Sau khi phản ứng đông cứng của các loại
xi măng calcium silicate xảy ra, sẽ có sự hình
thành hydroxyapatite nếu được ngâm trong
các dung dịch giả dịch thể người (SBF) hoặc
dung dịch muối cân bằng của Hank (HBSS),
kết quả này được nhiều tác giả ghi nhận[6; 8;
13]. Ion canxi phóng thích trong quá trình
đông cứng của xi măng calcium silicate sẽ kết
hợp với ion phosphate có trong các dung dịch
SBF hoặc HBSS tạo thành tinh thể hydroxyapatite. Tinh thể hydroxyapatite kết dính tốt với
ngà răng, giúp tăng cường khả năng trám bít
của xi măng. Đây là sự dán dính hóa học:
10 Ca2+ + 6(PO4)3- + 2(OH)1- → Ca10
(PO4)6(OH)2.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mẫu
được ngâm trong dung dịch SBF trong 30
ngày nhằm cải thiện khả năng dán dính của
BioRootTM RCS có thể do sự hình thành tinh
thể hydroxyapatite tại giao diện giữa vật liệu
và ngà răng. Kết quả cho thấy trung bình vi kẽ
vùng chóp của các răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn
trung bình vi kẽ vùng chóp của các răng được
trám bít bằng xi măng AH26 (1,11 mm),
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê và tỷ lệ răng có vi kẽ ở hai nhóm xi
măng là bằng nhau (80%). Mức độ vi kẽ cao
nhất trong nhóm răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (2,23 mm) cũng thấp
hơn so với răng trong nhóm xi măng AH26
(3,25 mm). Qua hai thời điểm khảo sát cho
thấy, hiệu quả trám bít ống tủy của xi măng
BioRootTM RCS tương đương với xi măng
AH26. Đối với xi măng BioRootTM RCS, trung
bình vi kẽ của nhóm răng khảo sát tại thời
điểm 30 ngày (1,07 mm) thấp hơn so với thời
điểm 2 ngày (1,17 mm). Mặc dù mức độ vi kẽ
giảm không đáng kể sau 30 ngày, nhưng kết
quả này cũng phần nào cho thấy hiệu quả
trám bít của xi măng BioRootTM RCS.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng Calcium Silicate, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TCNCYH 114 (5) - 2018 59 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
HIỆU QUẢ TRÁM BÍT ỐNG TỦY CHÂN RĂNG 
CỦA XI MĂNG CALCIUM SILICATE 
Lý Nguyễn Bảo Khánh, Trần Xuân Vĩnh 
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Xi măng trám bít ống tủy BioRootTM RCS (Septodont, Saint-Maur-des-Fosses, France) có chất căn bản là 
tricalcium silicate có khả năng bám dính cao, phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh học. Nghiên cứu được 
thực hiện nhằm so sánh hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM RCS và AH26 sau thời 
gian 2 ngày và 30 ngày. Kết quả cho thấy mức độ vi kẽ vùng chóp chân răng khi trám bít bằng xi măng 
BioRootTM RCS thấp hơn so với xi măng AH26 ở cả hai thời điểm, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05). Khi trám bằng xi măng BioRootTM RCS, nhóm răng khảo sát sau 30 ngày có mức độ vi 
kẽ thấp hơn so với nhóm răng khảo sát sau 2 ngày nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(p > 0,05). Tóm lại, hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM RCS tương đương với xi 
măng AH26, loại xi măng có hiệu quả trám bít ống tủy tốt nhất hiện nay. 
Từ khóa: BioRootTM RCS, vi kẽ 
Địa chỉ liên hệ: Trần Xuân Vĩnh, Khoa Răng - Hàm - Mặt, 
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 
Email: vinhdentist@yahoo.com 
Ngày nhận: 25/12/2017 
Ngày được chấp thuận: 18/3/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Điều trị nội nha thành công liên quan đến 
tất cả các giai đoạn trong quá trình điều trị bao 
gồm sửa soạn, tạo hình và làm sạch ống tủy, 
trám bít ống tủy và cả giai đoạn trám tạm giữa 
các lần hẹn hay trám kết thúc. Trong đó, giai 
đoạn trám bít ống tủy đóng vai trò quan trọng 
trong sự thành công của điều trị nội nha. Hệ 
thống ống tủy phải được bít kín hoàn toàn để 
ngăn ngừa tái nhiễm khuẩn và vi kẽ bên trong 
ống tủy [1]. Việc bít kín vùng chóp của ống tủy 
chân răng nhằm ngăn ngừa các vi khuẩn còn 
sót và các độc tố của chúng từ mô quanh 
chóp thấm vào chóp răng [2]. 
Hiện nay, rất nhiều vật liệu cũng như 
phương pháp trám bít ống tủy đã được phát 
triển nhằm làm tăng chất lượng của việc điều 
trị nội nha. Xi măng trám bít ống tủy được sử 
dụng để liên kết với côn gutta-percha hoặc 
các loại côn đặc khác để tạo nên một khối 
đồng nhất trong ống tủy chân răng. Nhiều loại 
xi măng trám bít ống tủy được phân loại theo 
thành phần chính của chúng: oxyt kẽm – 
eugenol, calcium hydroxide, nhựa, glass iono-
mer và silicon. Trong đó, xi măng AH26 (có 
chất căn bản là nhựa) được sử dụng rộng rãi 
do chúng có khả năng dán dính cao vào ngà 
răng. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh 
AH26 có hiệu quả chống vi kẽ tốt hơn xi măng 
oxyt kẽm – eugenol, RC Seal, ...[3; 4; 5]. 
Chính vì thế, xi măng AH26 thường được sử 
dụng như một vật liệu tham chiếu để so sánh 
với các loại xi măng mới. 
Trong những năm gần đây, các loại vật liệu 
có chất căn bản là tricalcium silicate đã được 
giới thiệu và sử dụng phổ biến trong chữa 
răng và che tủy. Các nghiên cứu về MTA và 
Biodentine cho thấy xi măng này có chất căn 
bản calcium silicate có khả năng bám dính 
cao, phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh 
học [6; 7; 8]. Dựa trên các đặc tính trên, một 
 60 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
loại xi măng trám bít ống tủy mới có thành 
phần chính tricalcium silicate được giới thiệu 
là BioRootTM RCS (Septodont, Saint-Maur-des
-Fosses, France). Loại xi măng này có khả 
năng phóng thích calcium hydroxide sau khi 
đông, hình thành pha calcium phosphate khi 
tiếp xúc với dung dịch sinh lý, ít gây độc trên 
tế bào dây chằng nha chu và kích thích các 
yếu tố tăng trưởng tạo máu và tạo xương, do 
đó BioRootTM RCS có tính tương hợp sinh học 
cao [9; 10]. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm 
đánh giá hiệu quả trám bít ống tủy của xi 
măng BioRootTM RCS, từ đó cung cấp thêm 
thông tin cho các nhà lâm sàng về đặc tính vật 
lý của loại xi măng mới này. Mục tiêu cụ thể 
của nghiên cứu này là “So sánh hiệu quả trám 
bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM 
RCS và AH26 sau thời gian 2 ngày và 30 
ngày bằng phương pháp thâm nhập phẩm 
nhuộm xanh methylene 2%”. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Gồm 44 răng cối nhỏ hàm dưới có một ống 
tủy. Răng sau khi nhổ được bảo quản trong 
nước muối sinh lý ở nhiệt độ 4°C cho đến khi 
sử dụng 
Tiêu chuẩn chọn mẫu: răng có một ống 
tủy. 
Tiêu chuẩn loại trừ: răng đã điều trị nội 
nha, răng có ống tủy bị vôi hóa. 
2. Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu: Thực nghiệm thống 
kê mô tả 
Phương pháp: Sửa soạn ống tủy và tạo 
hình ống tủy với hệ thống trâm quay máy Pro-
Taper (Denstply, Maillerfer, Switzerland) đến 
trâm F5 theo kỹ thuật bước xuống (crown-
down). 
Trong quá trình sửa soạn, bôi trơn ống tủy 
bằng Glyde FILE PREP (Denstply, Maillerfer, 
Switzerland) và bơm rửa bằng dung dịch 
NaOCl 2,5% giữa mỗi lần thay trâm và kết 
thúc quá trình sửa soạn. 
Chia nhóm nghiên cứu và trám bít ống tủy 
Chọn ngẫu nhiên 4 răng làm nhóm chứng 
âm và nhóm chứng dương (mỗi nhóm 2 răng), 
40 răng còn lại chia ngẫu nhiên làm 4 nhóm, 
mỗi nhóm 10 răng, trám bít ống tủy theo 
phương pháp một côn với côn gutta-percha 
ProTaper F5 và 2 loại xi măng BioRootTM RCS 
và AH26. 
- Nhóm 1: trám bít ống tủy bằng xi măng 
BioRootTM RCS, đánh giá sau 2 ngày. 
- Nhóm 2: trám bít ống tủy bằng xi măng 
BioRootTM RCS, đánh giá sau 30 ngày. 
- Nhóm 3: trám bít ống tủy bằng xi măng 
AH26, đánh giá sau 2 ngày. 
- Nhóm 4: trám bít ống tủy bằng xi măng 
AH26, đánh giá sau 30 ngày. 
Trám buồng tủy bằng xi măng GI (GC Cor-
poration, Tokyo, Japan). 
Chụp phim kiểm tra và lưu giữ mẫu. 
Bảo quản răng trong dung dịch giả dịch thể 
người SBF. 
Nhuộm màu. 
Sau 2 ngày lưu giữ mẫu, các răng ở nhóm 
chứng dương, chứng âm, 1 và 3 được tiến 
hành nhuộm màu: 
Dùng sơn móng tay màu đỏ sơn cách chóp 
răng 2 mm, nhằm không cho phẩm nhuộm 
thâm nhập vào ống tủy qua bề mặt chân răng, 
với ba lớp sơn mỏng, mỗi lớp cách nhau 2 giờ 
để tạo sự khô ở mỗi lớp. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 61 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đối với nhóm chứng âm, sơn 3 lớp hết 
toàn bộ răng (phủ kín chóp răng). 
Đối với nhóm chứng dương, sơn 3 lớp 
cách chóp 2 mm. 
Sau 2 giờ quét sơn móng tay, ngâm các 
răng vào dung dịch phẩm nhuộm xanh methyl-
ene 2% trong 2 ngày. 
Sau 2 ngày, các răng ở nhóm chứng âm 
và dương, 1A và 2A được lấy ra khỏi dung 
dịch phẩm nhuộm, loại bỏ lớp sơn bằng dung 
dịch có chứa aceton và rửa dưới vòi nước 5 
phút để loại bỏ phẩm nhuộm bám trên bề mặt 
chân răng, sau đó thổi khô răng. 
Sau 30 ngày, 10 răng ở nhóm 2 và 10 răng 
ở nhóm 4 được lấy ra khỏi dung dịch SBF và 
thực hiện các bước nhuộm màu tương tự với 
nhóm răng 1 và 3. 
Đo mức thâm nhập phẩm nhuộm 
Dùng đĩa cắt kim cương cắt dọc răng theo 
hướng ngoài trong, song song với trục chân 
răng sao cho qua trung tâm chân răng và cắt 
ngang qua lỗ chóp răng. 
Mức thâm nhập phẩm nhuộm được quan 
sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi soi nổi độ 
phóng đại × 10 lần với bộ kết nối kính hiển vi 
Optikam B5. Sử dụng phần mềm Imagej để đo 
mức thâm nhập phẩm nhuộm vào trong ống 
tủy từ phía chóp ở cả hai nửa cắt của chân 
răng. Chọn giá trị lớn hơn là độ thâm nhập 
phẩm nhuộm của răng. 
Khoảng cách thâm nhập màu: được xác 
định bằng khoảng cách từ đầu tận cùng của 
khối vật liệu trám bít đến vị trí thâm nhập sâu 
nhất của phẩm nhuộm về phía thân răng. Đơn 
vị đo tính bằng mm. 
Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 
phiên bản 20.0. 
III. KẾT QUẢ 
Ở nhóm chứng âm, không có sự thâm 
nhập của phẩm nhuộm vào trong ống tủy chân 
răng. Ở nhóm chứng dương, phẩm nhuộm hiện 
diện trên suốt chiều dài ống tủy chân răng. 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ (%) răng có vi kẽ khi trám bít ống tuỷ bằng xi măng BioRootTM RCS và 
AH26 giữa hai thời điểm khảo sát 
Tỷ lệ % 
2 ngày Thời gian 30 ngày 
AH26 
BioRootTM RCS 
100% 
80% 
60% 
40% 
20% 
0% 
 62 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Kiểm định Fisher’s. 
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày thì nhóm răng được trám bít bằng xi măng 
BioRootTM RCS có tỷ lệ răng có vi kẽ (80%) cao hơn so với nhóm răng được trám bít bằng xi 
măng AH26 (60%). Nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Tại thời điểm 30 ngày sau khi trám bít thì nhóm răng được trám bít bằng xi măng BioRootTM 
RCS có tỷ lệ răng có vi kẽ (80%) bằng với nhóm răng được trám bít bằng xi măng AH26 (80%). 
Nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Đối với hai nhóm răng được trám bít bằng xi măng BioRootTM RCS, tỷ lệ răng có vi kẽ ở nhóm 
được khảo sát tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày (80%) và nhóm được khảo sát sau 30 
ngày trám bít (80%) bằng nhau. 
2. Mức độ vi kẽ vùng chóp của các răng sau khi được trám bít ống tùy 
Bảng 1. So sánh trung bình vi kẽ giữa nhóm răng trám bít bằng xi măng BioRootTM RCS 
và AH26 được khảo sát tại hai thời điểm 
Nhóm răng Trung bình ± ĐLC Khoảng tin cậy 95% 
Sau khi TBOT 2 ngày: 
BioRootTM RCS 
AH26 
Giá trị p 
1,17 ± 1,11 mm 
1,18 ± 1,29 mm 
0,91 
0,3739 - 1,9701 mm 
0,2572 - 2,1008 mm 
Sau TBOT 30 ngày: 
BioRootTM RCS 
AH26 
Giá trị p 
1,07 ± 0,87 mm 
1,11 ± 1,08 mm 
0,91 
0,4523 - 1,6917 mm 
0,3328 - 1,8812 mm 
BioRootTM RCS 
Sau 2 ngày 
Sau 30 ngày 
Giá trị p 
1,17 ± 1,11 mm 
1,07 ± 0,87 mm 
0,83 
0,3739 - 1,9701 mm 
0,4523 - 1,6917 mm 
AH26 
Sau 2 ngày 
Sau 30 ngày 
1,18 ± 1,29 mm 
1,11 ± 1,08 mm 
0,2572 - 2,1008 mm 
0,3328 - 1,8812 mm 
Kiểm định Mann-Whitney U. 
Khi so sánh sự khác nhau về mức độ vi kẽ vùng chóp răng của các nhóm nghiên cứu, kết quả 
ở bảng 3.4 cho thấy: 
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày, trung bình vi kẽ của nhóm răng được trám bít 
ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS (1,17 mm) thấp hơn so với trung bình vi kẽ của nhóm răng 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 63 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
được trám bít ống tủy bằng xi măng AH26 (1,18 mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê (p > 0,05). 
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 30 ngày, trung bình vi kẽ của nhóm răng được trám bít 
ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn so với trung bình vi kẽ của nhóm răng 
được trám bít ống tủy bằng xi măng AH26 (1,11 mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê (p > 0,05). 
Đối với nhóm răng được trám bít ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS, trung bình vi kẽ tại 
thời điểm sau khi trám bít ống tủy ngày (1,17 mm) cao hơn so với thời điểm sau 30 ngày (1,07 
mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
IV. BÀN LUẬN 
Xi măng nội nha là thành phần quan trọng 
của khối vật liệu trám bít. Một xi măng tốt cần 
có đặc tính dán dính tốt vào ngà răng và vật 
liệu lõi. Xi măng AH26 có thành phần căn bản 
là nhựa epoxy bisphenol A và chất xúc tác là 
hexamethylene – teramine. Loại xi măng này 
có nhiều ưu điểm về đặc tính cơ học như: 
tăng độ cản quang, tan chậm, dán dính tốt vào 
ngà răng, phù hợp với phương pháp một côn. 
Do đó, xi măng AH26 đã được sử dụng phổ 
biến trên lâm sàng và được xem là “chuẩn 
vàng” trong các nghiên cứu đánh giá đặc tính 
cơ học của các loại xi măng mới. Tuy nhiên, xi 
măng AH26 có nhược điểm là phóng thích 
formaldehyde, thời gian đông cứng kéo dài, co 
khi đông cứng và lực co có thể vượt quá lực 
dán vào ngà răng [4]. 
BioRootTM RCS là vật liệu mới, chưa có 
nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh 
giá hiệu quả trám bít ống tủy. Do có cùng 
thành phần chính là calcium silicate, nên phản 
ứng đông cứng cũng như cơ chế tác động của 
xi măng BioRootTM RCS tương tự như Bioden-
tine và MTA. 
2(3CaO. SiO2) + 6H2O => 3CaO.2SiO2. 
3H2O + 3Ca(OH)2 Tricalcium silicate + Nước => 
Calcium silicate hydrate + Calcium hydroxide. 
Calcium silicate phản ứng với nước tạo ra 
quá trình đông cứng của xi măng. Đây là sự 
hydrate hóa của tricalcium silicate (3CaO.SiO2 
= C3S), tạo ra gel calcium silicate hydrate và 
calcium hydroxide. Các phân tử tricalcium sili-
cate không phản ứng được bao quanh bởi các 
lớp gel calcium silicate hydrate không thấm 
nước, do đó làm chậm lại các phản ứng tiếp 
theo [7]. Theo Skinner LB và cộng sự, các 
hình ảnh quan sát bằng kính hiển vi cho thấy 
có sự kết nối trực tiếp giữa xi măng calcium 
silicate và ngà răng mà không có khoảng 
trống nào. Đây là sự dán dính vi cơ học. 
Ngoài ra, cấu trúc “nano” của calcium silicate 
hydrate cũng góp phần giải thích hiệu quả dán 
dính tốt của xi măng calcium silicate[11]. 
Tại thời điểm 2 ngày sau khi trám bít ống 
tủy, tỷ lệ các răng có vi kẽ vùng chóp khi trám 
bít bằng xi măng BioRootTM RCS (80%) cao 
hơn ở nhóm trám bít bằng xi măng AH26 
(70%), nhưng sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê (p > 0,05). Trung bình vi kẽ 
vùng chóp răng của nhóm trám bít bằng xi 
măng BioRootTM RCS (1,17 mm) cũng gần 
bằng với nhóm sử dụng xi măng AH26 (1,18 
mm). Do đó, chúng tôi cho rằng khả năng dán 
dính của xi măng BioRootTM RCS tốt tương 
đương với xi măng AH26. Kết quả của chúng 
 64 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
tôi tương tự với kết quả của nghiên cứu về 
hiệu quả trám bít của BioRootTM RCS [9; 12]. 
Trong nghiên cứu của Viapiana R và cộng sự, 
tác giả sử dụng ba phương pháp để đánh giá 
hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của hai 
loại xi măng BioRootTM RCS và AH Plus: chụp 
cắt lớp, đánh dấu huỳnh quang và dịch 
chuyển chất lỏng. Kết quả cho thấy mức độ vi 
kẽ của nhóm răng được trám bít bằng xi măng 
BioRootTM RCS và AH Plus khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê khi đánh giá bằng 
phương pháp huỳnh quang và dịch chuyển 
chất lỏng. Khi sử dụng phương pháp chụp cắt 
lớp, vi kẽ của nhóm răng được trám bít bằng 
xi măng BioRootTM RCS lại cao hơn có ý 
nghĩa so với nhóm răng trám bít băng xi măng 
AH Plus. Tác giả cho rằng sự khác biệt này có 
thể liên quan đến thời gian làm việc ngắn và 
độ chảy ít của xi măng BioRootTM RCS [12]. 
Sau khi phản ứng đông cứng của các loại 
xi măng calcium silicate xảy ra, sẽ có sự hình 
thành hydroxyapatite nếu được ngâm trong 
các dung dịch giả dịch thể người (SBF) hoặc 
dung dịch muối cân bằng của Hank (HBSS), 
kết quả này được nhiều tác giả ghi nhận[6; 8; 
13]. Ion canxi phóng thích trong quá trình 
đông cứng của xi măng calcium silicate sẽ kết 
hợp với ion phosphate có trong các dung dịch 
SBF hoặc HBSS tạo thành tinh thể hydroxya-
patite. Tinh thể hydroxyapatite kết dính tốt với 
ngà răng, giúp tăng cường khả năng trám bít 
của xi măng. Đây là sự dán dính hóa học: 
10 Ca2+ + 6(PO4)
3- + 2(OH)1- → Ca10
(PO4)6(OH)2. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mẫu 
được ngâm trong dung dịch SBF trong 30 
ngày nhằm cải thiện khả năng dán dính của 
BioRootTM RCS có thể do sự hình thành tinh 
thể hydroxyapatite tại giao diện giữa vật liệu 
và ngà răng. Kết quả cho thấy trung bình vi kẽ 
vùng chóp của các răng được trám bít bằng xi 
măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn 
trung bình vi kẽ vùng chóp của các răng được 
trám bít bằng xi măng AH26 (1,11 mm), 
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê và tỷ lệ răng có vi kẽ ở hai nhóm xi 
măng là bằng nhau (80%). Mức độ vi kẽ cao 
nhất trong nhóm răng được trám bít bằng xi 
măng BioRootTM RCS (2,23 mm) cũng thấp 
hơn so với răng trong nhóm xi măng AH26 
(3,25 mm). Qua hai thời điểm khảo sát cho 
thấy, hiệu quả trám bít ống tủy của xi măng 
BioRootTM RCS tương đương với xi măng 
AH26. Đối với xi măng BioRootTM RCS, trung 
bình vi kẽ của nhóm răng khảo sát tại thời 
điểm 30 ngày (1,07 mm) thấp hơn so với thời 
điểm 2 ngày (1,17 mm). Mặc dù mức độ vi kẽ 
giảm không đáng kể sau 30 ngày, nhưng kết 
quả này cũng phần nào cho thấy hiệu quả 
trám bít của xi măng BioRootTM RCS. 
V. KẾT LUẬN 
Xi măng BioRootTM RCS có hiệu quả trám 
bít ống tủy chân răng tương đương với xi 
măng AH26, loại xi măng có hiệu quả trám bít 
tốt hiện nay. Ngoài ra, BioRootTM RCS còn có 
hoạt tính sinh học, kháng khuẩn và kích thích 
sự lành thương, những tính chất này không có 
ở xi măng AH26. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi xin cảm ơn khoa Răng Hàm Mặt, 
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh đã 
tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này. Chúng tôi cam kết không xung đột 
lợi ích từ kết quả nghiên cứu. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 65 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ingle JI, Bakland LK (2002). Endodon-
tics 5th ed. London: BC Decker Inc. 
2. Lucena-Martin C, Ferrer-Luque CM, 
Gonzalez-Rodriguez MP et al (2002). A com-
parative study of apical leakage of Endome-
thasone, Top Seal and Roeko Seal sealer ce-
ments. J Endod, 28, 423 - 426. 
3. Trần Thị Anh Thư, Nguyễn Thị Kim 
Anh (2012). Đánh giá vi kẽ vùng chóp răng, 
so sánh giữa hai phương pháp trám bít ống 
tủy, nghiên cứu in vitro. Tạp chí Y học thực 
hành, 16(2), 203. 
4. Vishal A Mahajan, Kamra AI (2007). An 
in vitro evaluation of apical sealing of three 
epox y resin based commercial preparations. 
Endodontology J, 19, 7 - 11. 
5. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005). Tổng 
quan về xi măng nội nha. Cập nhật nha khoa 
2006, 32 - 44. 
6. Gandofil MG, Siboni F, Primus CM & 
Prati C (2014). Ion Release, Porosity, Solubili-
ty, and Bioactivity of MTA Plus Tricalcium sili-
cate. J Endod, 40, 1632 - 1637. 
7. Pagaria S, Singh BD, Dubey A et al 
(2015). Review Article: Biodentine as a New 
Calcium Silicate Based Cement. Chettinad 
Health City Medical Journal, 4(4), 182 - 184. 
8. Han L, Okiji T (2013). Bioactivity 
evaluation of three calcium silicate-base ando-
dontic materials. Int Endod J, 46(9), 808 - 814. 
9. BioRootTM RCS scientific file, 2015. 
10. Camps J, Jeaneau C, El Ayachi I, 
Laurent P, About I (2015). Bioactivity of a 
Calcium Silicate-based Endodontic Cement 
(BioRoot RCS): Interactions with Human 
Periodontal Ligament Cells In Vitro. J Endod. 
41(9), 1463 - 1473. 
11. Skinner LB, Chae SR, Benmore CJ, 
Wenk HR and Monteiro PJM (2010). Nanos-
tructure of calcium silicate hydrates in ce-
ments. Physical Review Letters, 104(19), Arti-
cle ID 195502. 
12. Viapiana R, Moinzadeh AT, Camilleri 
L, Wesselink PR et al (2016). Porosity and 
sealing ability of root fillings with gutta-percha 
and BioRoot RCS or AH Plus sealers. Evalua-
tion by three ex vivo methods. Int Endod J, 49
(8), 774 - 782. 
13. Camilleri J, Sorrentino F, Damidot D 
(2013). Investigation of the hydration and 
bioactivity of radiopacifided tricalcium silicate 
cement, Biodentine and MTA Angelus. Dent 
Mater, 29(5), 580 - 593. 
Summary 
APICAL SEALING ABILITY OF 
CALCIUM SILICATE - BASED ROOT CANAL SEALER 
BioRoot RCS (Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, France) is a tricalcium silicate-based root 
canal sealer which was shown as good physicochemical and bioactive material. The aim of this 
study was to evaluate apical sealing ability of root canal sealer BioRoot RCS compared with AH26 
after 2 days and 30 days. The results showed that microleakage formation of BioRoot RCS group 
was less than AH26 group after both intervals, but without significant statistical differences 
(p > 0.05). Especially, in BioRoot RCS group, microleakage formation of 30-day-teeth subgroup 
was less than 2-day-teeth one and the difference was not significant as well (p > 0.05). In conclu-
sion, apical sealing ability of calcium silicate-based root canal sealer BioRoot RCS was similar to 
AH26 which was demonstrated as one of the most effective root-end fillings currently. 
Keyword: BioRootTM RCS, microleakage 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 hieu_qua_tram_bit_ong_tuy_chan_rang_cua_xi_mang_calcium_sili.pdf hieu_qua_tram_bit_ong_tuy_chan_rang_cua_xi_mang_calcium_sili.pdf