết tại địa phương. 5. Phạm Bình Quyền, 2006. Sinh thái học côn trùng, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, tr.107-117. 6. Sabine B.N.E., 1992. Pre-havest control methods. International training course 4-15 th May 1992 Fruit flies. 7. Trạm khuyến nông huyện Phong Điền, Báo cáo năm 2017. 8. UBND thành phố Cần Thơ, Kế hoạch số 23/KH- UBND ngày 27 tháng 02 năm 2017, Xây dựng và phát triển huyện Phong Điền thành đô thị sinh thái. Phản biện: TS. Nguyễn Văn Liêm HIỆU QUẢ PHÕNG TRỪ TUYẾN TRÙNG SẦN RỄ HỒ TIÊU (Meloidogyne sp.) CỦA CHẾ PHẨM NẤM Paecilomyces lilacinus Efficacy to Control Root-Knot Nematode (Meloidogyne sp.) on Black Pepper of Paecilomyces lilacinus Formulation Nguyễn Thị Hai, Chu Thị Bích Phƣợng và Đinh Thành Hiếu Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 12.05.2018 Ngày chấp nhận đăng: 22.05.2018 Abstract The aim of this study to evaluate the efficiency of Paecilomyces lilacinus formulation on parasitic nematodes Meloidogyne sp. on black pepper. The effects of P. lilacinus on the root-knot nematode were examined in the laboratory and field conditions. Testing in the laboratory indicated that percentage of parasitized female and egg masses were 93.75% and 95.33% respectively at 5 day and 6 days after inoculating of P. lilacinus formulation. Trials in the black pepper field conditions showed the efficacy to control root-knot nematodes on soil was 73.67% in P. lilacinus formulation and 70.08% in carbofuran treated plots. In further, use of P. lilacinus formulations improved plant growth. Slow wilt disease index of black pepper in P. lilacinus plots is lower in control plot and carbosulfan plot. Keywords: Black pepper, Meloidogyne sp., Pacilomyces lilacinus, root-knot nematode Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 3/2018 15 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tuyến trùng sần rễ (Meloidogyne sp.) là sinh vật hại quan trọng trên cây hồ tiêu [1],[2]. Ngoài gây hại trực tiếp đến sinh trưởng phát triển của cây hồ tiêu, tuyến trùng sần rễ còn tạo điều kiện cho các loài nấm bệnh tấn công gây nhiều bệnh hại nguy hiểm cho cây hồ tiêu. Tuyến trùng Meloidogyne là tác nhân chính của bệnh vàng lá chết chậm trên cây hồ tiêu tại Tây Nguyên (Đào Thị Lan Hoa và cs, 2012).Việc phòng trừ tuyến trùng hại hồ tiêu chủ yếu dựa vào biện pháp hóa học. Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả phòng trừ của thuốc không cao. Mặt khác, việc lạm dụng thuốc hóa học để lại dư lượng cao trong hạt và làm giảm chất lượng hồ tiêu, ảnh hưởng đến xuất khẩu hồ tiêu. Chủng nấm Paecilomyces lilacinus HT1 được phân lập từ đất vùng rễ của cây Jatropha bị tuyến trùng Meloidogyne spp. gây hại và được đánh giá có khả năng ký sinh cao trên tuyến trùng Meloidogyne spp. (Nguyễn Thị Hai và Phan Ánh Ngân, 2017). Đánh giá hiệu quả gây chết tuyến trùng Meloidogyne sp. hại cây hồ tiêu của chế phẩm nấm P. lilacinus sản xuất từ chủng Paecilomyces lilacinus HT1 là cơ sở khoa học cần thiết cho việc sử dụng chủng nấm này trong phòng trừ tuyến trùng hại cây hồ tiêu. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Hiệu quả gây chết tuyến trùng cái của chế phẩm nấm Paeciloyces lilacinus trong phòng thí nghiệm Tiến hành theo phương pháp của Hussey và Barker (1973). Trứng và con cái Meloidogyne sp. được tách ra từ rễ cây hồ tiêu thu ở tỉnh Đắc Lắc và Bình Phước. Mẫu rễ lấy về được rửa sạch dưới vòi nước chảy, đặt trên giấy thấm để khô tự nhiên. Sau đó, dùng kim nhọn tách từ phần rễ dưới ánh đèn sáng và bắt con cái, túi trứng trong nốt sần. Tiến hành nuôi cấy nấm Paecilomyces lilacinus trên các đĩa Petri chứa môi trường PDA. Sau 5 ngày nuôi cấy nấm P. lilacinus trên môi trường PDA tiến hành cấy tuyến trùng cái Meloidogyne sp. (8 tuyến trùng cái/1 đĩa) vào mép khuẩn lạc nấm P. lilacinus. Bố trí thí nghiệm gồm 4 đĩa và lặp lại 3 lần. Sau mỗi ngày, thu lấy tuyến trùng cái có triệu chứng bị nấm ký sinh. Quan sát sự lây nhiễm nấm P. lilacinus trên tuyến trùng cái bằng cách làm tiêu bản nhuộm với xanh methylene và soi dưới kính hiển vi. Tiến hành tương tự như trên túi trứng. 2.2. Đánh giá khả năng phòng trừ tuyến trùng trên đồng ruộng Thí nghiệm được thực hiện tại xã Ea Nam huyện Ea H'leo, tỉnh Đắc Lắc. Thử nghiệm được tiến hành theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, gồm 3 nghiệm thức, nhắc lại 3 lần, mỗi lần là 12 cây hồ tiêu gồm các nghiệm thức sau: - Công thức 1: Rải thuốc hóa học vifu super 5GR (carbosulfan) (30kg/ha) - Công thức 2: Tưới chế phẩm nấm P. lilacinus 1 x 10 8 bào tử/g (liều dùng 20kg/ha) - Công thức 3: Không xử lý (đối chứng) Trước khi xử lý và sau khi xử lý 2 tuần, tiến hành lấy mẫu đất xung quanh rễ cây hồ tiêu. Mỗi công thức lấy 500g. Tách tuyến trùng từ đất bằng phương pháp phễu Baermann (Hooper, 1986). Mức độ gây hại của tuyến trùng được đánh giá dựa vào mức độ vàng lá trên cây hồ tiêu theo Đào Thị Lan Hoa và cs (2012). - Cấp 1: Tỷ lệ vàng lá ≤ 25%, cây phát triển chậm, chùn đọt. - Cấp 2: Tỷ lệ vàng lá 25% - 50%, cây phát triển chậm, bắt đầu có hiện tượng rụng lá, tháo đốt. - Cấp 3: Tỷ lệ vàng lá > 50%, cây không phát triển chậm, rụng lá, tháo đốt nhiều. - Cấp 4: Cây có > 75% lá rụng hoặc toàn thân bị héo. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Hiệu quả ký sinh, gây chết tuyến trùng trong phòng thí nghiệm của chế phẩm Paecilomyces lilacinus 3.1.1. Trên tuyến trùng cái Kết quả thí nghiệm ở hình 1 cho thấy chỉ sau 1 ngày lây nhiễm đã có hơn 30% số tuyến trùng cái bị ký sinh. Đến 3 ngày sau lây nhiễm, số tuyến trùng cái bị ký sinh tăng nhanh lên đến 70,83% và tiếp tục tăng đến 93,7% sau 5 ngày lây nhiễm. Như vậy, khả năng tấn công và ký sinh gây chết tuyến trùng của chế phẩm nấm P. lilacinus rất nhanh và mạnh. Kết quả này cũng khá trùng hợp với các nghiên cứu trước. Cũng tiến hành thử nghiệm trong điều kiện phòng thí nghiệm, Chen Guan Pau et al. (2012) cho biết chỉ sau 1 ngày lây nhiễm đã có đến 50% số tuyến trùng cái bị ký sinh và toàn bộ tuyến trùng Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 3/2018 16 thử nghiệm đều bị nấm ký sinh sau 6 ngày lây nhiễm nấm P. lilacinus. Quan sát sự lây nhiễm Paecilomyces lilacinus trên tuyến trùng cái Meloidogyne sp. cho thấy sợi nấm P. lilacinus ký sinh bao phủ các khắp các phần cơ thể tuyến trùng cái (hình 2B). Theo Morgan-Jone et al. (1984), nấm P. lilacinus tấn công tuyến trùng cái qua các phần bị trầy xướt, qua hậu môn hoặc âm đạo. Hình 1. Diễn biến tỷ lệ (%) tuyến trùng cái bị nấm Paecilomyces lilacinus ký sinh Hình 2. Túi trứng và con cái tuyến trùng Meloidogyne sp. bị nấm P.lilacinus ký sinh đƣợc chụp dƣới kính lúp soi nổi (A: túi trứng bị ký sinh; B: Tuyến trùng cái bị ký sinh) 3.1.2. Khả năng tấn công túi trứng Hình 3. Diễn biến tỷ lệ (%) túi trứng tuyến trùng bị nấm Kết quả ở hình 3 cho thấy sau 1 ngày lây nhiễm, chỉ có khoảng 12,5% túi trứng bị ký sinh. Tỷ lệ này tăng nhẹ và đạt khoảng 20,83% ở 2 ngày sau khi lây nhiễm. Tuy nhiên, từ ngày thứ 3 trở đi, tỷ lệ túi trứng bị ký sinh tăng khá cao đạt 54,26%; 79,16% và 95,33% theo thứ tự sau khi lây nhiễm 4 ngày, 5 ngày và 6 ngày. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Chen Guan Pau et al. (2012). Các tác giả cho biết sau 1 ngày lây nhiễm nấm P. lilacinus, có khoảng 15-35% túi trứng bị ký sinh. Nhưng đến 3 ngày đã có từ 90- 95% túi trứng bị ký sinh và đến 5 ngày toàn bộ túi trứng đã bị nấm ký sinh. 3.2. Kết quả thử nghiệm trên đồng 3.2.1. Hiệu quả trừ tuyến trùng trong đất Đào Thị Lan Hoa và cs (2012) cho biết mật độ tuyến trùng Meloidogyne spp. trong đất trồng hồ tiêu rất cao. Theo Nguyễn Tăng Tôn và cs (2010), có sự tương quan giữa mật độ tuyến trùng trong đất và mức độ vàng lá của cây hồ tiêu. Trên cây xanh và cây vàng lá cấp 1, rễ hồ tiêu chưa thối nên thức ăn cho tuyến trùng dồi dào. Khi cây bị vàng lá cấp 4, giai đoạn này hầu như rễ tơ của cây bị thối nên tuyến trùng di chuyển ra ngoài đất. Kết quả khảo sát ở bảng 1 cho thấy trước khi thí nghiệm, mật độ tuyến trùng ở các công thức biến động xấp xỉ từ 245 đến 276 con/100g đất và không có sự sai khác giữa các công thức. Cây hồ tiêu lúc này bị vàng lá ở cấp B A Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 3/2018 17 2. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Tăng Tôn và cs (2010). Tuy nhiên, sau khi xử lý carbosulfan và chế phẩm P. lilacinus, mật độ tuyến trùng trong đất ở các công thức này giảm rõ rệt so với trước xử lý. Mật độ tuyến trùng đạt cao nhất ở công thức đối chứng không xử lý (313,8 con/100g). Mật độ tuyến trùng trong đất ở công thức xử ý chế phẩm nấm và rải thuốc là tương đương nhau (bảng 1). Hiệu lực gây chết tuyến trùng trong đất của chế phẩm nấm P. lilacinus đạt đến 73,67% tương đương với công thức rải vifu super 5GR (đạt 70,08%). Hiệu lực này khá cao so với một số nghiên cứu. Khảo sát hiệu lực diệt tuyến trùng của một số loại thuốc hóa học, Đào Thị Lan Hoa và cs. (2011) cho biết hiệu lực diệt tuyến trùng trong đất của 6 loại thuốc khảo sát đạt từ 49,69-70,38%. Kết quả này cũng trùng với nhiều nghiên cứu của các tác giả ngoài nước về khả năng phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne của nấm Paecilomyces lilacinus. Thử nghiệm hiệu lực phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne trong đất trồng cà chua, Hano và Khan (2016) cho biết chế phẩm nấm P. lilacinus có thể làm giảm 25-86% số tuyến trùng có trong đất. Số lượng tuyến trùng di động bị giảm, một phần do tác động trực tiếp của nấm P. lilcinus lên tuyến trùng di động, mặt khác nấm P. lilacinus còn làm giảm khả năng nở của trứng (Esfahani and Ansaribour, 2006). Bảng 1. Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne sp. của nấm Paecilomyces lilacinus Công thức thí nghiệm Mật độ tuyến trùng (con/100 g đất) Hiệu lực (%) Trước xử lý Sau xử lý 2 tuần Đối chứng không xử lý 245,1 ns 313,8 a - Rải thuốc vifu super 5GR (30kg/ha) 273,3 ns 104,7 b 70,08 Tưới nấm Paecilomyces lilacinus 1 x 10 8 bào tử/g (liều lượng 20 kg/ha) 276,8 ns 93,3 b 73,67 CV (%) 15,53 17,64 3.2.2. Hiệu quả phòng trừ bệnh vàng lá cây hồ tiêu của nấm Paecilomyces lilacinus Dropkin (1980) cho biết tuyến trùng Meloidogyne spp. ký sinh gây thương tổn cho bộ rễ của cây trước, sau đó một số loài nấm Fusarium, Phytopthora và Pythium ký sinh theo, gây bệnh vàng lá chết chậm cho cây. Thử nghiệm được tiến hành trên cây hồ tiêu tại Đắc Lắc cho thấy, trước khi xử lý, toàn bộ cây hồ tiêu ở các vùng thí nghiệm đều có biểu hiện bệnh vàng lá nhẹ từ cấp 1-2 và chủ yếu là ở cấp 2. Chỉ số bệnh không có sự khác biệt nhiều giữa lô thí nghiệm và lô đối chứng (bảng 3.2). Tuy nhiên sau khi phun 15 ngày, mặc dù không có sự khác nhau về tỷ lệ bệnh nhưng chỉ số bệnh đã có sự thay đổi. Chỉ số bệnh tăng cao nhất ở lô đối chứng không xử lý thuốc (67%) tăng gần 21% so với trước xử lý. Ở lô đối chứng, do không xử lý nên có 2 cây bị chết (bệnh ở cấp 4). Chỉ số bệnh vàng lá ở lô xử lý vifu super 5GR không tăng so với trước xử lý. Trái lại, chỉ số bệnh có xu hướng giảm ở lô xử lý nấm Paecilomyces lilacinus. Giải thích điều này, Esfahani và Ansaribour (2006) cho rằng ngoài việc ký sinh lên tuyến trùng và túi trứng, nấm Paecilomyces lilacinus còn kích thích sự phát triển của cây nhờ vậy làm giảm khả năng nhiễm bệnh của cây. Bảng 2. Kết quả phòng trừ bệnh vàng lá cây tiêu tại Đắc Lắc của chế phẩm nấm P. lilacinus Công thức thí nghiệm Tỷ lệ bệnh (%) Chỉ số bệnh (%) Trước xử lý Sau xử lý 15 ngày Trước xử lý Sau xử lý 15 ngày Đối chứng 100 100 45,83 66,67 Rải thuốc vifu super 5GR 100 100 52,08 54,17 Tưới chế phẩm nấm P.lilacinus 100 100 47,92 43,75 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trong điều kiện phòng thí nghiệm, chế phẩm nấm Paecilomyces lilacinus ký sinh 93,7% số tuyến trùng cái sau 5 ngày nhiễm nấm và 95,33% túi trứng của tuyến trùng Meloidogyne sp. sau 6 ngày nhiễm nấm. Chế phẩm nấm Paeciloyces lilacinus 1 x 10 8 bào tử/g (liều lượng 20kg/ha) cho hiệu lực đối với tuyến trùng trong đất trồng hồ tiêu là 73,67%, tương đương với hiệu lực của thuốc carbosulfan sau 2 tuần xử lý. Chỉ số bệnh vàng lá ở lô xử lý chế phẩm nấm Paeciloyces lilacinus sau 2 tuần đã giảm hơn hẳn so với lô Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 3/2018 18 đối chứng không xử lý và có chiều hướng giảm hơn so với lô xử lý thuốc hóa học. Tiếp tục khảo nghiệm chế phẩm ở quy mô rộng hơn và ở nhiều vùng sinh thái. Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất và bảo quản chế phẩm từ nấm P. lilacinus. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen Guan Pau, Chan Teck Stephen Leong, Sing King Wong, Lily Eng, Make Jjiwan, Franklin Ragai Kkundat, Zakry Fitri Bin Ab Aziz, Osumanu Haruna Ahmed and Nik Muhammad Majid, 2012. Isolation of Indigenous Strains of Paecilomyces lilacinus with antagonistic activity against Meloidogyne incognita. International Journal of Agriculture & Biology, 14: 197–203. 2. Đào Thị Lan Hoa, Trần Kim Loang, Lê Đình Đôn, Nguyễn Tăng Tôn, Lê Đăng Khoa Ngô Thị Xuân Thịnh, Trần Thị Xê, Nguyễn Thị Thiên Trang, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Tiến Sỹ, Cù Thị Dần, Trần Thị Thường, 2012. Kết quả nghiên cứu một số bệnh hại chính trên cây hồ tiêu và biện pháp quản lý theo hướng bền vững tại Tây Nguyên. Hội thảo quốc gia Bệnh hại thực vật, trang 288 – 301. 3. Dropkin V. H., 1980. Introduction to plant nematology. John Wiley and Sons, New York. 4. Esfahani M. Nars and B. Ansari Pour, 2006. The effects of Paecilomyces lilacinus on the Pathogenesis of Meloidogyne Javanica and Tomato plant growth parameters. Iran Agricultural Research ,_Vol. 24.25,_Issue 1.2: 67-76. 5. Hano Pura and Khan Matiyar Rahaman, 2016. Evaluation of fungal (Paecilomyces lilacinus) formulations against root knot nematode infecting tomato. Bangladesh Journal of Botany, 45 (5): 1003-1013. 6. Hooper D.J., 1986. Extraction of free living stages from soil. Laboratory method for work with plant and soil nematodes. 6 ed. London. 7. Hussey R.S., K.R. Barker, 1973. A comparison of methods of collecting inocula for Meloidogyne spp., including a new technique. Plant Dis. Rep., 57: 1025–1028. 8. Morgan-Jones G., J.F. White and R. Rodriguez- Kabana, 1984. Phytonematode pathology: Ultrastructural studies II. Parasitism of Meloidogyne arenaria eggs and larvae by Paecilomyces lilacinus. Nematropica, 14: 57–71. 9. Nguyễn Thị Hai, Phan Ánh Ngân, 2017. Đánh giá một số đặc điểm sinh học và khả năng phòng trừ tuyến trùng của nấm Paecilomyces lilacinus HT1. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quản lý dịch hại tổng hợp cây trồng theo hướng hữu cơ sinh học trong phát triển nông nghiệp xanh. Nxb Nông nghiệp, trang 207-213. 10. Nguyễn Tăng Tôn, Nguyễn Thị Hương, Lê Quang Nhựt, Nguyễn Mộng,, Đỗ Trung Bình, Nguyễn Lương Thiện, Đỗ Đình Đan, Lã Phạm Lân, Đoàn Văn Trung, Trần Kimm Loang, Trần Thị Thu Hà, 2010. Nghiên cứu các giải pháp quản lý tổng hợp dịch hại phát sinh từ đất trên cây hồ tiêu. Báo cáo tổng kết đề tài trọng điểm cấp Bộ 2006-2010. Bộ nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Phản biện: GS-TS-NCVCC. Phạm Văn Lầm MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC VÀ SINH THÁI HỌC CỦA RỆP SÁP BỘT HỒNG Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Homoptera: Pseudococcidae) TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM Bio-Ecological Characteristics of The Cassava Mealybug, Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Hom.: Pseudococcidae) under Laboratory Conditions Đỗ Hồng Khanh 1 , Phạm Văn Lầm 2 và Lê Thị Tuyết Nhung 3 Ngày gửi bài: 02.05.2018 Ngày chấp nhận đăng: 05.06.2018 Abstract Bio-ecological characteristics of the cassava mealybug, Phenacoccus manihoti (Matile-Ferrero, 1977) (Hom.: Pseudococcidae) was studied under laboratory conditions at constant temperatures of 20°C, 25°C and 30°C, 62% RH and a photoperiod of 16 h light:8 h dark using leaves of cassava variety KM 98-7 as food. In this study, all nymphs pass through 3 instars. With increasing in tested temperatures, developmental time of all stages and life span of the cassava mealybug decreased. The duration of egg, nymphal stages and the 1. Cục Bảo vệ thực vật 2. Hội Côn trùng học Việt Nam 3. Viện Bảo vệ thực vật

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_phong_tru_tuyen_trung_san_re_ho_tieu_meloidogyne_sp.pdf
Tài liệu liên quan