Hiệu quả tạo dạng của hai loại trâm niti quay qua lại và liên tục

KẾT LUẬN Độ mở rộng ống tủy về phía ngoài, trong, gần, xa ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm là như nhau, ngoại trừ ở lớp B nhóm được sửa soạn bằng trâm WaveOne các ống tủy mở rộng về phía xa nhiều hơn nhóm được sửa soạn bằng trâm Protaper. Sự di lệch ống tủy theo chiều ngoài trong và gần xa ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm không khác nhau. Hướng di lệch của ống tủy được sửa soạn bởi hai loại trâm Protaper và WaveOne là giống nhau: ở lớp A sự di lệch ống tủy trung bình hướng về phía trong gần, ở lớp B di lệch về phía trong xa, còn ở lớp C là về phía ngoài xa. Hướng di chuyển này phù hợp với độ nghiêng của các chân ngoài gần của răng cối hàm dưới được chọn vào trong nghiên cứu này là chân răng nghiêng xa. Cả hai nhóm trâm loại bỏ ngà ở mức 1/3 giữa ống tủy, là mức tương ứng đoạn ống tủy cong, nhiều hơn ở 1/3 thân và 1/3 chóp. Khả năng duy trì trục ống tủy khi quan sát theo chiều ngang trên răng đã nhổ giữa hai nhóm trâm là như nhau. Tỉ lệ duy trì trục theo chiều ngoài trong ở 1/3 giữa của nhóm được sửa soạn với trâm WaveOne kém hơn ở 1/3 thân và 1/3 chóp, trong khi tỉ lệ này tương đương nhau ở nhóm răng được sửa soạn với trâm Protaper.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 98 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả tạo dạng của hai loại trâm niti quay qua lại và liên tục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 115 HIỆU QUẢ TẠO DẠNG CỦA HAI LOẠI TRÂM NITI QUAY QUA LẠI VÀ LIÊN TỤC Lê Ánh Hồng*, Phạm Văn Khoa** TÓM TẮT Mở đầu: sửa soạn ống tủy là một giai đoạn góp phần quyết định sự thành công của điều trị nội nha. Mục đích của thủ thuật này nhằm làm sạch ống tủy, tạo dạnh thuôn liên tục nhưng vẫn duy trì hình dạng ban đầu của ống tủy, nghĩa là vẫn duy trì trục ống tủy. Mục tiêu: Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá và so sánh khả năng duy trì trục ống tủy khi sửa soạn bằng hai hệ thống trâm quay máy WaveOne và Protaper trong giai đoạn tạo dạng trên ống tủy của chân răng đã nhổ cắt ngang tại mức 1/3 chóp, 1/3 giữa và 1/3 thân (quan sát theo chiều ngang) Phương pháp: đây là nghiên cứu thử nghiệm in vitro được thực hiện trên 20 ống tủy ngoài gần răng cối lớn hàm dưới vĩnh viễn đã nhổ của người được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm và kiểm tra lại bằng kiểm định t cho hai mẫu độc lập để đảm bảo không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về độ cong ống tủy và chiều dài làm việc. Các răng sau đó được sửa soạn theo kỹ thuật hướng dẫn bởi nhà sản xuất với nhóm 1 sửa soạn bằng trâm WaveOne, nhóm 2 sửa soạn bằng trâm ProTaper quay máy. Đánh giá khả năng duy trì trục dựa trên việc chồng ảnh và so sán ảnh chụp trước và sau sửa soạn các lát cắt ngang bề mặt chân răng ở các mức 1/3 chóp, 1/3 giữa và 1/3 thân. Các số liệu của nghiên cứu được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 20.0 với các phép kiểm định t cho hai mẫu độc lập và phép kiểm Mann-Whitney. Kết quả: nghiên cứu cho thấy khả năng duy trì trục ống tủy của cả hai loại trâm quay máy WaveOne và Protaper là như nhau khi quan sát theo chiều ngang trên các mặt cắt của răng đã nhổ (p>0,05). Kết luận: trong điều kiện của nghiên cứu này, cả 2 loại dụng cụ có hiệu quả tương đương nhau về khả năng duy trì trục ống tủy khi sửa soạn trên ống tủy của răng thật (quan sát theo chiều ngang tại các mặt cắt ngang chân răng). Từ khóa: làm sạch và tạo dạng ống tủy, điều trị nội nha, trâm WaveOne và ProTaper quay máy, khả năng duy trì trục ống tủy. ABSTRACT CENTERING ABILITY OF TWO ROTARY INSTRUMENTS - WAVEONE AND PROTAPER UNIVERSAL - IN ROOT CANALS SHAPING Le Anh Hong, Pham Van Khoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 115 - 123 Background: The root canal preparation is an essential part to determine the success of endodontic therapy. The aim of the process is to clean the canal and to form a continuously tapered shape while maintaining the original path of the canal, means centering ability. Objectives: This study was designed to compare two rotary instruments: WaveOne and ProTaper Universal in regard to centering ability when shaping mesio-buccal root canal of extracted human first mandibular molar. Materials and methods: 20 mesio-buccal root canals of extracted human first mandibular molar were * Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM **Bộ môn Chữa răng-Nội nha- Khoa RHM, ĐHYD TP.HCM Tác giả liên lạc: ThS. Lê Ánh Hồng ĐT: 0988996324 Email: leanhhong2476@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 116 randomly divided into 2 groups of 10 teeth each. Based on radiographs taken prior to instrumentation with the initial instrument inserted into the canal, the 2 groups were balanced with respect to the angle of canal curvature and working length. Group 1 was prepared by WaveOne and group 2 was prepared by ProTaper Universal by one experienced operator in following the manufacturer instruction. Pre- and post-instrumentation digital images were superimposed to analyze the centering ability. Data were statistically analyzed by using Independent- samples T test and Mann-Whitney test. Results: No statistically significant difference was found in term of transportation (p>0.05). Conclusion: Within the limits of this in vitro study, it was found that both instruments had the same centering ability when shaping simulated canals. Key words: cleaning, shaping root canals, endodontic therapy, WaveOne, ProTaper Universal, rotary instruments, centering ability, transportation. MỞ ĐẦU Sửa soạn ống tủy là một trong những giai đoạn cơ bản của điều trị nội nha. Mục đích của thủ thuật này nhằm làm sạch ống tủy, loại bỏ các chất cặn bã, vi khuẩn, tạo hình dạng thuôn liên tục từ miệng lỗ ống tủy tới chóp chân răng nhưng vẫn duy trì hình dạng ban đầu của ống tủy, nghĩa là vẫn duy trì trục ống tủy. “Khả năng duy trì trục của dụng cụ sửa soạn ống tủy là khả năng làm rộng ống tủy đồng đều theo mọi hướng quanh trục ban đầu trong suốt chiều dài làm việc” – Hoàng Tử Hùng (2014)(6). Trước đây, trâm nội nha được sử dụng bằng tay và làm từ thép không gỉ. Tuy những dụng cụ này tạo cảm giác tay tốt, sắc bén nhưng do có tính đàn hồi kém nên dễ đưa đến các sai sót khi sửa soạn. Trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều dụng cụ và vật liệu nội nha mới đã ra đời. Đáng chú ý là sự xuất hiện của các loại trâm làm bằng hợp kim Nickel-Titanium (trâm NiTi) với những ưu điểm như tính đàn hồi cao, mềm dẻo, có khả năng trở về hình dạng ban đầu sau khi sử dụng là những yếu tố quan trọng cho phép thực hiện việc tạo dạng một cách an toàn ngay cả khi ống tủy cong nhiều(7). Sự kết hợp giữa hợp kim Nickel-Titanium với công nghệ dụng cụ quay đã thay đổi đáng kể nội nha lâm sàng. Ưu điểm của dụng cụ quay là gia tăng khả năng thu thập và loại bỏ ngà khỏi hệ thống ống tủy, sửa soạn ống tủy nhanh hơn và ít nguy cơ sai lệch kỹ thuật. Quay liên tục cho phép cảm giác xúc giác tốt hơn và hiệu quả đạt được cao hơn trong các ống tủy có đường kính nhỏ và cong, tuy nhiên làm mô-men xoắn và tính mỏi chu kì của kim loại tăng. Trong các dụng cụ nội nha quay liên tục thì hệ thống Protaper (Dentsply Tulsa Dental Specialties) có thiết diện cắt ngang hình tam giác biến đổi và thiết kế độ thuôn giảm dần làm tăng độ mềm dẻo, khả năng cắt và hiệu quả làm việc nên hầu như loại bỏ được các nguy cơ trên. Kỹ thuật quay qua lại với lực cân bằng là chuyển động cùng chiều và ngược chiều kim đồng hồ khi sửa soạn ống tủy, được Roane giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1985(11). Khởi đầu, tất cả các động cơ quay qua lại có góc quay rộng và bằng nhau là 90o cùng chiều và ngược chiều kim đồng hồ. Kỹ thuật này cho phép duy trì hình dạng ống tủy nguyên thủy ở những ống tủy cong trong suốt quá trình sửa soạn ống tủy. Trâm quay qua lại thế hệ mới WaveOne (Dentsply-Maillefer, Ballaigues, Switzerland) sử dụng các góc quay qua lại không bằng nhau: quay ngược chiều kim đồng hồ 170o có tác dụng cắt và quay cùng chiều 30o giúp trâm không bị vặn vít trong ống tủy. Đây là hệ thống chỉ cần dùng một trâm để sửa soạn hoàn tất ống tủy. Trâm WaveOne được làm bằng hợp kim M-wire – là một dạng cải tiến của hợp kim Nickel- Titanium – giúp gia tăng độ bền và tính kháng mỏi chu kì của trâm gấp bốn lần hợp kim Nickel- Titanium thông thường. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 117 Gần đây loại trâm dùng một lần này đã có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên trên thế giới nói chung, số nghiên cứu về hệ thống trâm WaveOne còn ít. Trong nghiên cứu của Pirani C.(2013)(10), trâm WaveOne có khả năng kháng mỏi và chống nứt gãy tốt hơn Protaper. Nghiên cứu của Berutti E.(2012)(2), Yoo Y.(2012)(14), Shao T.(2014)(13) cho thấy Waveone duy trì hình thể giải phẫu ống tủy nguyên thủy tốt hơn, ít làm thay đổi độ cong ống tủy hơn Protaper trên các ống tủy nhựa. Tuy nhiên nghiên cứu trên răng đã nhổ của Capar I.D.(2014)(5), McRay B.(2014)(9), Burklein S.(2011)(4) lại đưa ra kết luận khả năng duy trì trục ống tủy của cả hai loại trâm là như nhau. Tại Việt Nam đã có những nghiên cứu so sánh giữa trâm Protaper quay máy và quay tay, nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào về trâm WaveOne, vì vậy cần thiết tiến hành các nghiên cứu để đánh giá loại trâm này. Chúng tôi tiến hành đề tài in vitro “khả năng duy trì trục ống tủy của hai hệ thống trâm quay máy WaveOne và ProTaper trong giai đoạn tạo dạng ống tủy” trên các mặt cắt ngang răng đã nhổ tại các mức 1/3 chóp, 1/3 giữa và 1/3 thân với mục tiêu: So sánh khả năng duy trì trục trên ống tủy răng đã nhổ (quan sát theo chiều ngang) sau khi sửa soạn bằng hai loại trâm ProTaper và WaveOne. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu thử nghiệm in vitro. Đối tượng nghiên cứu 20 ống tủy ngoài gần răng cối lớn hàm dưới vĩnh viễn của người có các tiêu chuẩn sau: răng không bị vôi hóa ống tủy, các chân răng nguyên vẹn, chiều dài chân răng tối thiểu 10mm, phần chóp đã hình thành hoàn toàn, lỗ chóp cho trâm số 10 đi qua nhưng không cho trâm số 15 đi qua và ống tủy cong nhiều ≥ 150 theo cách đo độ cong của Schneider (1971)(12). Phương tiện nghiên cứu Trâm quay máy WaveOne Primary #025.08, bộ trâm quay máy Protaper Universal (Dentsply- Maillefer, Ballaigues, Switzerland). Trâm K-file số 10 thăm dò và thông ống tủy. Đĩa cắt kim cương hai mặt San-I đường kính 2cm, dày 0,7mm và trục lắp. Ống chích nhựa, kim bơm rửa nội nha. Dung dịch bơm rửa NaOCl 2,5%.EDTA dạng nhão: Glyde file prep. Nhựa tự cứng số 0 (acrylic resin). Máy WaveOne TM endo motor và tay khoan nội nha kèm theo máy. Tay khoan siêu tốc, các loại mũi khoan mở tủy. Máy cắt răng Demco. Khuôn nội nha dùng để chôn răng trong nhựa và lắp lại các phần răng sau khi cắt thiết kế mô phỏng theo khuôn của Kuttler(8). Máy chụp hình Canon 20D (Japan) với ống kính sigma 100mm F2.8DG Macro EF lens. Phần mềm Photoshop CS6 (ADOBE) và phần mềm ImageJ 1.49d. Bộ dụng cụ cố định mẫu để chụp ảnh. Tiến trình thực hiện Chuẩn bị mẫu răng Răng sau khi nhổ được ngâm trong dung dịch formalin 10% trong 2 tuần. Làm sạch bề mặt chân răng bằng máy cạo vôi siêu âm. Mở tủy. Xác định chiều dài làm việc, chụp phim theo hướng lâm sàng để đo độ cong ống tủy. Chọn các răng có độ cong ống tủy ngoài gần ≥ 150. Hình 1: khuôn nội nha mô phỏng theo Kuttler(8) Khuôn nội nha gồm 5 mảnh có thể tháo rời. Hai mảnh có các rãnh ngang và hai mảnh có các rãnh dọc. Giữ cố định răng bằng sáp, bôi vaselin cách ly lên các rãnh của khuôn và chôn các răng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 118 trong nhựa tự cứng. Chờ nhựa đông cứng hoàn toàn và gỡ ra khỏi khuôn. Cắt ngang thân răng ở các mức 1/3 chóp (lớp C), 1/3 giữa (lớp B) và 1/3 thân (lớp A) bằng máy Demco với đĩa cắt kim cương hai mặt. Mỗi lớp cắt dày 2mm, cách nhau 1mm. Hình 2: Ba lớp cắt răng Chụp ảnh trước khi sửa soạn Chia các răng ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm 1: sửa soạn với trâm WaveOne, nhóm 2: sửa soạn với trâm Protaper . Bộ dụng cụ chụp ảnh gồm một mặt phẳng bằng gỗ, các thanh chặn giúp di chuyển mẫu vật tịnh tiến cho hình ảnh rõ nhất khi chụp, thước định chuẩn để có thể chồng ảnh trước và sau khi tạo dạng. Các lát cắt ở 1/3 chóp, 1/3 giữa và 1/3 thân của từng răng được ghi nhận hình ảnh bằng máy chụp hình Canon 20D (Japan). Sau đó, các lát cắt được ráp lại vào khuôn nội nha và chuẩn bị thực hiện sửa soạn ống tủy. Hình 3: bộ dụng cụ chụp ảnh Quy trình sửa soạn ống tủy Chỉ những răng nào sau khi ráp ba lớp cắt lại cho trâm K số 10 đi hết chiều dài làm việc xác định lúc đầu dễ dàng mới được sửa soạn bằng trâm quay máy. Dùng trâm K-file số 10 kiểm tra sự thông ống tủy và kiểm tra chiều dài làm việc (LLV). Trước khi tạo dạng, EDTA gel được cho vào đầu ống tủy để bôi trơn. Thường xuyên bơm rửa với 1ml NaOCl 3% và làm sạch các rãnh dụng cụ bằng gạc ẩm trong suốt quá trình sửa soạn. Sửa soạn bằng trâm WaveOne Chọn chương trình đã được cài đặt sẵn trên WaveOne endo motor dùng cho trâm WaveOne. Sửa soạn theo hướng dẫn của nhà sản xuất: đưa trâm lên xuống nhẹ nhàng để đầu trâm trượt xuống thụ động dọc theo ống tủy, mỗi chu trình trâm di chuyển được 2-3mm. Lặp lại các thao tác cho đến khi trâm đi đủ chiều dài làm việc một cách dễ dàng. Sửa soạn bằng trâm Protaper Chọn chương trình đã được cài đặt tự động trên máy WaveOne endo motor dùng cho trâm Protaper Universal. Sửa soạn theo hướng dẫn của nhà sản xuất: trâm S1 được dùng đến chiều dài cách chóp 4mm, sau đó lần lượt sửa soạn bằng trâm S1, S2, F1, F2 đến hết chiều dài làm việc. Bơm rửa, thấm khô ống tủy. Chụp ảnh sau khi sửa soạn Các mẫu sau khi sửa soạn được ghi nhận hình ảnh ở mỗi lớp cắt A, B, C ở cùng vị trí như trước khi sửa soạn. Chồng các ảnh trước và sau khi sửa soạn bằng phần mềm Photoshop CS6 (Adobe) và xử lí hình ảnh cho rõ nét. Vẽ các đường giới hạn ống tủy trước và sau sửa soạn. Đánh giá khả năng duy trì trục Sử dụng phần mềm ImageJ 1.49d đo các thông số như trong hình 1. Các kích thước được quy đổi thành mm nhờ vào kích thước của thước có kẻ vạch mm chụp kèm mỗi tấm ảnh. Hình 4: hình chụp mặt cắt ngang trước và sau sửa soạn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 119 Đánh giá khả năng duy trì trục theo công thức: Theo chiều ngoài trong: DX = X1 / X2 = (X’1-X”1) / (X’2-X”2) (1) (1) Hoặc DX = X2 / X1 = (X’2-X”2) / (X’1-X”1) (2)(2) Nếu X1 X2: sử dụng công thức (2) Theo chiều gần xa: DY = Y1 / Y2 = (Y’1- Y”1) / (Y’2- Y”2) (3)(3) Hoặc DY = Y2 / Y1 = (Y’2- Y”2) / (Y’1- Y”1) (4)(4) Nếu Y1 Y2: sử dụng công thức (4). Nếu DX và DY bằng 1 là duy trì trục tuyệt đối theo cả chiều ngoài trong và gần xa. DX và DY càng gần bằng 1, khả năng duy trì trục ống tủy của trâm càng cao. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Trung bình độ cong ống tủy chân răng trước khi sửa soạn ở nhóm Protaper là 21,99o và ở nhóm WaveOne là 22,88o. Dùng kiểm định t-test cho hai mẫu độc lập để so sánh sự khác biệt các giá trị trung bình về độ cong ống tủy trước sửa soạn giữa hai nhóm cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Mức độ mở rộng của ống tủy về phía ngoài, trong, gần và xa Bảng1: Trung bình mức độ mở rộng ống tủy về phía ngoài, phía trong, phía gần và phía xa của ba lớp A, B, C ở hai nhóm (mỗi nhóm 10 ống tủy) (mm) Lớp cắt A B C Nhóm trâm P W P W P W X1 Trung bình 0,137 0,174 0,063 0,091 0,136 0,126 Độ lệch chuẩn 0,102 0,084 0,071 0,113 0,124 0,060 Mức ý nghĩa p 0,389 0,353m 0,822 X2 Trung bình 0,205 0,234 0,257 0,305 0,097 0,089 Độ lệch chuẩn 0,128 0,121 0,150 0,098 0,107 0,065 Mức ý nghĩa p 0,605 0,411 0,854m Y1 Trung bình 0,2736 0,3512 0,1551 0,2032 0,1128 0,1080 Độ lệch chuẩn 0,1892 0,1316 0,1344 0,1396 0,1001 0,0791 Mức ý nghĩa p 0,301 0,443 0,907 Y2 Trung bình 0,204 0,184 0,238 0,323 0,197 0,157 Độ lệch chuẩn 0,218 0,122 0,109 0,041 0,041 0,109 Mức ý nghĩa p 0,798m 0,032* 0,289 *p < 0,05 : khác biệt có ý nghĩa thống kê m: phép kiểm Mann-Whitney P: Protaper W: WaveOne So sánh các số trung bình độ mở rộng ống tủy về phía ngoài, trong, gần, xa ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ Y2 ở lớp B (p = 0,032): ở nhóm được sửa soạn bằng trâm WaveOne các ống tủy mở rộng về phía xa nhiều hơn nhóm được sửa soạn bằng trâm Protaper Sự di lệch ống tủy theo chiều ngoài trong (X1-X2) và gần xa (Y1-Y2) Sự di lệch ống tủy theo chiều ngoài trong là hiệu X1-X2 và gần xa là hiệu Y1-Y2, lý tưởng khi hiệu này bằng 0, chứng tỏ ống tủy được mở rộng đều cả về phía ngoài và phía trong, phía gần và phía xa. Sự di lệch ống tủy ở cả hai nhóm nhìn chung tương đương nhau về cả chiều hướng và mức độ ở cả ba lớp cắt. Khi so sánh các số trung bình sự di lệch ống tủy theo chiều ngoài trong (X1-X2) và gần xa (Y1- Y2) ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hướng di lệch của ống tủy được sửa soạn bởi hai loại trâm Protaper và WaveOne là giống nhau: ở lớp A sự di lệch ống tủy trung bình hướng về phía trong gần, ở lớp B di lệch về phía trong xa, còn ở lớp C là về phía ngoài xa. Hướng di lệch này phù hợp với độ nghiêng của hầu hết các chân ngoài gần của những răng cối hàm dưới được chọn vào trong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 120 nghiên cứu này là chân răng nghiêng xa. Biểu đồ 1 thể hiện hướng di lệch ống tủy ở các mức A, B và C của hai nhóm trâm Protaper và WaveOne, các mức lớn hơn 0 là về phía ngoài và phía gần, các mức nhỏ hơn 0 là về phía trong và phía xa. Trong từng răng lớp A là mặt cắt ở 1/3 thân ống tủy, lớp B tương đương 1/3, lớp C là vùng 1/3 chóp ống. Khi so sánh giữa ba lớp ở mỗi nhóm, số liệu ở lớp A và C phân bố gần số 0 nhất, lớp B xa số 0 nhất chứng tỏ ở đoạn 1/3 giữa ống tủy mở rộng nhiều nhất và lớp này thường tương ứng với đoạn cong của ống tủy. Biểu đồ 1: Hướng di lệch ống tủy ở các mức A, B và C của hai nhóm trâm Protaper và WaveOne (mm) Tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) Các số liệu về tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong và gần xa càng gần 1 thì khả năng duy trì trục của trâm khi tạo dạng càng cao. Nhìn chung tỉ lệ này nằm trong khoảng 0,3-0,4 ở cả hai nhóm. So sánh số trung bình của DX và DY giữa từng lớp của hai nhóm răng được sửa soạn bởi hai loại trâm Protaper và WaveOne cho thấy sự khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bảng 2: So sánh tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) trung bình của ba lớp A, B, C ở hai nhóm (mỗi nhóm 10 ống tủy) Lớp cắt A B C Nhóm trâm P W P W P W DX Trung bình 0,376 0,591 0,351 0,287 0,278 0,484 Độ lệch chuẩn 0,275 0,284 0,382 0,226 0,366 0,273 Mức ý nghĩa p 0,123 0,796m 0,105m DY Trung bình 0,449 0,450 0,362 0,558 0,489 0,471 Độ lệch chuẩn 0,360 0,303 0,228 0,281 0,362 0,195 Mức ý nghĩa p 0,996 0,104 0,886 *p < 0,05 : khác biệt có ý nghĩa thống kê m : phép kiểm Mann-Whitney P: Protaper W: WaveOne Chúng tôi dùng kiểm định Kruskal-Wallis so sánh sự khác biệt về tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) giữa ba lớp cắt trong từng nhóm (bảng 3) cho kết quả sau: Ở nhóm Protaper: sự khác biệt về tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) giữa ba lớp không có ý nghĩa thống kê, với p lần lượt là 0,368 và 0,689. Ở nhóm WaveOne: tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) giữa ba lớp khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,0428 < 0,05), tuy nhiên sự khác biệt về tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều gần xa (DY) giữa ba lớp lại không có ý nghĩa thống kê (p = 0,727). Bảng 3: So sánh DX, DY của ba lớp cắt trong từng nhóm trâm DX_Protaper DX_WaveOne DY_Protaper DY_WaveOne Chi-Square 2,000 6,320 0,746 0,637 Độ tự do (df) 2 2 2 2 Mức ý nghĩa 0,368 0,042 0,689 0,727 *p < 0,05 : khác biệt có ý nghĩa thống kê Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 121 Biểu đồ 2: Tỉ lệ duy trì trục ống tủy giữa ba lớp theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) ở hai nhóm trâm theo tỉ lệ phần trăm Tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) càng gần 1 thì sự duy trì trục càng tốt. Biểu đồ 2 thể hiện tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) và gần xa (DY) trung bình ở ba lớp A, B, C giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên tỉ lệ duy trì trục ống tủy theo chiều ngoài trong (DX) ở lớp cắt B của nhóm được sửa soạn bằng trâm WaveOne chiếm tỉ lệ nhỏ nhất so với lớp A và C cho thấy ở đoạn cong thì tỉ lệ duy trì trục ống tủy thấp. Kết quả này phù hợp với kết quả trong nghiên cứu trên răng đã nhổ của Capar I.D. (2014)(5), McRay B. (2014)(9), Burklein S. (2012)(4). Bàn luận về phương pháp nghiên cứu Trong các nghiên cứu so sánh hiệu quả dụng cụ trong việc tạo dạng ống tủy, có thể sử dụng ống tủy nhựa hoặc răng đã nhổ. Mặc dù ống tủy nhựa giúp chuẩn hóa những điều kiện thí nghiệm, nhưng nó không thể hiện tính biến đổi giải phẫu của hệ thống ống tủy thật. Trong nghiên cứu này răng người thật được dùng theo các tác giả (4,5,122). Lý do chính các tác giả này chọn răng người là vì chúng mô phỏng những tình huống lâm sàng tốt hơn khối nhựa. Nhựa acrylic không phải là vật liệu tốt nhất cho sự kiểm tra các dụng cụ quay bởi vì nó không đạt được sự mô phỏng độ vi cứng của ngà và sự khác biệt về mặt giải phẫu(1). Tuy nhiên khi sử dụng răng đã nhổ làm nghiên cứu, dù đã lựa chọn kỹ càng các răng theo các tiêu chí đề ra, vẫn khó thu được các mẫu răng đồng nhất hoàn toàn về độ cong và chiều rộng ống tủy, làm hạn chế tính chính xác khi suy luận kết quả. Nghiên cứu của chúng tôi lựa chọn các răng cối lớn hàm dưới mà chân răng có độ cong từ trung bình đến rất cong theo phương pháp đo độ cong của Schneider(12) và chỉ chọn những răng mà ống tủy cong hình chữ L, đường cong ống tủy liên tục trên phim tia X, loại bỏ các răng cong chữ S hoặc các răng có hệ thống ống tủy phức tạp. Phương pháp cắt ngang chân răng để đánh giá việc sửa soạn ống tủy đã được thực hiện từ năm 1987 bởi Bramante(3). Mục đích của phương pháp này là phân tích những đặc điểm trước và sau khi sửa soạn của cùng một chân răng nhờ những hình ảnh cắt ngang chân răng được chụp trước và sau khi sửa soạn. Sau đó nhiều tác giả đã cải tiến cách làm khuôn chôn chân răng trong nhựa nhằm làm tăng độ chính xác khi ráp các phần chân răng đã cắt trở lại giống vị trí ban đầu. Khuôn giữ răng sử dụng trong nghiên cứu này là khuôn tự thiết kế, mô phỏng cách làm khuôn theo Kuttler (2011)(8). Khuôn của Kuttler làm bằng đồng, khuôn của chúng tôi được làm bằng thép không rỉ giúp gỡ khối nhựa tự cứng và làm sạch khuôn sau mỗi lần đổ nhựa dễ dàng hơn. Khuôn gồm năm phần ráp với nhau nhờ các khóa bấm mà không cần vặn ốc như khuôn của Kuttler, có thể tách dễ dàng từng phần nhờ các phần lõm ở mỗi góc. Cách làm khuôn này giúp ráp các mảnh răng đã cắt lại vị trí ban đầu chính xác nhờ sự hướng dẫn của các đường rãnh dọc và ngang trên khuôn. Cũng nhờ những đường rãnh ngang định hướng đĩa cắt vuông góc với chân răng và các đường rãnh bị loại bỏ giúp nước bơm rửa có lối thoát, tránh tắc nghẽn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 122 mùn ngà giữa các lớp cắt như các loại khuôn khác. Tuy nhiên nhược điểm của kỹ thuật cắt ngang chân răng là các đường cắt làm mất nhiều mô răng, làm mất tính liên tục của ống tủy và hạn chế số mảnh răng cắt. Gần đây một kỹ thuật mới cũng giúp quan sát các mặt cắt ngang chân răng mà không làm mất mô răng là dùng X- quang cắt lớp điện toán(9) hoặc chùm tia X chóp khối (conebeam CT). Những kỹ thuật này rất hữu ích để nghiên cứu việc sửa soạn ống tủy nội nha bởi cho phép đánh giá cả hai chiều lẫn ba chiều hình thái học ống tủy và đo lường định lượng ngà loại bỏ từ thành ống tủy. Với khả năng của chúng tôi, phương pháp cắt ngang chân răng và chụp các hình ảnh trực tiếp trước và sau khi sửa soạn để so sánh là khả thi, và cũng đã có nhiều nghiên cứu dùng phương pháp cắt ngang chân răng và quan sát dưới kính hiển vi nổi để so sánh hình ảnh trước và sau khi sửa soạn đã được thực hiện trước đây(1). Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, rẻ tiền mà vẫn có hiệu quả, giúp so sánh được những thay đổi của cùng một chân răng định tính và định lượng. Với máy chụp hình Canon EOS 20 và ống kính 100mm, chúng tôi vẫn chụp được những hình ảnh rõ ràng như các hình ảnh thu được khi xem dưới kính hiển vi nổi có độ phóng đại x10. KẾT LUẬN Độ mở rộng ống tủy về phía ngoài, trong, gần, xa ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm là như nhau, ngoại trừ ở lớp B nhóm được sửa soạn bằng trâm WaveOne các ống tủy mở rộng về phía xa nhiều hơn nhóm được sửa soạn bằng trâm Protaper. Sự di lệch ống tủy theo chiều ngoài trong và gần xa ở mỗi lớp A, B và C giữa hai nhóm không khác nhau. Hướng di lệch của ống tủy được sửa soạn bởi hai loại trâm Protaper và WaveOne là giống nhau: ở lớp A sự di lệch ống tủy trung bình hướng về phía trong gần, ở lớp B di lệch về phía trong xa, còn ở lớp C là về phía ngoài xa. Hướng di chuyển này phù hợp với độ nghiêng của các chân ngoài gần của răng cối hàm dưới được chọn vào trong nghiên cứu này là chân răng nghiêng xa. Cả hai nhóm trâm loại bỏ ngà ở mức 1/3 giữa ống tủy, là mức tương ứng đoạn ống tủy cong, nhiều hơn ở 1/3 thân và 1/3 chóp. Khả năng duy trì trục ống tủy khi quan sát theo chiều ngang trên răng đã nhổ giữa hai nhóm trâm là như nhau. Tỉ lệ duy trì trục theo chiều ngoài trong ở 1/3 giữa của nhóm được sửa soạn với trâm WaveOne kém hơn ở 1/3 thân và 1/3 chóp, trong khi tỉ lệ này tương đương nhau ở nhóm răng được sửa soạn với trâm Protaper. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aguiar C. M., et al. (2009), "Evaluation of the centreing ability of the ProTaper Universal rotary system in curved roots in comparison to Nitiflex files", Aust Endod J, Vol.35(3), pp.174-9. 2. Berutti E., et al. (2012), "Canal shaping with WaveOne Primary reciprocating files and ProTaper system: a comparative study", J Endod, Vol.38(4), pp.505-9. 3. Bramante C. M., Berbert A., Borges R. P. (1987), "A methodology for evaluation of root canal instrumentation", J Endod, Vol.13(5), pp.243-5. 4. Bürklein S., et al. (2011), "Shaping ability and cleaning effectiveness of two single-file systems in severely curved root canals of extracted teeth: Reciproc and WaveOne versus Mtwo and ProTaper", International Endodontic Journal, Vol.45(5), pp.449-461. 5. Capar I. D., et al. (2014), "Comparative study of different novel nickel-titanium rotary systems for root canal preparation in severely curved root canals", J Endod, Vol.40(6), pp.852-6. 6. Hoàng Tử Hùng (2014), Bài mở đầu Nội Nha, Tài liệu giảng dạy Nội Nha Học, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TPHCM. 7. Hülsmann M., Peters Ove A., Dummer Paul M. H. (2005), "Mechanical preparation of root canals: shaping goals, techniques and means", Endodontic Topics, Vol.10(1), pp.30-76. 8. Kuttler S., et al. (2001), "The endodontic cube: a system designed for evaluation of root canal anatomy and canal preparation", J Endod, Vol.27(8), pp.533-6. 9. McRay B., et al. (2014), "A micro-computed tomography- based comparison of the canal transportation and centering ability of ProTaper Universal rotary and WaveOne reciprocating files", Quintessence Int, Vol.45(2), pp.101-8. 10. Pirani C., et al. (2013), "Metallurgical analysis and fatigue resistance of WaveOne and ProTaper Nickel-Titanium instruments", Odontology. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 123 11. Roane J. B., Sabala C. L., Duncanson M. G., Jr. (1985), "The "balanced force" concept for instrumentation of curved canals", J Endod, Vol.11(5), pp.203-11. 12. Schneider S. W. (1971), "A comparison of canal preparations in straight and curved root canals", Oral Surg Oral Med Oral Pathol, Vol.32(2), pp.271-5. 13. Shao T., Hou X., Hou B. (2014), "Comparison of the shaping ability of reciprocating instruments in simulated S-shaped canals", Zhonghua Kou Qiang Yi Xue Za Zhi, Vol.49(5), pp.279- 83. 14. Yoo Y. S., Cho Y. B. (2012), "A comparison of the shaping ability of reciprocating NiTi instruments in simulated curved canals", Restor Dent Endod, Vol.37(4), pp.220-7. Ngày nhận bài báo: 04/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2015 Người phản biện: PGS-TS Hoàng Đạo Bảo Trâm Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_tao_dang_cua_hai_loai_tram_niti_quay_qua_lai_va_lie.pdf
Tài liệu liên quan