Sau khi phản ứng đông cứng của các loại
xi măng calcium silicate xảy ra, sẽ có sự hình
thành hydroxyapatite nếu được ngâm trong
các dung dịch giả dịch thể người (SBF) hoặc
dung dịch muối cân bằng của Hank (HBSS),
kết quả này được nhiều tác giả ghi nhận[6; 8;
13]. Ion canxi phóng thích trong quá trình
đông cứng của xi măng calcium silicate sẽ kết
hợp với ion phosphate có trong các dung dịch
SBF hoặc HBSS tạo thành tinh thể hydroxyapatite. Tinh thể hydroxyapatite kết dính tốt với
ngà răng, giúp tăng cường khả năng trám bít
của xi măng. Đây là sự dán dính hóa học:
10 Ca2+ + 6(PO4)3- + 2(OH)1- → Ca10
(PO4)6(OH)2.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mẫu
được ngâm trong dung dịch SBF trong 30
ngày nhằm cải thiện khả năng dán dính của
BioRootTM RCS có thể do sự hình thành tinh
thể hydroxyapatite tại giao diện giữa vật liệu
và ngà răng. Kết quả cho thấy trung bình vi kẽ
vùng chóp của các răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn
trung bình vi kẽ vùng chóp của các răng được
trám bít bằng xi măng AH26 (1,11 mm),
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê và tỷ lệ răng có vi kẽ ở hai nhóm xi
măng là bằng nhau (80%). Mức độ vi kẽ cao
nhất trong nhóm răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (2,23 mm) cũng thấp
hơn so với răng trong nhóm xi măng AH26
(3,25 mm). Qua hai thời điểm khảo sát cho
thấy, hiệu quả trám bít ống tủy của xi măng
BioRootTM RCS tương đương với xi măng
AH26. Đối với xi măng BioRootTM RCS, trung
bình vi kẽ của nhóm răng khảo sát tại thời
điểm 30 ngày (1,07 mm) thấp hơn so với thời
điểm 2 ngày (1,17 mm). Mặc dù mức độ vi kẽ
giảm không đáng kể sau 30 ngày, nhưng kết
quả này cũng phần nào cho thấy hiệu quả
trám bít của xi măng BioRootTM RCS.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng Calcium Silicate, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 114 (5) - 2018 59
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
HIỆU QUẢ TRÁM BÍT ỐNG TỦY CHÂN RĂNG
CỦA XI MĂNG CALCIUM SILICATE
Lý Nguyễn Bảo Khánh, Trần Xuân Vĩnh
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Xi măng trám bít ống tủy BioRootTM RCS (Septodont, Saint-Maur-des-Fosses, France) có chất căn bản là
tricalcium silicate có khả năng bám dính cao, phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh học. Nghiên cứu được
thực hiện nhằm so sánh hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM RCS và AH26 sau thời
gian 2 ngày và 30 ngày. Kết quả cho thấy mức độ vi kẽ vùng chóp chân răng khi trám bít bằng xi măng
BioRootTM RCS thấp hơn so với xi măng AH26 ở cả hai thời điểm, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Khi trám bằng xi măng BioRootTM RCS, nhóm răng khảo sát sau 30 ngày có mức độ vi
kẽ thấp hơn so với nhóm răng khảo sát sau 2 ngày nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Tóm lại, hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM RCS tương đương với xi
măng AH26, loại xi măng có hiệu quả trám bít ống tủy tốt nhất hiện nay.
Từ khóa: BioRootTM RCS, vi kẽ
Địa chỉ liên hệ: Trần Xuân Vĩnh, Khoa Răng - Hàm - Mặt,
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Email: vinhdentist@yahoo.com
Ngày nhận: 25/12/2017
Ngày được chấp thuận: 18/3/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị nội nha thành công liên quan đến
tất cả các giai đoạn trong quá trình điều trị bao
gồm sửa soạn, tạo hình và làm sạch ống tủy,
trám bít ống tủy và cả giai đoạn trám tạm giữa
các lần hẹn hay trám kết thúc. Trong đó, giai
đoạn trám bít ống tủy đóng vai trò quan trọng
trong sự thành công của điều trị nội nha. Hệ
thống ống tủy phải được bít kín hoàn toàn để
ngăn ngừa tái nhiễm khuẩn và vi kẽ bên trong
ống tủy [1]. Việc bít kín vùng chóp của ống tủy
chân răng nhằm ngăn ngừa các vi khuẩn còn
sót và các độc tố của chúng từ mô quanh
chóp thấm vào chóp răng [2].
Hiện nay, rất nhiều vật liệu cũng như
phương pháp trám bít ống tủy đã được phát
triển nhằm làm tăng chất lượng của việc điều
trị nội nha. Xi măng trám bít ống tủy được sử
dụng để liên kết với côn gutta-percha hoặc
các loại côn đặc khác để tạo nên một khối
đồng nhất trong ống tủy chân răng. Nhiều loại
xi măng trám bít ống tủy được phân loại theo
thành phần chính của chúng: oxyt kẽm –
eugenol, calcium hydroxide, nhựa, glass iono-
mer và silicon. Trong đó, xi măng AH26 (có
chất căn bản là nhựa) được sử dụng rộng rãi
do chúng có khả năng dán dính cao vào ngà
răng. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh
AH26 có hiệu quả chống vi kẽ tốt hơn xi măng
oxyt kẽm – eugenol, RC Seal, ...[3; 4; 5].
Chính vì thế, xi măng AH26 thường được sử
dụng như một vật liệu tham chiếu để so sánh
với các loại xi măng mới.
Trong những năm gần đây, các loại vật liệu
có chất căn bản là tricalcium silicate đã được
giới thiệu và sử dụng phổ biến trong chữa
răng và che tủy. Các nghiên cứu về MTA và
Biodentine cho thấy xi măng này có chất căn
bản calcium silicate có khả năng bám dính
cao, phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh
học [6; 7; 8]. Dựa trên các đặc tính trên, một
60 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
loại xi măng trám bít ống tủy mới có thành
phần chính tricalcium silicate được giới thiệu
là BioRootTM RCS (Septodont, Saint-Maur-des
-Fosses, France). Loại xi măng này có khả
năng phóng thích calcium hydroxide sau khi
đông, hình thành pha calcium phosphate khi
tiếp xúc với dung dịch sinh lý, ít gây độc trên
tế bào dây chằng nha chu và kích thích các
yếu tố tăng trưởng tạo máu và tạo xương, do
đó BioRootTM RCS có tính tương hợp sinh học
cao [9; 10].
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
đánh giá hiệu quả trám bít ống tủy của xi
măng BioRootTM RCS, từ đó cung cấp thêm
thông tin cho các nhà lâm sàng về đặc tính vật
lý của loại xi măng mới này. Mục tiêu cụ thể
của nghiên cứu này là “So sánh hiệu quả trám
bít ống tủy chân răng của xi măng BioRootTM
RCS và AH26 sau thời gian 2 ngày và 30
ngày bằng phương pháp thâm nhập phẩm
nhuộm xanh methylene 2%”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 44 răng cối nhỏ hàm dưới có một ống
tủy. Răng sau khi nhổ được bảo quản trong
nước muối sinh lý ở nhiệt độ 4°C cho đến khi
sử dụng
Tiêu chuẩn chọn mẫu: răng có một ống
tủy.
Tiêu chuẩn loại trừ: răng đã điều trị nội
nha, răng có ống tủy bị vôi hóa.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Thực nghiệm thống
kê mô tả
Phương pháp: Sửa soạn ống tủy và tạo
hình ống tủy với hệ thống trâm quay máy Pro-
Taper (Denstply, Maillerfer, Switzerland) đến
trâm F5 theo kỹ thuật bước xuống (crown-
down).
Trong quá trình sửa soạn, bôi trơn ống tủy
bằng Glyde FILE PREP (Denstply, Maillerfer,
Switzerland) và bơm rửa bằng dung dịch
NaOCl 2,5% giữa mỗi lần thay trâm và kết
thúc quá trình sửa soạn.
Chia nhóm nghiên cứu và trám bít ống tủy
Chọn ngẫu nhiên 4 răng làm nhóm chứng
âm và nhóm chứng dương (mỗi nhóm 2 răng),
40 răng còn lại chia ngẫu nhiên làm 4 nhóm,
mỗi nhóm 10 răng, trám bít ống tủy theo
phương pháp một côn với côn gutta-percha
ProTaper F5 và 2 loại xi măng BioRootTM RCS
và AH26.
- Nhóm 1: trám bít ống tủy bằng xi măng
BioRootTM RCS, đánh giá sau 2 ngày.
- Nhóm 2: trám bít ống tủy bằng xi măng
BioRootTM RCS, đánh giá sau 30 ngày.
- Nhóm 3: trám bít ống tủy bằng xi măng
AH26, đánh giá sau 2 ngày.
- Nhóm 4: trám bít ống tủy bằng xi măng
AH26, đánh giá sau 30 ngày.
Trám buồng tủy bằng xi măng GI (GC Cor-
poration, Tokyo, Japan).
Chụp phim kiểm tra và lưu giữ mẫu.
Bảo quản răng trong dung dịch giả dịch thể
người SBF.
Nhuộm màu.
Sau 2 ngày lưu giữ mẫu, các răng ở nhóm
chứng dương, chứng âm, 1 và 3 được tiến
hành nhuộm màu:
Dùng sơn móng tay màu đỏ sơn cách chóp
răng 2 mm, nhằm không cho phẩm nhuộm
thâm nhập vào ống tủy qua bề mặt chân răng,
với ba lớp sơn mỏng, mỗi lớp cách nhau 2 giờ
để tạo sự khô ở mỗi lớp.
TCNCYH 114 (5) - 2018 61
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đối với nhóm chứng âm, sơn 3 lớp hết
toàn bộ răng (phủ kín chóp răng).
Đối với nhóm chứng dương, sơn 3 lớp
cách chóp 2 mm.
Sau 2 giờ quét sơn móng tay, ngâm các
răng vào dung dịch phẩm nhuộm xanh methyl-
ene 2% trong 2 ngày.
Sau 2 ngày, các răng ở nhóm chứng âm
và dương, 1A và 2A được lấy ra khỏi dung
dịch phẩm nhuộm, loại bỏ lớp sơn bằng dung
dịch có chứa aceton và rửa dưới vòi nước 5
phút để loại bỏ phẩm nhuộm bám trên bề mặt
chân răng, sau đó thổi khô răng.
Sau 30 ngày, 10 răng ở nhóm 2 và 10 răng
ở nhóm 4 được lấy ra khỏi dung dịch SBF và
thực hiện các bước nhuộm màu tương tự với
nhóm răng 1 và 3.
Đo mức thâm nhập phẩm nhuộm
Dùng đĩa cắt kim cương cắt dọc răng theo
hướng ngoài trong, song song với trục chân
răng sao cho qua trung tâm chân răng và cắt
ngang qua lỗ chóp răng.
Mức thâm nhập phẩm nhuộm được quan
sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi soi nổi độ
phóng đại × 10 lần với bộ kết nối kính hiển vi
Optikam B5. Sử dụng phần mềm Imagej để đo
mức thâm nhập phẩm nhuộm vào trong ống
tủy từ phía chóp ở cả hai nửa cắt của chân
răng. Chọn giá trị lớn hơn là độ thâm nhập
phẩm nhuộm của răng.
Khoảng cách thâm nhập màu: được xác
định bằng khoảng cách từ đầu tận cùng của
khối vật liệu trám bít đến vị trí thâm nhập sâu
nhất của phẩm nhuộm về phía thân răng. Đơn
vị đo tính bằng mm.
Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS
phiên bản 20.0.
III. KẾT QUẢ
Ở nhóm chứng âm, không có sự thâm
nhập của phẩm nhuộm vào trong ống tủy chân
răng. Ở nhóm chứng dương, phẩm nhuộm hiện
diện trên suốt chiều dài ống tủy chân răng.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ (%) răng có vi kẽ khi trám bít ống tuỷ bằng xi măng BioRootTM RCS và
AH26 giữa hai thời điểm khảo sát
Tỷ lệ %
2 ngày Thời gian 30 ngày
AH26
BioRootTM RCS
100%
80%
60%
40%
20%
0%
62 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Kiểm định Fisher’s.
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày thì nhóm răng được trám bít bằng xi măng
BioRootTM RCS có tỷ lệ răng có vi kẽ (80%) cao hơn so với nhóm răng được trám bít bằng xi
măng AH26 (60%). Nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Tại thời điểm 30 ngày sau khi trám bít thì nhóm răng được trám bít bằng xi măng BioRootTM
RCS có tỷ lệ răng có vi kẽ (80%) bằng với nhóm răng được trám bít bằng xi măng AH26 (80%).
Nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Đối với hai nhóm răng được trám bít bằng xi măng BioRootTM RCS, tỷ lệ răng có vi kẽ ở nhóm
được khảo sát tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày (80%) và nhóm được khảo sát sau 30
ngày trám bít (80%) bằng nhau.
2. Mức độ vi kẽ vùng chóp của các răng sau khi được trám bít ống tùy
Bảng 1. So sánh trung bình vi kẽ giữa nhóm răng trám bít bằng xi măng BioRootTM RCS
và AH26 được khảo sát tại hai thời điểm
Nhóm răng Trung bình ± ĐLC Khoảng tin cậy 95%
Sau khi TBOT 2 ngày:
BioRootTM RCS
AH26
Giá trị p
1,17 ± 1,11 mm
1,18 ± 1,29 mm
0,91
0,3739 - 1,9701 mm
0,2572 - 2,1008 mm
Sau TBOT 30 ngày:
BioRootTM RCS
AH26
Giá trị p
1,07 ± 0,87 mm
1,11 ± 1,08 mm
0,91
0,4523 - 1,6917 mm
0,3328 - 1,8812 mm
BioRootTM RCS
Sau 2 ngày
Sau 30 ngày
Giá trị p
1,17 ± 1,11 mm
1,07 ± 0,87 mm
0,83
0,3739 - 1,9701 mm
0,4523 - 1,6917 mm
AH26
Sau 2 ngày
Sau 30 ngày
1,18 ± 1,29 mm
1,11 ± 1,08 mm
0,2572 - 2,1008 mm
0,3328 - 1,8812 mm
Kiểm định Mann-Whitney U.
Khi so sánh sự khác nhau về mức độ vi kẽ vùng chóp răng của các nhóm nghiên cứu, kết quả
ở bảng 3.4 cho thấy:
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 2 ngày, trung bình vi kẽ của nhóm răng được trám bít
ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS (1,17 mm) thấp hơn so với trung bình vi kẽ của nhóm răng
TCNCYH 114 (5) - 2018 63
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
được trám bít ống tủy bằng xi măng AH26 (1,18 mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05).
Tại thời điểm sau khi trám bít ống tủy 30 ngày, trung bình vi kẽ của nhóm răng được trám bít
ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn so với trung bình vi kẽ của nhóm răng
được trám bít ống tủy bằng xi măng AH26 (1,11 mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05).
Đối với nhóm răng được trám bít ống tủy bằng xi măng BioRootTM RCS, trung bình vi kẽ tại
thời điểm sau khi trám bít ống tủy ngày (1,17 mm) cao hơn so với thời điểm sau 30 ngày (1,07
mm). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Xi măng nội nha là thành phần quan trọng
của khối vật liệu trám bít. Một xi măng tốt cần
có đặc tính dán dính tốt vào ngà răng và vật
liệu lõi. Xi măng AH26 có thành phần căn bản
là nhựa epoxy bisphenol A và chất xúc tác là
hexamethylene – teramine. Loại xi măng này
có nhiều ưu điểm về đặc tính cơ học như:
tăng độ cản quang, tan chậm, dán dính tốt vào
ngà răng, phù hợp với phương pháp một côn.
Do đó, xi măng AH26 đã được sử dụng phổ
biến trên lâm sàng và được xem là “chuẩn
vàng” trong các nghiên cứu đánh giá đặc tính
cơ học của các loại xi măng mới. Tuy nhiên, xi
măng AH26 có nhược điểm là phóng thích
formaldehyde, thời gian đông cứng kéo dài, co
khi đông cứng và lực co có thể vượt quá lực
dán vào ngà răng [4].
BioRootTM RCS là vật liệu mới, chưa có
nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh
giá hiệu quả trám bít ống tủy. Do có cùng
thành phần chính là calcium silicate, nên phản
ứng đông cứng cũng như cơ chế tác động của
xi măng BioRootTM RCS tương tự như Bioden-
tine và MTA.
2(3CaO. SiO2) + 6H2O => 3CaO.2SiO2.
3H2O + 3Ca(OH)2 Tricalcium silicate + Nước =>
Calcium silicate hydrate + Calcium hydroxide.
Calcium silicate phản ứng với nước tạo ra
quá trình đông cứng của xi măng. Đây là sự
hydrate hóa của tricalcium silicate (3CaO.SiO2
= C3S), tạo ra gel calcium silicate hydrate và
calcium hydroxide. Các phân tử tricalcium sili-
cate không phản ứng được bao quanh bởi các
lớp gel calcium silicate hydrate không thấm
nước, do đó làm chậm lại các phản ứng tiếp
theo [7]. Theo Skinner LB và cộng sự, các
hình ảnh quan sát bằng kính hiển vi cho thấy
có sự kết nối trực tiếp giữa xi măng calcium
silicate và ngà răng mà không có khoảng
trống nào. Đây là sự dán dính vi cơ học.
Ngoài ra, cấu trúc “nano” của calcium silicate
hydrate cũng góp phần giải thích hiệu quả dán
dính tốt của xi măng calcium silicate[11].
Tại thời điểm 2 ngày sau khi trám bít ống
tủy, tỷ lệ các răng có vi kẽ vùng chóp khi trám
bít bằng xi măng BioRootTM RCS (80%) cao
hơn ở nhóm trám bít bằng xi măng AH26
(70%), nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05). Trung bình vi kẽ
vùng chóp răng của nhóm trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (1,17 mm) cũng gần
bằng với nhóm sử dụng xi măng AH26 (1,18
mm). Do đó, chúng tôi cho rằng khả năng dán
dính của xi măng BioRootTM RCS tốt tương
đương với xi măng AH26. Kết quả của chúng
64 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tôi tương tự với kết quả của nghiên cứu về
hiệu quả trám bít của BioRootTM RCS [9; 12].
Trong nghiên cứu của Viapiana R và cộng sự,
tác giả sử dụng ba phương pháp để đánh giá
hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của hai
loại xi măng BioRootTM RCS và AH Plus: chụp
cắt lớp, đánh dấu huỳnh quang và dịch
chuyển chất lỏng. Kết quả cho thấy mức độ vi
kẽ của nhóm răng được trám bít bằng xi măng
BioRootTM RCS và AH Plus khác biệt không
có ý nghĩa thống kê khi đánh giá bằng
phương pháp huỳnh quang và dịch chuyển
chất lỏng. Khi sử dụng phương pháp chụp cắt
lớp, vi kẽ của nhóm răng được trám bít bằng
xi măng BioRootTM RCS lại cao hơn có ý
nghĩa so với nhóm răng trám bít băng xi măng
AH Plus. Tác giả cho rằng sự khác biệt này có
thể liên quan đến thời gian làm việc ngắn và
độ chảy ít của xi măng BioRootTM RCS [12].
Sau khi phản ứng đông cứng của các loại
xi măng calcium silicate xảy ra, sẽ có sự hình
thành hydroxyapatite nếu được ngâm trong
các dung dịch giả dịch thể người (SBF) hoặc
dung dịch muối cân bằng của Hank (HBSS),
kết quả này được nhiều tác giả ghi nhận[6; 8;
13]. Ion canxi phóng thích trong quá trình
đông cứng của xi măng calcium silicate sẽ kết
hợp với ion phosphate có trong các dung dịch
SBF hoặc HBSS tạo thành tinh thể hydroxya-
patite. Tinh thể hydroxyapatite kết dính tốt với
ngà răng, giúp tăng cường khả năng trám bít
của xi măng. Đây là sự dán dính hóa học:
10 Ca2+ + 6(PO4)
3- + 2(OH)1- → Ca10
(PO4)6(OH)2.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mẫu
được ngâm trong dung dịch SBF trong 30
ngày nhằm cải thiện khả năng dán dính của
BioRootTM RCS có thể do sự hình thành tinh
thể hydroxyapatite tại giao diện giữa vật liệu
và ngà răng. Kết quả cho thấy trung bình vi kẽ
vùng chóp của các răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (1,07 mm) thấp hơn
trung bình vi kẽ vùng chóp của các răng được
trám bít bằng xi măng AH26 (1,11 mm),
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê và tỷ lệ răng có vi kẽ ở hai nhóm xi
măng là bằng nhau (80%). Mức độ vi kẽ cao
nhất trong nhóm răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS (2,23 mm) cũng thấp
hơn so với răng trong nhóm xi măng AH26
(3,25 mm). Qua hai thời điểm khảo sát cho
thấy, hiệu quả trám bít ống tủy của xi măng
BioRootTM RCS tương đương với xi măng
AH26. Đối với xi măng BioRootTM RCS, trung
bình vi kẽ của nhóm răng khảo sát tại thời
điểm 30 ngày (1,07 mm) thấp hơn so với thời
điểm 2 ngày (1,17 mm). Mặc dù mức độ vi kẽ
giảm không đáng kể sau 30 ngày, nhưng kết
quả này cũng phần nào cho thấy hiệu quả
trám bít của xi măng BioRootTM RCS.
V. KẾT LUẬN
Xi măng BioRootTM RCS có hiệu quả trám
bít ống tủy chân răng tương đương với xi
măng AH26, loại xi măng có hiệu quả trám bít
tốt hiện nay. Ngoài ra, BioRootTM RCS còn có
hoạt tính sinh học, kháng khuẩn và kích thích
sự lành thương, những tính chất này không có
ở xi măng AH26.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin cảm ơn khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh đã
tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện nghiên
cứu này. Chúng tôi cam kết không xung đột
lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
TCNCYH 114 (5) - 2018 65
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ingle JI, Bakland LK (2002). Endodon-
tics 5th ed. London: BC Decker Inc.
2. Lucena-Martin C, Ferrer-Luque CM,
Gonzalez-Rodriguez MP et al (2002). A com-
parative study of apical leakage of Endome-
thasone, Top Seal and Roeko Seal sealer ce-
ments. J Endod, 28, 423 - 426.
3. Trần Thị Anh Thư, Nguyễn Thị Kim
Anh (2012). Đánh giá vi kẽ vùng chóp răng,
so sánh giữa hai phương pháp trám bít ống
tủy, nghiên cứu in vitro. Tạp chí Y học thực
hành, 16(2), 203.
4. Vishal A Mahajan, Kamra AI (2007). An
in vitro evaluation of apical sealing of three
epox y resin based commercial preparations.
Endodontology J, 19, 7 - 11.
5. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005). Tổng
quan về xi măng nội nha. Cập nhật nha khoa
2006, 32 - 44.
6. Gandofil MG, Siboni F, Primus CM &
Prati C (2014). Ion Release, Porosity, Solubili-
ty, and Bioactivity of MTA Plus Tricalcium sili-
cate. J Endod, 40, 1632 - 1637.
7. Pagaria S, Singh BD, Dubey A et al
(2015). Review Article: Biodentine as a New
Calcium Silicate Based Cement. Chettinad
Health City Medical Journal, 4(4), 182 - 184.
8. Han L, Okiji T (2013). Bioactivity
evaluation of three calcium silicate-base ando-
dontic materials. Int Endod J, 46(9), 808 - 814.
9. BioRootTM RCS scientific file, 2015.
10. Camps J, Jeaneau C, El Ayachi I,
Laurent P, About I (2015). Bioactivity of a
Calcium Silicate-based Endodontic Cement
(BioRoot RCS): Interactions with Human
Periodontal Ligament Cells In Vitro. J Endod.
41(9), 1463 - 1473.
11. Skinner LB, Chae SR, Benmore CJ,
Wenk HR and Monteiro PJM (2010). Nanos-
tructure of calcium silicate hydrates in ce-
ments. Physical Review Letters, 104(19), Arti-
cle ID 195502.
12. Viapiana R, Moinzadeh AT, Camilleri
L, Wesselink PR et al (2016). Porosity and
sealing ability of root fillings with gutta-percha
and BioRoot RCS or AH Plus sealers. Evalua-
tion by three ex vivo methods. Int Endod J, 49
(8), 774 - 782.
13. Camilleri J, Sorrentino F, Damidot D
(2013). Investigation of the hydration and
bioactivity of radiopacifided tricalcium silicate
cement, Biodentine and MTA Angelus. Dent
Mater, 29(5), 580 - 593.
Summary
APICAL SEALING ABILITY OF
CALCIUM SILICATE - BASED ROOT CANAL SEALER
BioRoot RCS (Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, France) is a tricalcium silicate-based root
canal sealer which was shown as good physicochemical and bioactive material. The aim of this
study was to evaluate apical sealing ability of root canal sealer BioRoot RCS compared with AH26
after 2 days and 30 days. The results showed that microleakage formation of BioRoot RCS group
was less than AH26 group after both intervals, but without significant statistical differences
(p > 0.05). Especially, in BioRoot RCS group, microleakage formation of 30-day-teeth subgroup
was less than 2-day-teeth one and the difference was not significant as well (p > 0.05). In conclu-
sion, apical sealing ability of calcium silicate-based root canal sealer BioRoot RCS was similar to
AH26 which was demonstrated as one of the most effective root-end fillings currently.
Keyword: BioRootTM RCS, microleakage
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_tram_bit_ong_tuy_chan_rang_cua_xi_mang_calcium_sili.pdf