thấy chỉ có 2 yếu tố nguy cơ có liên quan đến tử
vong sớm là: mổ cấp cứu (p = 0,01) và thời gian
gây mê phẫu thuật kéo dài (p = 0,04).
Yếu tố nguy cơ mổ cấp cứu được xem là một
trong những yếu tố nguy cơ tử vong chu phẫu.
Tuy nhiên sự đồng thuận của nó cũng không
được thống nhất. Theo Hilmi(6) mổ cấp cứu là
một trong những yếu tố nguy cơ tử vong.
Tương tự tác giả Hilmi, chúng tôi đồng ý rằng
BN mổ cấp cứu thường ở trong tình trạng tim
mạch nguy kịch hơn, việc chuẩn bị cho cuộc mổ
sẽ không được đầy đủ và chắc chắn nguy cơ
nhiễm trùng sẽ cao hơn so với mổ chương trình.
Một số tác giả như Lagasse(8) đồng ý rằng
gây mê nội khí quản kéo dài là một trong những
yếu tố nguy cơ tử vong của bất kì phẫu thuật
nào. Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
được thời gian GM kéo dài (> 8 giờ) là một yếu
tố có liên quan đến tử vong sớm. Điều này có
thể do: sửa chữa ngoại khoa khó khăn, thời gian
THNCT và kẹp động mạch chủ kéo dài, dẫn đến
hậu quả thiếu máu cơ tim và có thể bị sốc tim
sau mổ không cho phép cai THNCT dễ dàng, rối
loạn đông máu, thời gian phơi nhiễm lâu.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ trên các bệnh nhân suy tim nặng trong phẫu thuật tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 94
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BÓNG ĐỐI XUNG NỘI ĐỘNG MẠCH CHỦ
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN SUY TIM NẶNG TRONG PHẪU THUẬT TIM MẠCH
Nguyễn Tất Bình*, Hoàng Anh Khôi*, Nguyễn Thị Quý*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bóng đối xung nội động mạch chủ (BĐXNĐMC) là phương tiện cơ học thường được sử dụng
để hỗ trợ suy thất trái không thể điều trị hiệu quả bằng phương pháp nội khoa đơn thuần. Nghiên cứu tại Viện
Tim TPHCM nhằm đánh giá hiệu quả trong việc cải thiện huyết động, tỷ lệ biến chứng và bước đầu tìm kiếm
những yếu tố nguy cơ có liên quan đến tử vong sớm ở những bệnh nhân này.
Kết quả: Hiệu quả của BĐXNĐMC cho thấy cải thiện được huyết áp tâm trương ngay sau khi đặt bóng và
rõ nhất sau 72 giờ (p = 0,028). Nhịp tim bắt đầu cải thiện từ ngày thứ 5 (p = 0,008). Liều thuốc tăng co bóp cơ
tim (dobutamine, epinephrine, norepinephrine) giảm được từ ngày thứ 5 và 7 sau khi đặt bóng (p = 0,007). Biến
chứng thường gặp là nhiễm trùng (24,3%) và thiếu máu chi (5,4%).
Kết luận: Nghiên cứu đã cho thấy BĐXNĐMC có vai trò hỗ trợ tuần hoàn hiệu quả trong giai đoạn chu
phẫu cho các bệnh nhân phẫu thuật tim mạch nặng. Tuy nhiên, đây là một phương tiện hỗ trợ xâm lấn nên tỉ lệ
biến chứng còn cao. Những yếu tố có liên quan đến nguy cơ tử vong sớm bao gồm: mổ cấp cứu và thời gian gây
mê phẫu thuật kéo dài trên 8 giờ.
Từ khoá: BĐXNĐMC: Bóng đối xung nội động mạch chủ, Hội chứng cung lượng tim thấp, THNCT:
Tuần hoàn ngoài cơ thể.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF INTRA – AORTIC BALLOON PUMPING IN SEVERE HEART FAILURE
PATIENTS IN CARDIAC SURGERY
Nguyen Tat Binh, Hoang Anh Khoi, Nguyen Thi Quy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 94 - 100
Objective: To define the effectiveness on hemodynamic, complications of intra – aortic balloon pumping
(IABP) support in cardiac surgery. As a first step, we identify the risk factors for early mortality in these patients.
Design: Retrospectively study.
Setting: Uni-institution.
Participants: A total of 37 consecutive adult patients requiring IABP support of 3,112 patients undergoing
cardiac surgery from 01/01/2005 to 30/06/2010 at Heart Institute of Ho Chi Minh City.
Intervention: All patients were assigned into 1 of 2 groups: survival (n = 20) and non – survival (n = 17).
Main results: The effectiveness on hemodynamic showed that the diastolic pressure improved after balloon
insertion increased significantly after 72 hours (p = 0.028). The heart rate reduced after 5 days (p = 0.008).
Inotropic dosages (dobutamine, epinephrine, norepinephrine) were reduced after 5 or 7 days (p = 0.007).
Complications were infection (24.3%), and limb ischemia (5.5%).
Conclusion: These data suggest that IABP has got success in hemodynamic supporting for severe patients
in intra – operative period. However, it is an invasive mechanical assistant device. So the mortality and morbidity
* Khoa Gây mê – Viện Tim Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Bs Nguyễn Tất Bình, ĐT: 01219.406.208 Email: drnguyentatbinh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 95
are high. The risk factors for early mortality were emergency operation and anesthetic duration over 8 hours.
Key words: IABP: Intra – aortic balloon pump, cardiac surgery, LCOS: Low cardiac output syndrome,
CPB: cardio – pulmonary bypass.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mặc dù ngày càng có nhiều tiến bộ mới
trong điều trị nội khoa, nhưng trong một số tình
huống suy tim cấp (đặc biệt là suy thất trái)
chúng ta không thể điều trị hiệu quả bằng
phương pháp nội khoa đơn thuần. Trong
trường hợp này, chỉ có hỗ trợ tuần hoàn theo
phương pháp cơ học mới cho phép cải thiện
được tình trạng huyết động, giúp cho chức năng
thất trái có thời gian hồi phục trở lại. Một trong
những thiết bị thường được sử dụng nhất là
bóng đối xung nội động mạch chủ
(BĐXNĐMC)(11).
BĐXNĐMC được sử dụng lần đầu tiên
trong lâm sàng vào năm 1968 để hỗ trợ cho
những bệnh nhân (BN) bị sốc tim (cardiogenic
shock) sau nhồi máu cơ tim cấp. Sau đó,
BĐXNĐMC nhanh chóng được phát triển rộng
ra trong việc hỗ trợ cai tuần hoàn ngoài cơ thể
(THNCT) cũng như hồi sức sau mổ tim. Tại
Viện Tim Thành Phố Hồ Chí Minh (TPHCM),
BĐXNĐMC đã được đưa vào sử dụng từ năm
2003 để hỗ trợ tuần hoàn trên các bệnh nhân sốc
tim sau nhồi máu cơ tim cấp cần can thiệp
ĐMV, thất bại khi cai THNCT và đặc biệt trong
giai đoạn hồi sức đã cho phép cải thiện đáng kể
kết quả phẫu thuật. Mục đích của nghiên cứu
nhằm đánh giá hiệu quả trong việc cải thiện
huyết động, tỷ lệ các biến chứng và bước đầu
tìm kiếm các yếu tố nguy cơ có liên quan đến tử
vong sớm ở những BN suy tim nặng có đặt
BĐXNĐMC được phẫu thuật tại Viện Tim
TPHCM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân ≥ 18 tuổi được mổ chương trình
hay cấp cứu tại Viện Tim TPHCM trong khoảng
thời gian 01/01/2005 đến ngày 30/06/2010 có đặt
BĐXNĐMC. Những BN có đặt bóng nhưng
không được phẫu thuật sẽ bị loại ra khỏi danh
sách nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Tại Viện Tim TPHCM, BĐXNĐMC được đặt
theo kỹ thuật Seldinger qua ngã động mạch đùi.
Bóng được xem là đúng vị trí khi đầu mút của
bóng phải cách động mạch dưới đòn trái 2 – 3
cm. Thiết bị bơm bóng được sử dụng là Arrow
ACATTM Plus (CE 0123) với cỡ bóng tương ứng
chiều cao BN (chiều cao < 152 cm: bóng 25 mL;
152 – 163 cm: 34 mL; 163 – 183: 40 mL; > 183 cm:
50 mL). Phòng ngừa huyết khối bằng heparine
không phân đoạn truyền tĩnh mạch để đạt TCK
từ 50 – 70 giây.
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: nhóm
sống và nhóm tử vong. Số liệu thu thập dựa trên
hồ sơ bệnh án gồm các biến số liên quan đến BN
và BĐXNĐMC:
Biến số liên quan đến đặc điểm BN
Tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng.
Tiền sử bệnh trước mổ: nhồi máu cơ tim (đã
được chẩn đoán hoặc có biểu hiện trên điện tâm
đồ), đái tháo đường type II (đã được chẩn đoán
hay đang dùng thuốc kiểm soát đường huyết),
tăng huyết áp (nếu huyết áp tâm trương ≥ 90
mmHg), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (đã được
chẩn đoán hoặc đang dùng các thuốc dãn phế
quản), tăng cholesterol máu (nếu cholesterol >
5.6 mmol/L hoặc đang dùng các thuốc hạ lipid
máu), bệnh mạch máu ngoại biên (đã được chẩn
đoán), bệnh tai biến mạch máu não (đã được
chẩn đoán), hút thuốc lá (nếu hút trên 10
điếu/ngày), uống rượu, suy gan (nếu men
bilirubin toàn phần tăng gấp 7 – 8 lần so với
bình thường), suy thận (nếu creatinine máu >
130 mmol/L), sốc tim lúc nhập viện (đã chẩn
đoán), dùng thuốc tiêu sợi huyết, mổ cấp cứu
(trong vòng 24 giờ sau khi chẩn đoán).
Mức độ suy tim BN theo phân độ NYHA
(New York Heart Association), tình trạng thể
chất BN theo ASA (American Society of
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 96
Anesthesiologists), nguy cơ tử vong phẫu thuật
tim mạch theo EUROSCORE (European System
for Cardiac Operative Risk Evaluation) và chẩn
đoán bệnh tim trước mổ.
Kết quả một số xét nghiệm tiền phẫu: siêu
âm tim (đường kính thất trái, phân suất tống
máu), điện tâm đồ (nhịp, ST chênh), chụp mạch
máu (hẹp nhánh trái ĐMV, hẹp ba nhánh ĐMV,
hẹp mạch máu ngoại biên), X quang tim phổi
(chỉ số tim lồng ngực).
Thời gian THNCT, thời gian kẹp động
mạch chủ, thời gian gây mê, phương pháp
mổ, mạch, huyết áp, áp lực tĩnh mạch trung
tâm (ALTMTT) khi ngưng THNCT, tình trạng
sốc điện khi cho tim đập lại, tình trạng ngưng
tim sau mổ, suy thận cấp phải làm thẩm phân
phúc mạc, mổ lại cầm máu, thời gian thở máy,
thời gian nằm hồi sức.
Biến số liên quan đến BĐXNĐMC
Chỉ định đặt.
Mạch, huyết áp, ALTMTT, chức năng co bóp
tim, thuốc tăng co bóp cơ tim (TCBCT) trước đặt
bóng, sau đặt bóng, sau 6 giờ, sau 12 giờ, sau 24
giờ, sau 48 giờ, sau 72 giờ, sau 5 ngày, sau 7
ngày và sau khi rút bóng.
Thời gian sử dụng bóng, biến chứng, tử
vong sớm (tử vong trong thời gian nằm viện).
Phân tích và xử lí số liệu
Các số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS
16.0 (đăng ký 2007). Các biến liên tục được biểu
diễn dưới dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn
(TB ± ĐLC). Tính tần xuất và tỉ lệ phần trăm (%)
các biến định tính. So sánh các biến liên tục bằng
phép kiểm t, so sánh tỉ lệ bằng phép kiểm χ2
hoặc phép kiểm chính xác Fischer. Lượng giá
các yếu tố nguy cơ có liên quan đến tử vong
sớm bằng phương pháp phân tích hồi qui đơn
biến. Giá trị p < 0,05 tính toán trong các phép so
sánh được xem là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu
Trong khoảng thời gian nghiên cứu, có 37
BN (1,19%) được đặt BĐXNĐMC trong tổng số
3112 BN người lớn mổ tim. Những đặc điểm
lâm sàng và cận lâm sàng trước mổ được mô tả
trong các Bảng 1, 2, 3 và 4.
Bảng 1: Đặc điểm chung trước mổ
Đặc điểm TB ± ĐLC BN (%) Sống (TB,%) Tử vong (TB,%) p
Tuổi (năm) 49,81 ± 15,54 (19 - 73) 45,55 ± 16,68 54,82 ± 12,80 NS
Giới tính (nam%) 14 (37,8)
BMI (kg/m2) 19,25 ± 4,37 (12,96 – 34,08) 19,03 ± 4,94 19,51 ± 3,72 NS
Mạch vành 8 (21,6)
Van tim 25 (67,6)
Chẩn
đoán
Phối hợp 4 (10,8)
Bảng 2: Tiền sử bệnh trước mổ
Yếu tố nguy cơ
trước mổ
Sống (BN,%) Tử vong
(BN,%)
p
Cao huyết áp 2 (5,41) 10 (27,03) 0,015
Mổ cấp cứu 0 (0,00) 4 (10,81) 0,036
Bảng 3: Đánh giá NYHA, ASA và EUROSCORE
Phân độ BN (%) Sống (%) Tử vong (%) p
I & II 18 (48,65) 8 (21,62) 10 (27,03) NS NYHA
III & IV 19 (51,35) 12 (32,43) 7 (18,92) NS
I & II 8 (21,62) 2 (5,41) 6 (16,22) NS ASA
III & IV 29 (78,38) 18 (48,65) 11 (29,73) NS
Phân độ BN (%) Sống (%) Tử vong (%) p
5,57 ± 3,46 (0 - 19)
Thấp 4 (10,81) 3 (8,11) (2,70) NS
Trung bình 15 (40,54) 6 (16,22) 9 (24,32) NS
euro
score
Cao 18 (48,67) 11 (29,73) 7 (18,92) NS
Bảng 4: Đặc điểm hình ảnh học
Đặc điểm TB ± ĐLC Sống
(TB,%)
Tử vong
(TB,%)
p
EF (%) 52,95 ± 10,08
(20 - 66)
51,35 ±
8,57
54,82 ±
11,60
NS
Chỉ số tim lồng
ngực
0,61 ± 0,09
(0,52 - 0,70)
0,61 ± 0,09 0,65 ± 0,10 NS
Hẹp nhánh trái 4 (10,81) 7 (18,92) NS
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 97
Đặc điểm TB ± ĐLC Sống
(TB,%)
Tử vong
(TB,%)
p
ĐMV
Hẹp ba nhánh
ĐMV
3 (8,11) 6 (16,22) NS
Những đặc điểm của BN liên quan đến phẫu
thuật, gây mê và hồi sức và BĐXNĐMC được
ghi nhận trong các Bảng 5, 6 và 7.
Bảng 5: Đặc điểm liên quan đến phẫu thuật và gây
mê hồi sức
Đặc điểm TB ± ĐLC Sống
(TB,%)
Tử vong
(TB,%)
p
Thời gian
THNCT (phút)
127,14 ± 57,73
(45 - 313)
113,70 ±
38,25
142,94 ±
72,59
NS
Thời gian kẹp
ĐMC (phút)
71,11 ± 26,93
(32 - 133)
66,90 ±
21,16
76,06 ±
32,42
NS
Thời gian gây
mê phẫu thuật
(phút)
359,19 ±
111,69 (200 -
660)
313,00 ±
75,47
413,53 ±
124,50
0,005
HATB (mmHg) 68,09 ± 10,85
(50 - 97)
65,30 ±
9,45
71,37 ±
11,73
NS
Nhịp tim
(lần/phút)
102,03 ± 19,45
(70 - 140)
104,50 ±
22,53
99,12 ±
15,23
NS
ALTMTT
(mmHg)
7,54 ± 0,96
(6 - 9)
7,60 ±
0,88
7,47 ±
1,07
NS
Sốc điện phá
rung
6 (16,21) 2 (5,41) 4 (10,81) NS
Bảng 6: Đặc điểm BN trong hồi sức
Đặc điểm TB ±
ĐLC
BN (%) Sống
(TB,%)
Tử vong
(TB,%)
p
Thời gian
thở máy
(ngày)
16,97 ±
13,80 (2 -
64)
19,00 ±
16,58
14,71 ±
9,85
NS
Thời gian
nằm hồi sức
(ngày)
20,11 ±
14,78 (2 -
64)
22,21 ±
17,40
17,76 ±
11,23
NS
Ngưng tim
sau mổ
1 (2,70) 0 (0,00) 1 (2,70) NS
Mổ lại cầm
máu/lấy gạc
10 (27,00) 5 (13,51) 5 (13,51) NS
Suy thận
cấp sau mổ
18 (48,60) 10 (27,03) 8 (21,62) NS
Bảng 7: Chỉ định và thời gian đặt bóng
Đặc điểm TB ± ĐLC Sống
(TB,%)
Tử vong
(TB,%)
p
Thời gian sử dụng
bóng (ngày)
6,85 ± 3,18
(2 - 15)
6,76 ±
3,14
7,43 ±
3,65
NS
Chỉ định
Sốc tim 2 (5,4)
Cai THNCT 10 (27)
Hội chứng CLT thấp 25 (67,6)
Hiệu quả cải thiện huyết động học của
BĐXNĐMC, chúng tôi nhận thấy nhịp tim được
cải thiện rõ từ ngày thứ 5 (p = 0,008). Huyết áp
của BN được cải thiện rõ ngay sau khi đặt bóng
(p = 0,001) cho đến khi rút bóng. Huyết áp tâm
trương bắt đầu cải thiện ngay sau khi đặt bóng
và rõ nhất sau khi đặt bóng được 72 giờ (p =
0,028) (Biểu đồ 1 và 2).
95
100
105
110
115
120 Nhịp tim
l/p
Biểu đồ 1: Thay đổi nhịp tim
H
H
Biểu đồ 2: Thay đổi huyết áp trung bình và tâm
trương
Phân suất tống máu của tim bắt đầu cải
thiện (p = 0,014) từ giờ thứ 24 trở đi (Biểu đồ 3).
20
25
30
35
40
EF (%)
%
Biểu đồ 3: Thay đổi chức năng co bóp của tim
Đối với thuốc TCBCT, liều thuốc
dobutamine giảm một cách có ý nghĩa từ ngày
thứ 5 trở đi khi so sánh với thời điểm bắt đầu
đặt bóng (p = 0,007). Liều thuốc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 98
norepinephrine cũng được giảm đáng kể (p =
0,001) từ ngày thứ 5 sau đặt bóng trở đi. Riêng
liều thuốc epinephrine đến ngày thứ 7 mới
giảm liều một cách có ý nghĩa (p = 0,001) khi
so với thời điểm đặt bóng (Biểu đồ 4 và 5).
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Dobutamine
mcg/kg/ph
Biểu đồ 4: Thay đổi liều thuốc TCBCT (1)
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
1.1
1.2
Norepinephrine
Epinephrine
mcg/kg/ph
Biểu đồ 5: Thay đổi liều thuốc TCBCT (2)
Biến chứng do đặt BĐXNĐMC chủ yếu là
nhiễm trùng (24,32%), thiếu máu chi (5,41%),
giảm tiểu cầu (2,70%) và suy đa cơ quan (2,70%).
BÀN LUẬN
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi
BĐXNĐMC được áp dụng trong thực hành lâm
sàng để hỗ trợ huyết động, tỉ lệ đặt bóng trong
tổng số ca phẫu thuật tim cũng thay đổi tùy
thuộc vào từng trung tâm mổ tim. Theo thống
kê của Roger và cộng sự (cs)(13) thì tỉ lệ này vào
khoảng 1,5 – 17%. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tỉ lệ đặt BĐXNĐMC là 1,19%, thấp hơn so
với tỉ lệ đặt bóng của các trung tâm mổ tim khác
trên thế giới. Điều này là do kinh nghiệm của
chúng tôi về phương tiện hỗ trợ này trong
những năm đầu tiên sử dụng còn nhiều hạn chế
nên số lượng BN được đặt bóng không cao.
Cai THNCT nên được tiến hành khi huyết
áp động mạch trung bình 60 – 80 mmHg, nhịp
tim vào khoảng 75 – 95 lần/phút với áp lực đổ
đầy 7 – 8 mmHg. Như vậy, trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi, BN được cai THNCT với một
huyết động đảm bảo an toàn cho BN. Tuy nhiên,
để đạt được huyết động này, chúng tôi phải sử
dụng BĐXNĐMC để hỗ trợ trong 10 TH (27%)
mới cai THNCT thành công. Hiệu quả hỗ trợ
của bóng trong giai đoạn này cũng được một số
tác giả ghi nhận. Theo kinh nghiệm của tác giả
Nguyễn Thị Quý(12) đã thực hiện cai THNCT
thành công 100% trên 09 BN phẫu thuật bắt cầu
chủ vành với sự hỗ trợ của BĐXNĐMC. Tác giả
Lê Trung Hiếu và cs(9) với kinh nghiệm 14
trường hợp đặt BĐXNĐMC, trong đó có 04
trường hợp bị rách vỡ thất không thể dùng
thuốc tăng co bóp để hỗ trợ đã thành công khi
áp dụng BĐXNĐMC để cai máy THNCT một
cách an toàn và hiệu quả.
Một số tác giả như Akyurekli, Sarnoff trong
nghiên cứu xác định những yếu tố huyết động
ảnh hưởng đến tiêu thụ của oxy cơ tim và hiệu
quả của BĐXNĐMC trong việc giảm tải cho tim
trong thời kì tâm thu đều có chung nhận xét
BĐXNĐMC làm giảm nhịp tim(1). Trong nhiều
nghiên cứu về sốc tim cho thấy BĐXNĐMC có
liên quan đến việc giảm thể tích cuối tâm trương
và cuối tâm thu thất trái, giảm áp lực động mạch
phỗi bít, tăng cung lượng tim, tăng phân xuất
tống máu và thể tích nhát bóp và trên tất cả các
trường hợp đều cho thấy cải thiện về lâm sàng
và huyết động sau khi dùng bóng(3). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, nhịp tim được cải
thiện ngay sau khi đặt bóng, tuy nhiên sự thay
đổi có ý nghĩa thống kê ghi nhận được từ ngày
thứ 5 trở đi khi so sánh với thời điểm ngay sau
khi đặt bóng. Điều này, theo chúng tôi là do BN
vẫn còn sử dụng các thuốc tăng co bóp cơ tim
liều cao nên nhịp tim chưa thể giảm đi ngày sau
khi đặt bóng mà cần phải có thời gian để chức
năng tim cải thiện và nhịp tim mới dần trở lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 99
bình thường. Riêng về huyết áp trung bình được
cải thiện rõ ngay sau khi đặt bóng (p < 0,05) cho
đến khi rút bóng. Huyết áp tâm trương cũng
được cải thiện ngay sau khi đặt bóng, nhưng ghi
nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê từ ngày
thứ 3 sau khi đặt bóng (p < 0,05). Với kết quả có
được sau khi phân tích, chúng tôi nhận thấy
BĐXNĐMC đóng vai trò tích cực trong việc cải
thiện huyết động cho các BN nặng sau mổ tim
tương tự như kết quả của nhiều nghiên cứu
khác đã ghi nhận.
Về sự thay đổi chức năng co bóp tim,
Maddoux và Pappas(10) khi đánh giá hiệu quả
của BĐXNĐMC trên 67 BN phẫu thuật bắt cầu
chủ vành với THNCT có mạch đập và không có
mạch đập đã kết luận BĐXNĐMC có tác dụng
làm tăng chức năng tâm thu thất trái. Một số tác
giả khác cũng đã ghi nhận BĐXNĐMC đã làm
tăng CLT từ 0,5 – 1 lít/phút, tức khoảng 30%
CLT của người bình thường(1). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, phân suất tống máu bắt đầu được
cải thiện (p < 0,05) từ giờ thứ 24 trở đi sau khi
đặt bóng. Liều lượng các thuốc TCBCT như
dobutamine, norephinephrine, epinephrine đều
được giảm dần theo mức độ cải thiện của chức
năng thất trái trong vòng 5 – 7 ngày. Kết quả
này cũng phù hợp với kết quả của các tác giả
khác cho thấy hiệu quả của BĐXNĐMC trong
việc cải thiện chức năng co bóp của tim.
BĐXNĐMC là một phương tiện cơ học hỗ
trợ tuần hoàn, nhưng do tính chất xâm lấn
nên biến chứng trong quá trình sử dụng bóng
cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Theo
nhiều tác giả(13) tỉ lệ biến chứng xảy ra vào
khoảng 11 – 33%. Các biến chứng lớn thường
gặp như sau: thiếu máu chi, nhiễm trùng, tổn
thương mạch máu và chảy máu. Tỉ lệ thiếu
máu chi cũng thay đổi theo từng nghiên cứu,
từ 3 – 42%(14). Chúng tôi gặp 02 trường hợp
(5,41%) bị thiếu máu chi và đã được phát hiện
sớm bằng cách theo dõi hàng ngày mạch mu
chân và mạch chày sau bằng siêu âm Doppler.
Bệnh nhân đã được cai bóng sớm hơn, mặc dù
huyết động chưa ổn định và liều thuốc
TCBCT còn cao. Một biến chứng khác cũng
thường gặp là tình trạng nhiễm trùng.
Kantrowitz và cs(7) thống kê tỉ lệ này khoảng
22%. Nhưng cũng có tác giả không ghi nhận
trường hợp nào(5). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tỉ lệ này cũng khá cao (24,32%).
Điều này có thể do nhiều yếu tố gây ảnh
hưởng không được kiểm soát trước đó: thủ
thuật cấp cứu không đảm bảo vô trùng
nghiêm ngặt (Ví dụ: trong lúc can thiệp mạch
vành ở những BN bị sốc tim), hay những
trường hợp mổ lại lần thứ hai với thời gian
bóc tách kéo dài làm tăng thời gian phơi
nhiễm. Biến chứng gây tổn thương mạch máu,
chúng tôi không ghi nhận TH nào. Điều này
cũng tương tự với thống kê của các tác giả
khác từ 0 – 4%(2). Đối với biến chứng chảy
máu do giảm tiểu cầu (có thể do nguyên nhân
cơ học và do sử dụng heparin), chúng tôi gặp
01 trường hợp (2,7%) trong khi đang dùng
bóng. Tỉ lệ này được các tác giả khác thống kê
từ 0,3 – 15%(7). Biến chứng nặng nhất dẫn đến
tử vong là TH suy đa cơ quan vào ngày thứ 6
sau khi đặt bóng, BN có biểu hiện vàng da
men gan tăng cao, suy thận vô niệu, nhồi máu
ruột gây hoại tử ruột, nhiễm trùng nhiễm độc
nặng phải mổ cấp cứu cắt ruột và BN tử vong
sau đó 2 ngày. Qua phân tích TH này, chúng
tôi nhận thấy nguyên nhân của hoại tử ruột
có thể do huyết khối gây thuyên tắc các ĐM
mạc treo ruột, làm nhồi máu các tạng trong
bụng (gan, thận, ruột) và gây suy chức năng
đa cơ quan. Theo tác giả Zile Singh Mehawal
và cs(15) khi phân tích trên 911 trường hợp biến
chứng mạch máu do bóng BĐXNĐMC gây ra
cũng ghi nhận nguyên nhân thuyên tắc mạch
do huyết khối chiếm khoảng 2,7%. Tỉ lệ này
cũng phù hợp với tỉ lệ biến chứng thuyên tắc
mạch gây suy đa cơ quan mà chúng tôi gặp
phải.
So sánh giữa 2 nhóm BN sống và tử vong,
chúng tôi nhận thấy có 3 yếu tố có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm: bệnh cao
huyết áp, mổ cấp cứu, và thời gian gây mê phẫu
thuật kéo dài. Tuy nhiên khi đưa các yếu tố này
vào phân tích hồi qui đơn biến, chúng tôi nhận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 100
thấy chỉ có 2 yếu tố nguy cơ có liên quan đến tử
vong sớm là: mổ cấp cứu (p = 0,01) và thời gian
gây mê phẫu thuật kéo dài (p = 0,04).
Yếu tố nguy cơ mổ cấp cứu được xem là một
trong những yếu tố nguy cơ tử vong chu phẫu.
Tuy nhiên sự đồng thuận của nó cũng không
được thống nhất. Theo Hilmi(6) mổ cấp cứu là
một trong những yếu tố nguy cơ tử vong.
Tương tự tác giả Hilmi, chúng tôi đồng ý rằng
BN mổ cấp cứu thường ở trong tình trạng tim
mạch nguy kịch hơn, việc chuẩn bị cho cuộc mổ
sẽ không được đầy đủ và chắc chắn nguy cơ
nhiễm trùng sẽ cao hơn so với mổ chương trình.
Một số tác giả như Lagasse(8) đồng ý rằng
gây mê nội khí quản kéo dài là một trong những
yếu tố nguy cơ tử vong của bất kì phẫu thuật
nào. Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
được thời gian GM kéo dài (> 8 giờ) là một yếu
tố có liên quan đến tử vong sớm. Điều này có
thể do: sửa chữa ngoại khoa khó khăn, thời gian
THNCT và kẹp động mạch chủ kéo dài, dẫn đến
hậu quả thiếu máu cơ tim và có thể bị sốc tim
sau mổ không cho phép cai THNCT dễ dàng, rối
loạn đông máu, thời gian phơi nhiễm lâu.
KẾT LUẬN
BĐXNĐMC là phương tiện rất tốt giúp hỗ
trợ gây mê hồi sức trong các trường hợp sốc
tim, cai THNCT, hội chứng cung lượng tim
thấp sau phẫu thuật tim hở Hiệu quả này
được thể hiện trong việc cải thiện được huyết
động: làm chậm nhịp tim, làm tăng huyết áp,
tăng chức năng co bóp của tim, giảm được
liều lượng các thuốc vận mạch.
Biến chứng thường gặp là nhiễm trùng
(24,32%), thiếu máu chi (5,41%), giảm tiểu cầu
nặng (2,7%) và thuyên tắc do huyết khối dẫn
đến suy đa cơ quan (2,7%).
Các yếu tố nguy cơ được xác định có liên
quan đến tử vong sớm ở bệnh nhân đặt
BĐXNĐMC sau mổ tim là mổ cấp cứu và thời
gian gây mê phẫu thuật kéo dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akyurekli Y, Taichmann JC, Keon WJ (1980),”Effectivness of
intra – aortic balloon counterpulsation and systolic unloading”,
Can J Surg (23), pp. 122 – 126.
2. Alle K, White G, Harris J, et al (1993),”Iatrogenic vascular
trauma associated with IABP: indentification of risk factors”, Am
Surg, (59), pp. 813 – 817.
3. Barron HV, Every NR, Parsons LS, et al (2001),”The use of IABP
in patients with cardiogenic shock complicating acute myocardial
infraction: data from the National Registry of Myocardial
Infraction – 2”. Am Heeart J, (141), pp. 993 – 939.
4. Bolooki H (1998),”Clinical application of intra – aortic balloon
pump”, 3rd ed. Armonk, NY: Futura, pp. 95 – 98.
5. Gol M, Bayazit M, Emir M, et al (1994),”Vascular complications
related to percutaneous insertion of IABP”, Ann Thorac Surg,
(58), pp. 1476 – 1480.
6. Hilmi T, Bora F, et al (2003),”Effectiveness of IABP in patients
who were not able to be weaned from CBP after CABG and
mortality predictors in the perioperative and early postoperative
period”, Anadolu Kardiyol Derg (3), pp. 124 – 128.
7. Kantrowitz A (1990),”Origins of intraaortic balloon pumping”,
Ann Thorac Surg (50), pp. 672 – 674.
8. Lagasse RS (2002),”Anesthesia safety: Model or Myth? A review
of the published literature and analysis of current orginal data”,
Anesthesiology (6), pp. 1335 – 1337.
9. Lê Trung Hiếu, Chu Trọng Hiệp, Nguyễn Văn Khánh, Phan
Kim Phương, Phạm Nguyễn Vinh (2008),”Một số kinh nghiệm
sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ trong hồi sức tim
mạch qua 14 trường hợp”, Thời sự Tim mạch học TP HCM, tr.
19 – 22.
10. Maddoux G, Pappas G, Jenkins M, et al (1976),”Effect of pulsatile
and non pulsatile flow during cardiopulmonary bypass on left
ventricular ejection fraction early after aortocoronary bypass
surgery”, Am J Cardiol, (37), pp. 1000 – 1006.
11. Naunheim KS, Swartz MT, Pennington DG, et al (1992),”Intra –
aortic balloon pumping in patients requiring cardiac operations.
Risk analysis and long – term follow – up”, J Thorac Cardiovasc
Surg, (104), pp. 1654 – 1661.
12. Nguyễn Thị Quý (2007),”Gây mê hồi sức trong phẫu thuật bắt
cầu nối chủ vành: Phân tích kết quả và các yếu tố nguy cơ”, Luận
án Tiến sĩ Y học, tr 27 – 129.
13. Roger JF, William AG, Andrew M, Gregory MH (2002),”The
intra – aortic balloon pump in cardiac surgery”. Ann Thorac
Surg, (74), pp. 1276 – 1287.
14. Sirbu H, Busch T, Aleksic I, Friedrich M, Dalichau H
(2000),”Ischemic complications with IABP: incidence and
management”, Cardiovasc Surg, (8), pp. 66 – 71.
15. Zile SM, Naresh T (2002),”Vascular complications of IABP
insertion in patients undergoing CABG: analysis of 911 cases”,
Eur Journal of Cardiothoracic Surg, (21), pp. 741 – 747.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_su_dung_bong_doi_xung_noi_dong_mach_chu_tren_cac_be.pdf