Với những gì mà chính sách BHTN ở Việt Nam đã đạt
được trong hơn 9 năm qua, có thể khẳng định BHTN như
một chất xúc tác giúp đảm bảo việc làm bền vững cho
NLĐ, từ đó hạn chế thất nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội,
góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế, tạo nên sự phát triển
bền vững của quốc gia. Để tiếp tục phát huy giá trị nhân
văn sâu sắc của chính sách này, việc nghiên cứu các giải
pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả QLNN về BHTN là
một vấn đề cần được các cơ quan QLNN về BHTN ở Việt
Nam quan tâm, thực hiện
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam: Vấn đề và Giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 1
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Ở VIỆT NAM: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
THE EFFECTIVENESS OF STATE MANAGEMENT OF UNEMPLOYMENT INSURANCE
IN VIETNAM: ISSUES AND SOLUTIONS
Trương Thị Thu Hiền
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng; hienttt@due.edu.vn
Tóm tắt - Tính đến hết năm 2017, sau hơn 9 năm tổ chức thực
hiện, chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở Việt Nam đã thu
hút được gần 12 triệu người tham gia (chiếm 21,82% lực lượng
lao động cả nước). Giai đoạn 2010 - 2017, đã chi trả trợ cấp thất
nghiệp cho 3.621.038 lượt người; đã tư vấn, giới thiệu việc làm
cho 4.026.057 lượt người và đã hỗ trợ đào tạo nghề cho 124.098
lượt người. Nhờ đó, chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
ngày càng trở thành một chính sách quan trọng góp phần ngăn
ngừa, khắc phục hậu quả của thất nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế,
hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) về BHTN vẫn chưa cao. Bài
báo bàn về những vấn đề bất cập liên quan đến hiệu quả QLNN
về BHTN ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện.
Abstract - By the end of 2017, the unemployment insurance (UI)
policy in Vietnam had attracted nearly 12 million people
(accounting for 21.82% of the country's labor force). During the
period 2010 - 2017, 3,621,038 arrivals of people were paid
unemployment allowance; 4,026,057 arrivals of people were given
consultation and introduced jobs, and 124.098 arrivals of people
received vocational training. As a result, the unemployment
insurance policy in Vietnam has become an important policy
contributing to preventing and overcoming the consequences of
unemployment. However, in practice, the effectiveness of state
management of UI remains low. The article discusses the issues
related to the effectiveness of state management of UI in Vietnam
and proposes some solutions.
Từ khóa - trợ cấp thất nghiệp; bảo hiểm thất nghiệp; đào tạo nghề;
tư vấn và giới thiệu việc làm; quản lý nhà nước.
Key words - unemployment allowance; unemployment insurance;
vocational training; consultation and job introduction; state
management.
1. Đặt vấn đề
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2013 và Bộ luật hình sự năm 2015 có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016, được sửa đổi, bổ sung một số
điều năm 2017 đã quy định chi tiết và cụ thể chế tài xử lý
vi phạm pháp luật về BHTN theo hướng đầy đủ và nghiêm
khắc. Theo đó, đã tăng mức phạt đối với các hành vi gian
lận, không trung thực trong khai báo tình trạng việc làm,
cung cấp hồ sơ giả để hưởng các chế độ BHTN; bổ sung
hành vi vi phạm và chế tài xử lý khi người sử dụng lao động
(NSDLĐ) không thực hiện trách nhiệm khai báo thông tin,
khai báo thông tin chậm so với quy định hoặc cung cấp
thông tin sai sự thật với cơ quan, tổ chức theo quy định;
tăng mức phạt đối với tội: trốn đóng, chậm đóng BHTN
cho người lao động (NLĐ); trong đó áp dụng cả các biện
pháp xử lý hình sự với mức phạt cao nhất lên đến 10 năm tù.
Tuy vậy, tình trạng trục lợi BHTN vẫn còn xảy ra, tình
trạng nợ đọng BHTN vẫn còn tồn tại, NLĐ vẫn quan tâm
nhiều hơn đến chế độ trợ cấp thất nghiệp làm cho hiệu
quả quản lý nhà nước về BHTN chưa cao.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Bài báo sử dụng số liệu thứ cấp tổng hợp từ báo cáo
tình hình thực hiện BHTN hàng năm của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội [1], Bảo hiểm xã hội Việt Nam [2].
Bên cạnh đó, bài báo sử dụng số liệu sơ cấp thu thập được
từ cuộc khảo sát ý kiến NLĐ về QLNN về BHTN ở Việt
Nam, được tác giả tiến hành trực tuyến từ ngày 20/9/2016
đến ngày 20/3/2017 bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên phi xác suất với kích thước mẫu được xác định theo
công thức Slovin là 400 NLĐ. Ngoài ra, bài báo cũng sử
dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia (ông Trần Dũng
Hà - Trưởng Phòng Chế độ chính sách, Bảo hiểm xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh) để củng cố quan điểm của tác giả
về những đánh giá và giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
chính sách BHTN trong thời gian đến.
2.2. Phương pháp phân tích số liệu
Bài báo sử dụng phương pháp phân tích số liệu bằng
phần mềm Excel và SPSS.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Một số vấn đề đặt ra về hiệu quả quản lý nhà nước
về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Một là, mức độ chấp hành pháp luật BHTN của NLĐ
chưa cao.
Việc NLĐ cố tình nghỉ việc, nhảy việc để được hưởng
chính sách BHTN là có xảy ra, gây ra sự xáo trộn nhất định
đối với thị trường lao động. Một số NLĐ tìm cách thỏa
thuận với NSDLĐ để được hưởng trợ cấp thất nghiệp
(TCTN), không trung thực khi khai báo tình trạng việc làm,
gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của cơ quan
lao động. Một số NLĐ còn chưa thực hiện đúng trách
nhiệm của mình trong việc khai báo tình trạng việc làm
trong quá trình thẩm định giải quyết hưởng TCTN, khi các
cơ quan chức năng phát hiện NLĐ có việc làm phải tiến
hành các thủ tục chấm dứt và thu hồi nên phát sinh thêm
khối lượng công việc và thủ tục thu hồi.
Hai là, mức độ chấp hành pháp luật BHTN của
NSDLĐ cũng chưa cao.
Phần lớn NSDLĐ chưa thực hiện trách nhiệm thông báo
định kỳ về tình hình biến động lao động cho các cơ quan
quản lý theo quy định; tình trạng chậm đóng và nợ đọng
BHTN vẫn còn xảy ra thường xuyên, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của NLĐ khi họ không được chốt sổ bảo hiểm xã
2 Trương Thị Thu Hiền
hội để hoàn tất thủ tục hưởng BHTN, gây khó khăn trong
quản lý, sử dụng quỹ BHTN. Một số NSDLĐ không nhiệt
tình tham gia tập huấn chính sách BHTN khi các cơ quan
quản lý tổ chức, do chưa nhận thức được tầm quan trọng
của chính sách BHTN cũng như trách nhiệm của đơn vị với
quyền lợi của NLĐ, dẫn đến việc thực hiện chính sách
BHTN không đúng quy định. Một số NSDLĐ cố tình chây
ì, không tiến hành làm các thủ tục chốt sổ cho NLĐ.
Riêng về tình trạng nợ đọng BHTN là rất lớn và mang
tính thường xuyên. Nợ đọng BHTN là tình trạng xảy ra
trong nhiều năm, ở hầu hết các địa phương. Số nợ đọng
BHTN của cả nước luôn ở mức cao, có năm lên đến hơn
545 tỷ đồng (năm 2012), bình quân giai đoạn 2010 - 2017,
mỗi năm nợ BHTN hơn 300 tỷ đồng (Bảng 1).
Bảng 1. Nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Nợ đọng BHTN (triệu đồng) 43,198 308,476 374,735 545,943 301,877 336,354 311,034 323,160 236,000
Tỷ lệ nợ trên tổng số phải thu BHTN (%) 0,001 5,71 5,55 6,30 2,99 2,85 3,13 2,75 1,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Mặc dù Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bảo
hiểm xã hội Việt Nam và các địa phương có nhiều biện
pháp hạn chế (áp dụng lãi phạt chậm nộp, công khai danh
sách đơn vị nợ BHTN, đẩy mạnh tuyên truyền, ...) nhưng
tình trạng nợ đọng BHTN vẫn xảy ra thường xuyên ở các
địa phương, làm quyền lợi của NLĐ có nhiều ảnh hưởng.
Ba là, NLĐ quan tâm nhiều nhất đến TCTN - giải
pháp tạm thời, trước mắt - thay vì các chế độ hỗ trợ lâu
dài khác của BHTN.
Trong các chế độ BHTN, chế độ TCTN là giải pháp tạm
thời, nhằm mục đích bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ
bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống; chế độ hỗ trợ học
nghề mới là cái gốc của chính sách BHTN, nhằm hỗ trợ lâu
dài cho NLĐ, giúp họ giảm thiểu rủi ro bị tái thất nghiệp
trong tương lai. Thế nhưng trong thực tế, NLĐ lại quan tâm
nhiều hơn đến TCTN. Qua thăm dò ý kiến NLĐ về mức độ
quan tâm đến các chế độ BHTN, trong số 217 người hiện
đang tham gia BHTN được hỏi “Ông/Bà quan tâm đến chế
độ BHTN nào nhất trong các chế độ BHTN hiện nay?”, thì
chỉ có 9 người trả lời là quan tâm nhất đến chế độ hỗ trợ
học nghề (chiếm 4,1%), trong khi đó có 185 người quan
tâm nhất đến chế độ TCTN (chiếm 85,3%).
Bốn là, chưa phát huy vai trò chủ đạo của chế độ học
nghề - giải pháp lâu dài, căn bản của BHTN.
Theo báo cáo của Trung tâm Quốc gia về Dịch vụ Việc
làm [3, tr. 7 - 8], nguyên nhân thất nghiệp của NLĐ nộp hồ
sơ hưởng BHTN năm 2017 gồm: do hết hạn hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc hoặc do hai bên tự thỏa thuận
(chiếm 42,9%); do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc (chiếm 36,2%); do doanh nghiệp, tổ chức
giải thể, phá sản, thay đổi cơ cấu (chiếm 4,6%); NLĐ thất
nghiệp do bị xử lý kỷ luật, bị sa thải (chiếm 1,6%); do nguyên
nhân khác (chiếm 14,7%). Cũng theo báo cáo này, trình
độ chuyên môn của NLĐ thất nghiệp nộp hồ sơ hưởng
bảo hiểm thất nghiệp như sau: đại học và trên đại học
chiếm 11,4%; cao đẳng chiếm 5,1%; trung cấp chiếm
6,9%; sơ cấp nghề và chứng chỉ nghề chiếm 8,4%; lao động
phổ thông (không có bằng cấp, chứng chỉ nghề chuyên
môn) chiếm 68,2% số người nộp hồ sơ hưởng TCTN. Một
số địa phương có tỷ lệ NLĐ thất nghiệp là lao động phổ thông
cao như: Đồng Nai (94,7% số người nộp hồ sơ hưởng TCTN);
Tây Ninh (90,9%); Trà Vinh (90,5%); Bến Tre (87,7%;) Long
An (87,1%); Bình Phước (86,6%); Bình Dương (86,0%).
Trong các chế độ BHTN, chế độ học nghề là giải pháp
lâu dài, căn bản nhằm giúp NLĐ thất nghiệp nâng cao trình
độ, chuyển đổi nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trường
lao động, từ đó giúp họ nhanh chóng có cơ hội việc làm
mới, tái gia nhập thị trường lao động. Tuy nhiên, giai đoạn
2010 - 2017, chế độ hỗ trợ học nghề chiếm tỷ lệ thấp nhất
trong cơ cấu chi BHTN (Bảng 2) và số NLĐ mất việc làm
tham gia BHTN được hỗ trợ học nghề cũng chiếm tỷ lệ rất
thấp so với số người được tư vấn, giới thiệu việc làm và số
người hưởng TCTN.
Bảng 2. Cơ cấu chi BHTN giai đoạn 2010 - 2017
Nội dung chi BHTN
Cơ cấu chi BHTN giai đoạn 2010-2017 (%)
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Hỗ trợ học nghề 0,05 0,06 0,09 0,12 0,25 0,65 0,83 0,82
TCTN 99,39 95,94 95,32 95,88 5,36 94,93 93,10 94,71
Đóng bảo hiểm y tế 0,45 4,00 4,59 4,00 4,39 4,42 6,07 4,47
Tư vấn, giới thiệu việc làm 0,11 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Chi hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng
kỹ năng nghề
0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Tổng cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
(Nguồn: Phân tích của tác giả từ số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Theo số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chi cho
chế độ hỗ trợ học nghề nhiều nhất vào năm 2016 (chiếm
0,83% tổng chi) nhưng vẫn còn rất hạn chế. Cơ cấu chi năm
2017 cho chế độ hỗ trợ học nghề cũng vẫn chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng chi (Hình 1).
Giai đoạn 2010 - 2017, chỉ có 124.098 người được hỗ
trợ học nghề trong tổng số 4.026.057 người được tư vấn,
giới thiệu việc làm (chiếm tỷ lệ 3,08%) và 3.621.038 người
có quyết định hưởng trợ cấp BHTN hàng tháng (chiếm tỷ
lệ 3,43%). Số người được hỗ trợ học nghề này được thống
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 3
kê trên cơ sở quyết định của Giám đốc Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội, còn trên thực tế, con số này còn ít
hơn, do không phải tất cả các trường hợp có quyết định đều
tham gia học.
Hình 1. Cơ cấu chi bảo hiểm thất nghiệp năm 2017 (%)
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Tìm hiểu về công tác đào tạo nghề cho NLĐ mất việc
làm từ quỹ BHTN, trong số 63 người đã từng đến làm thủ
tục hưởng chế độ BHTN tại các điểm tiếp nhận, có
40 người cho rằng không đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện
vọng (chiếm tỷ lệ 63,49%), có 46 người cho rằng không đa
dạng trong lựa chọn các khóa học nghề (chiếm tỷ lệ
73,02%), có 47 người cho rằng không hỗ trợ tốt cho NLĐ
trong thời gian học nghề (chiếm tỷ lệ 74,60%).
Đối với chế độ hỗ trợ đào tạo nghề, nội dung hỗ trợ cho
NLĐ mất việc làm tham gia đào tạo nghề còn rất hạn chế:
NLĐ mất việc làm nếu đăng ký và tham gia học nghề chỉ
được hỗ trợ về kinh phí ở một mức nhất định, nếu vượt
phần quy định phải chịu nộp phần kinh phí chênh lệch.
NLĐ mất việc đã không có thu nhập, lại phải dành thời gian
học nghề, chi trả nhiều khoản kinh phí phát sinh (ăn, ở, đi
lại, ) trong thời gian học nghề làm cho NLĐ không muốn
đăng ký học nghề ngay cả khi có nhu cầu.
Năm là, hơn 63,6% NLĐ không cảm thấy hài lòng
trong quá trình làm thủ tục hưởng BHTN tại các điểm
tiếp nhận/ điểm ủy thác.
Kết quả khảo sát NLĐ cho thấy, trong 63/400 người đã
từng đến làm thủ tục tại các điểm tiếp nhận, có 6 người trả
lời là bị kéo dài thời gian làm thủ tục do lỗi của nhân viên,
chiếm tỷ lệ 9,52%. Trong số này có trường hợp chị Loan,
nhân viên bán hàng Công ty May mặc An Phước, xin chuyển
hưởng chế độ BHTN về Sóc Trăng vì phải về quê chăm
chồng ốm. Chị nói: “Trong tờ khai đăng ký thất nghiệp, tôi
ghi rõ ràng địa chỉ thường trú, thế mà khi cầm quyết định về
đến nơi thì bị sai địa chỉ. Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh
không chấp nhận giải quyết cho tôi. Sáng giờ tôi phải tốn
tiền, tốn công đi xe đò lên làm lại. Mà còn phải chờ họ đi Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội ký mới lấy về”.
Trong 63 người đã từng đến làm thủ tục tại các điểm tiếp
nhận BHTN được hỏi, có 29 người trả lời là gặp phải trường
hợp nhân viên quá cứng nhắc trong giải quyết công việc,
chiếm 46,03%. Tình trạng nhân viên không trả lời thỏa đáng
các thắc mắc cũng có xảy ra. Có 30/63 NLĐ đã từng đến
làm thủ tục hưởng BHTN tại các điểm tiếp nhận được hỏi
trả lời là gặp phải trường hợp nhân viên trả lời không thỏa
đáng các thắc mắc, chiếm tỷ lệ 47,62%. Ngoài ra, tình trạng
nhân viên có thái độ hách dịch, không cầu thị cũng được
16/63 NLĐ được hỏi phản ánh (chiếm tỷ lệ 25,40%).
Mặc dù các trường hợp này xảy ra không nhiều và
không thường xuyên nhưng nó có ảnh hưởng nhất định đến
sự hài lòng của NLĐ mất việc khi đến làm thủ tục tại các
điểm tiếp nhận BHTN. Và thực tế khi 63 NLĐ đã từng đến
làm thủ tục tại các điểm tiếp nhận được hỏi về mức độ hài
lòng trong quá trình làm thủ tục, chỉ có 3,2% cảm thấy rất
hài lòng và 33,3% cảm thấy hài lòng, số còn lại cảm thấy
bình thường (41,3%), không hài lòng (17,5%) và rất không
hài lòng (4,8%).
3.2. Một số giải pháp
Giải pháp 1: Tăng cường chức năng thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại tố cáo của ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội đối với đơn vị sử dụng
lao động chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp và
các đơn vị được trao quyền quản lý, tổ chức thực hiện
bảo hiểm thất nghiệp.
Hiện nay, chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHTN đã cơ
bản đầy đủ và nghiêm khắc, vấn đề còn lại là ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội cần tập trung vào chức năng
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố
cáo nhằm ngăn ngừa, hạn chế, phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về BHTN.
Đối tượng mà ngành Lao động - Thương binh và Xã
hội cần đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra về BHTN là các đơn
vị sử dụng lao động chậm đóng, nợ đọng BHTN để đôn
đốc, nhắc nhở họ trong thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước
về BHTN, cũng là cách đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của NLĐ làm việc cho các đơn vị này, cũng đồng thời
phù hợp với chủ trương của Chính phủ trong việc tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát triển, hạn chế tối đa việc thanh
tra, kiểm tra không cần thiết.
Một đối tượng khác không kém phần quan trọng mà
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cần phải
đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra là các đơn vị được trao quyền
quản lý, tổ chức thực hiện BHTN như các trung tâm dịch
vụ việc làm cấp tỉnh và các cơ quan bảo hiểm xã hội các
cấp. Việc thanh tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa, phát hiện,
hạn chế các sai sót trong nghiệp vụ quản lý, sử dụng quỹ
BHTN, trong giải quyết chế độ BHTN, trong xử lý các
trường hợp chi không đúng đối tượng phải thu hồi.
Giải pháp 2: Giảm tình trạng nợ đọng.
Để giảm tình trạng nợ đọng BHTN, cần thực hiện tốt
các biện pháp ngăn ngừa như: Từng bước thực hiện, tiến
tới ủy thác hoàn toàn cho cơ quan thuế thực hiện việc thu
BHTN; Tăng cường công tác tuyên truyền, tăng mức phạt
chậm đóng BHTN, phối hợp với cơ quan báo, đài nêu đích
danh tên các đơn vị sử dụng lao động có nợ đọng kéo dài
hoặc số tiền nợ lớn.
Bên cạnh đó, cần tiến hành xử lý đối với các khoản nợ
BHTN hiện tại: Đối với các khoản nợ BHTN trong thời
gian hai tháng, cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện cần cử
cán bộ theo dõi, trực tiếp đôn đốc và gửi văn bản đôn đốc;
Đối với các khoản nợ BHTN trong thời gian ba tháng, cơ
quan bảo hiểm xã hội cấp huyện cần có văn bản báo cáo
với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và Uỷ ban
nhân dân cùng cấp; Đối với các khoản nợ BHTN trong thời
gian từ 4 đến 6 tháng, Uỷ ban nhân dân cấp huyện cần chỉ
đạo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và cơ quan
0.82
94.71
4.47 Hỗ trợ học nghề
Trợ cấp thất nghiệp
Đóng bảo hiểm y tế
Tư vấn, giới thiệu việc làm
Chi hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng nghề
4 Trương Thị Thu Hiền
bảo hiểm xã hội cùng cấp tiến hành thanh tra, xử lý vi
phạm; Đối với các khoản nợ BHTN kéo dài từ 6 tháng trở
lên, cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện tiến hành lập danh
sách, hồ sơ chuyển Liên đoàn lao động cùng cấp tiến hành
khởi kiện ra toà án nhân dân.
Ngoài ra, cần phải quy định trách nhiệm đối với người
đứng đầu cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp - nơi xảy ra nợ
đọng BHTN lớn và kéo dài. Hiện chế tài xử phạt đã có,
tương đối nghiêm khắc và đầy đủ; chức năng thanh tra nợ
đọng BHTN cũng đã được giao cho cơ quan bảo hiểm xã
hội, việc còn lại phụ thuộc nhiều vào trách nhiệm, cách
thức triển khai, tổ chức thực hiện của ngành Bảo hiểm xã
hội các cấp.
Giải pháp 3: Tăng sự hỗ trợ cho người lao động đủ
điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bổ sung chế độ hỗ trợ mới: Cho vay ưu đãi từ quỹ
BHTN: Trong 4 chế độ BHTN hiện hành, NLĐ khi mất
việc đã bước đầu có sự hỗ trợ về tài chính, trong số đó có
một phần được đào tạo nghề nhưng rất ít, số lao động được
hỗ trợ từ quỹ BHTN tái gia nhập thị trường lao động là có
nhưng chưa được thống kê cụ thể. Nhiều người trong số họ
quay về tự làm ăn buôn bán, kiếm kế sinh nhai. Thực tế kết
dư quỹ BHTN hiện rất lớn (trên 8.000 tỷ đồng (năm 2010),
31.869,9 tỷ đồng (năm 2013), 41.558 tỷ đồng (năm 2014),
56.486 tỷ đồng (năm 2016)) và tổng chi BHTN hàng năm
thấp hơn nhiều so với tổng thu BHTN (Hình 4).
Hình 4. Tỷ lệ chi BHTN so với tổng thu BHTN giai đoạn 2010-2017
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Do đó, để tạo điều kiện hơn nữa cho NLĐ mất việc làm,
cần có sự hỗ trợ về tài chính thông qua việc cho vay vốn từ
nguồn quỹ BHTN còn kết dư đối với những NLĐ mất việc
thực sự cần vốn để tự sản xuất, kinh doanh - đó cũng là
cách tạo việc làm cho NLĐ để giảm gánh nặng thất nghiệp.
Vì vậy, bên cạnh 4 chế độ BHTN hiện hành, cần nghiên
cứu áp dụng thêm chế độ cho vay ưu đãi từ quỹ BHTN.
+ Tăng mức hỗ trợ đối với chế độ hỗ trợ học nghề:
Cần có hỗ trợ nhiều hơn cho NLĐ đang hưởng BHTN tham
gia học nghề như hỗ trợ một phần chi phí ăn ở, sinh hoạt
phí ... để họ yên tâm tham gia khóa học.
+ Bổ sung chế độ hỗ trợ đột xuất trong các trường
hợp gặp rủi ro: Cần có hỗ trợ đột xuất cho NLĐ đang
hưởng BHTN trong các trường hợp rủi ro (bị tai nạn, bị suy
giảm khả năng lao động trong quá trình hưởng BHTN),
không thể tái tham gia thị trường lao động.
Giải pháp 4: Nâng cao năng lực hệ thống đào tạo
nghề ở địa phương.
Để chế độ đào tạo nghề thu hút được sự quan tâm của
NLĐ thất nghiệp, vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào để
các ngành nghề đào tạo thực sự phù hợp với nhu cầu của
NLĐ thất nghiệp, phải hướng đến nhu cầu thực sự của họ
để cung cấp các khóa đào tạo nghề phù hợp, chứ không
phải chỉ đào tạo những gì là thế mạnh của các cơ sở đào tạo
nghề; đồng thời phải nắm bắt nhu cầu của xã hội thông qua
NSDLĐ để đi tắt, đón đầu, hướng NLĐ thất nghiệp vào các
ngành nghề mà xã hội cần. Để làm được việc này, các cơ
sở đào tạo nghề cần làm tốt hai hoạt động chính: nắm bắt
nhu cầu và tổ chức các hoạt động phù hợp với nhu cầu. Nói
cách khác, các cơ sở đào tạo nghề ở địa phương phải nâng
cao năng lực nắm bắt nhu cầu, tổ chức đa dạng các ngành
nghề đào tạo, đi tắt đón đầu xu hướng của xã hội để thiết
kế các khóa đào tạo nghề phù hợp.
Để làm được những việc này, các địa phương cần tiến
hành rà soát, sắp xếp mạng lưới dạy nghề trên địa bàn theo
các tiêu chí: kết quả tuyển sinh, thực trạng đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý dạy nghề, hiệu quả đào tạo, hiệu
suất sử dụng cơ sở vật chất thiết bị đã được đầu tư. Cần xây
dựng phương án chuyển giao, sáp nhập, giải thể các cơ sở
đào tạo nghề công lập hoạt động không hiệu quả, đồng thời,
tập trung chỉ đạo các cơ sở dạy nghề đang hoạt động tốt,
đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động dạy nghề gắn với tích cực triển
khai thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định số
15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ. Việc xác
định chỉ tiêu tuyển sinh, phê duyệt chương trình đào tạo,
mở mã ngành phải dựa trên cơ sở nhu cầu của xã hội,
của NLĐ thất nghiệp là chính, bên cạnh các điều kiện khác
về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên, ... Cần khuyến
khích mở các ngành nghề đào tạo mới, đa dạng; thu hút khu
vực tư tham gia vào hoạt động đào tạo nghề, đẩy mạnh xã
hội hóa công tác đào tạo nghề.
Vấn đề quan trọng khác là cần chỉ đạo tổ chức nghiên
cứu nhu cầu của thị trường lao động ở địa phương để có cơ
sở xây dựng danh mục ngành nghề đào tạo phù hợp, từ đó
mạnh dạn bổ sung, thay thế các ngành nghề đào tạo trong
danh mục ngành nghề hiện có sao cho vừa đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động, vừa đáp ứng khả năng của NLĐ thất
nghiệp. Cần thực hiện tốt việc điều tra, khảo sát thông tin thị
trường lao động hàng quý, hàng năm; đầu tư nâng cấp và
duy trì hoạt động thường xuyên hoạt động của sàn giao dịch
việc làm - cầu nối giữa doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề và
NLĐ; định kỳ tổ chức điều tra cung - cầu lao động trên địa
10.17 16.69
30.53 38.74 38.33 49.13 49.14 59.16
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Thu BHTN (%) Tỷ lệ chi BHTN so với tổng thu (%)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 5
bàn để làm cơ sở xây dựng các kế hoạch đào tạo nghề.
Ngoài ra, cần quan tâm tháo gỡ những khó khăn cho
các cơ sở đào tạo nghề trong quá trình tổ chức hoạt động
đào tạo nghề cho lao động thất nghiệp (về thủ tục chi trả
kinh phí, đơn giản hóa các quy trình thủ tục, ).
Giải pháp 5: Nâng cao chất lượng tiếp nhận, giải
quyết chế độ của trung tâm dịch vụ việc làm cấp tỉnh.
+ Trung tâm dịch vụ việc làm cấp tỉnh cần tiến hành
xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận thuộc
trung tâm (bộ phận đào tạo nghề, bộ phận tư vấn, giới thiệu
việc làm, bộ phận tiếp nhận BHTN) để có sự phối hợp nhịp
nhàng, chặt chẽ trong các khâu tiếp nhận, giải quyết
BHTN, hướng dẫn, giải thích, giải quyết thắc mắc cho
NLĐ. Đồng thời, thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ để
kiểm soát thường xuyên các khâu của quy trình tiếp nhận,
giải quyết BHTN để hạn chế sai sót.
+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần cho phép
các địa phương chủ động trong bố trí các điểm tiếp nhận để
thuận tiện cho NLĐ trong quá trình liên hệ giải quyết chế độ.
+ Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và ngành
Bảo hiểm xã hội cần thống nhất chủ trương tăng cường các
hoạt động giao dịch gián tiếp (trực tuyến hoặc qua bưu
điện) trong các khâu của quy trình: nộp hồ sơ, chốt sổ bảo
hiểm xã hội, cung cấp thông tin hưởng TCTN, cung cấp
thông tin tìm kiếm việc làm, ... để thuận tiện hơn cho NLĐ
thất nghiệp.
+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần khảo sát và
tiến hành giao định biên lao động thực hiện BHTN theo khối
lượng công việc tiếp nhận ở các trung tâm dịch vụ việc làm.
+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống trung tâm
dịch vụ việc làm theo hướng hiện đại để tiến hành kết nối
thông tin thị trường lao động ở các địa phương, doanh nghiệp,
các điểm tiếp nhận/ủy thác với sàn giao dịch việc làm.
+ Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tiếp
nhận, giải quyết chế độ BHTN tại các trung tâm dịch vụ
việc làm, từ phẩm chất, đạo đức, năng lực, trình độ, thái độ,
tác phong.
+ Đầu tư kinh phí cho trung tâm dịch vụ việc làm cho hoạt
động kết nối cung - cầu lao động, nắm bắt nhu cầu xã hội và
NLĐ thất nghiệp để nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn,
giới thiệu việc làm: Tiếp tục phát huy hiệu quả của các sàn
giao dịch việc làm cố định và lưu động; tăng cường mối quan
hệ gắn kết với NSDLĐ trong việc cung cấp thông tin tuyển
dụng cho trung tâm dịch vụ việc làm; Phát huy hiệu quả của
website trung tâm dịch vụ việc làm hiện có theo hướng ngày
càng tăng tính tương tác giữa NLĐ, NSDLĐ và lãnh đạo, các
đơn vị thuộc trung tâm, sử dụng đa dạng các hình thức tư vấn,
kể cả tư vấn trực tuyến; tiếp tục phát huy tính chủ động của
NLĐ thất nghiệp thông qua việc cung cấp rộng rãi thông tin
việc làm của NSDLĐ; Có sự linh hoạt về hướng tư vấn nghề
nghiệp sao cho vừa phù hợp với khả năng, nhu cầu của NLĐ,
vừa đảm bảo nhu cầu của thị trường lao động.
4. Kết luận
Với những gì mà chính sách BHTN ở Việt Nam đã đạt
được trong hơn 9 năm qua, có thể khẳng định BHTN như
một chất xúc tác giúp đảm bảo việc làm bền vững cho
NLĐ, từ đó hạn chế thất nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội,
góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế, tạo nên sự phát triển
bền vững của quốc gia. Để tiếp tục phát huy giá trị nhân
văn sâu sắc của chính sách này, việc nghiên cứu các giải
pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả QLNN về BHTN là
một vấn đề cần được các cơ quan QLNN về BHTN ở Việt
Nam quan tâm, thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Báo cáo hàng năm về tình
hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
[2] Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Báo cáo hàng năm về tình hình thực hiện
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
[3] Trung tâm Quốc gia về Dịch vụ việc làm, Báo cáo tình hình thực
hiện bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc năm 2017, 2018.
[4] Quốc hội, Luật Việc làm, 2013.
[5] Phiếu khảo sát trực tuyến 400 người lao động do tác giả thực hiện,
https://docs.google.com/a/due.edu.vn/forms/d/e/1FAIpQLScW9w
X_O_1SzBd2jMZ8Kedq4PArduh7LjqB2i7FFviNeKi3Ag/viewfor
m?c=0&w=1
[6] Kết quả khảo sát trực tuyến 400 người lao động do tác giả thực hiện,
https://docs.google.com/spreadsheets/d/1H-
3ovsuBaRg5w0_wudNp2ENKLFgS-
WAbVM69RMZywlw/edit#gid=36559004
(BBT nhận bài: 03/4/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/4/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_quan_ly_nha_nuoc_ve_bao_hiem_that_nghiep_o_viet_nam.pdf