Hiểu về hệ thống tiền tệ hiện đại

Xét về khía cạnh thuế và chi tiêu, Bộ Ngân khố Mỹ phải giải quyết tất cả giao dịch thông qua tài khoản của mình tại FED (giải quyết bằng tiền bên ngoài hoặc tiền dự trữ). Nói như trên thì Fed là ngân hàng của chính phủ Mỹ. Nhưng Bộ Ngân khố chỉ có thể xây dựng tài khoản dự trữ của mình bằng cách thu tiền từ khu vực tư nhân (thu thuế) dưới hình thức tiền bên trong (Bộ Ngân khố Mỹ không thể thực hiện hợp pháp khoản thấu chi của nó trong tài khoản tại FED). Thông qua quy trình này, chính phủ chỉ có thể chi tiêu từ tài khoản của mình tại Fed nếu nó đã thu được các khoản tiền bên trong thông qua các giao dịch liên quan đến tiền thuế hoặc bán trái phiếu. Việc thu quỹ này cho phép chính phủ sau đó phân phối lại những khoản tiền bên trong đã tồn tại trước đó trở lại hệ thống ngân hàng, hoàn thành dòng lưu chuyển vốn mà bắt đầu với việc tạo ra tiền bên trong của hệ thống ngân hàng (dưới hình thức các khoản vay mà tạo ra tiền gửi) và kết thúc ở một tài khoản cá nhân nào đó mà nhận tiền từ chi tiêu của chính phủ. Nói cách khác, khi chính phủ Mỹ đánh thuế Paul, Paul trả bằng tiền gửi ngân hàng hoặc tiền bên trong. Khoản tiền bên trong này cung cấp một khoản tiền vào “tài khoản thuế và nợ vay” của Bộ Ngân khố tại một ngân hàng thương mại nào đó. Bộ Ngân khố sẽ giải quyết việc thanh toán này bằng cách nhờ Fed ghi sổ khoản thanh toán vào trong một tài khoản gọi là Treasury General Account, (tài khoản của Bộ Ngân khố tại Fed). Dòng tiền này từ Paul sau đó cho phép Bộ Ngân khố chuyển vào tài khoản của Peter thông qua việc chi tiêu chính phủ. Từ đầu đến cuối, quá trình này dẫn đến việc đi vào và đi ra của tiền bên trong. (thông qua việc thu thuế và chi tiêu chính phủ) Cần phải lưu ý rằng, trong thời kỳ hiện đại, Quốc hội Mỹ đã chọn Bộ ngân khố làm người sử dụng dự trữ và tiền ngân hàng (tuy nhiên không phải lúc nào trong lịch sử nước Mỹ cũng như vậy và rất có thể sẽ còn thay đổi). Điều này đã làm cho Bộ ngân khố trở thành một tổ chức phát hành tiền tệ bị ràng buộc. Hãy nhớ rằng, Cục Dự trữ Liên bang là ngân hàng của chính phủ Mỹ vì vậy trong khi theo quyết định hiện tại của Quốc Hội là yêu cầu Bộ ngân khố là một người sử dụng dự trữ và tiền ngân hàng, thì theo lý thuyết, điều này có thể bắt NHTW phải luôn luôn cung cấp một nguồn tài trợ cho Bộ ngân khố. Cũng theo lý thuyết, Chính phủ Mỹ có thể quốc hữu hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng, mà việc đó sẽ hoàn toàn loại bỏ sự phân biệt giữa tiền bên trong và bên ngoài vì tất cả tiền sẽ tự động trở thành tiền do chính phủ phát hành ra.

docx60 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiểu về hệ thống tiền tệ hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ có rủi ro gây ra lạm phát cao hay cuộc khủng hoảng tiền tệ. Thực tế là chính phủ có thể đánh thuế sản lượng sản xuất của khu vực tư và vay mượn không giới hạn từ ngân hàng Trung Ương nhưng cũng không có nghĩa là không thể bị cạn kiệt nguồn ngân quỹ. Tạo lập tiền thực sự mang tính nội sinh. Chúng ta có thể tạo ra tiền từ hư không. Nếu tôi đến một ngân hàng để vay thì thực chất là tôi đang tạo một khoản nợ tài chính mà ngân hàng có thể muốn thực hiện hoặc không. Nếu ngân hàng xem xét thấy tôi đủ tiêu chuẩn tín dụng, họ sẽ chấp nhận khoản vay của tôi. Khi khoản vay được hình thành, ngân hàng đang nắm giữ tài sản ( khoản cho vay) và nợ phải trả ( tiền gửi ngân hàng). Tương tự, tôi đang nắm giữ một tài sản ( tiền gửi đang nắm giữ) và nợ phải trả ( khoản đi vay). Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng ngân hàng là nhà tạo tiền, nhưng bạn cũng có thể nghĩ như thể người đi vay đang tạo khoản vay. Với tất cả những mục đích thực, chúng ta đều sẵn lòng nắm giữ những khoản nợ lẫn nhau. Đây là bản chất của việc tạo “tiền”. Khi có người sẵn lòng nắm giữ khoản nợ của bạn, bạn có “ tín dụng”. Nhưng trước tiên bạn phải có sự uy tín. Tín dụng không đơn thuần đến từ quyền pháp lý hay nỗ lực từ việc in ấn. Tiêu chuẩn tín dụng chính là một chức năng của năng lực sản xuất trong hệ thống tiền tệ pháp định. Một điều chính yếu về chính phủ là họ có ngân hàng riêng và nguồn thu dồi dào. Vì vậy chính phủ có tiêu chuẩn tín dụng rất cao khi mà họ tác động đến các đầu ra của nền kinh tế. Hơn nữa, khi khoản nợ của họ được xác định bằng đồng tiền họ có thể tạo ra thì hầu như không có khả năng chính phủ sẽ rơi vào hoàn cảnh bị mọi người cho là có thể vỡ nợ . Nhưng điều này không có nghĩa rằng khoản nợ của chính phủ luôn luôn có uy tín hoặc mọi người luôn “tin tưởng” vào việc nắm giữ khoản nợ đó. Vậy, định nghĩa pháp lý của việc trả được nợ không nhất thiết có nghĩa là các khoản nợ đó có giá trị. Lạm phát rất cao xảy ra khi những người dùng đồng tiền này không chấp nhận nó và về cơ bản là trao đổi nó với đồng tiền hoặc tài sản khác. Tuy nhiên, chúng ta nên đặt nhận định này trong một bối cảnh thích hợp. Một số mức độ của lạm phát là hoàn toàn bình thường trong một hệ thống tiền tệ tín dụng bởi vì hoạt động cho vay sẽ mở rộng và phát triển cũng như sự tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, lạm phát không phải là một hình thức khác của sự vỡ nợ. Nó là chỉ số sức khỏe chung của sự mở rộng kinh tế. Hơn nữa, chính phủ vỡ nợ không phải luôn biểu hiện dưới hình thức lãi suất trái phiếu tăng hoặc “cạn kiệt tiền”. Bởi vì nhà phát hành tiền luôn có thể duy trì chi phí của nợ về danh nghĩa chỉ đơn giản bằng cách giảm lãi suất hoặc kỳ đáo hạn của món nợ. Nó không cần phải bị “cưỡng ép” vào trong sự vỡ nợ bởi những người bán tháo trái phiếu. Nhưng điều này không có nghĩa là thị trường sẽ luôn luôn muốn giữ nợ phải trả của họ. Và điều này thường được biểu hiện dưới hình thức của một cuộc khủng hoảng ngoại hối hay lạm phát cao. Ví dụ, nếu chúng ta nhìn vào Argentina từ năm 2000 có thể thấy rằng đồng Peso Argentina đã mất giá trung bình 18% so với đồng đô la. Nhưng tỷ lệ lạm phát thì lại là 11% trong thời kỳ này. Điều này có nghĩa “ thị trường” đánh giá đồng Peso cao đáng kể so với các đồng tiền thay thế tiềm tàng khác. Vì vậy, trên cơ sở tương đối, người dân Argentina nghèo hơn trước cả về giá danh nghĩa lẫn thực tế so với việc sử dụng một đồng tiền khác. Đúng là chính phủ không thể phá sản về mặt pháp lý, nhưng một khi thị trường đã quyết định không nắm giữ đồng tiền Argentina theo hiện giá của nó thì hậu quả mang lại là một sự mất giá mà chắc chắn làm giảm mức sống của người dân trên cơ sở tương đối. Thú vị thay, tình cảnh này có thể khiến nhà phát hành tiền làm điều mà sẽ biến nó không còn là độc lập nữa (ví dụ như neo tỷ giá) . Vì họ đang sử dụng một tác động tiêu cực của hậu quả này. Nếu xét về mặt pháp lý, bản chất của việc “vỡ nợ” thật sự rất u ám. Khi nhà phát hành tiền rơi vao một trạng thái bất thường, tốt hơn là ta nên xem nó như là sự sẵn lòng của thị trường tài chính trong việc nắm giữ các khoản nợ so với các đồng tiền thay thế tiềm năng khác. Và nếu thị trường tài chính không muốn nắm giữ nợ của bạn thì bạn sẽ mất uy tín ngay cả khi bạn không bị phá sản. Khả năng tạo ra tiền đôi khi được xem như một loại thuốc chữa cho tất cả các vấn đề kinh tế mà có thể giúp duy trì việc làm và sự phồn vinh. Nhưng thực tế thì lại phức tạp hơn nhiều so với việc chỉ đơn giản là nhà phát hành tiền độc lập. Tất nhiên, ta nên cẩn thận khi hàm ý rằng “in tiền” và lạm phát luôn là một hình thức khác của vỡ nợ. Đây là những quan điểm cực đoan, thực tế phức tạp hơn những nhận định thông thường rất nhiều. Tương tự, nên nhớ một điều quan trọng rằng chi tiêu của chính phủ cần tập trung vào tính hiệu quả của nó. Nếu việc chi tiêu là sai mục đích hay có sự sai lầm thì thực tế có khả năng cao rằng chi tiêu này chỉ là dẫn đến kết cục lạm phát cao hoặc không có sự gia tăng sản lượng. Nếu bạn trả lương cho người ngồi trên ghế của họ cả ngày thì không có lý do gì để tin rằng vì sao loại chính sách này sẽ không dẫn đến suy giảm tiêu chuẩn sống của người dân trong dài hạn. Mức sống, xét đến cùng, đến từ khả năng sản xuất và đổi mới của khu vực tư . Hoa Kỳ cực kỳ giàu có không phải vì chính phủ chúng tôi phát hành những tài sản tài chính và tiền tệ hay do một thực tế là hệ thống ngân hàng phát hành tiền gửi ngân hàng, mà là Mỹ là một quốc gia làm việc cực kỳ hiệu quả và sáng tạo. Nói cách khác, Mỹ sử dụng có hiệu quả với số tiền mà họ phát hành. Khi chúng ta thảo luận về cung tiền, việc chính phủ duy trì một sự kiểm tra tín dụng tư nhân là quan trọng. Như đã giải thích, tiền bên trong là hình thức chính của tiền. Trong khi chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến cung tiền, cung tiền về cơ bản là được xác định bởi các ngân hàng tư nhân. Chính phủ nên là quản lý tốt việc mở rộng tín dụng và cố gắng để ban hành chính sách hỗ trợ mở rộng tín dụng, nhưng không cho phép nó hoạt động mất kiểm soát làm mất ổn định hệ thống hoặc sự đầu tư dại dột trong khu vực tư. 4. Vai trò dẫn đầu của Khu vực tư và “ Tiền bên trong”. Hệ thống tiền tệ giống như một cỗ máy. Nếu coi nó giống như một chiếc xe hơi, sẽ giúp ta hiểu về cách mà các bộ phận kết hợp với nhau như thế nào. Chính sách tiền tệ giống như các phanh và ga. Khi Fed gia tăng lãi suất liên bang, lãi suất danh nghĩa nó thường kìm hãm áp lực lạm phát bởi điều đó làm giảm mức hấp dẫn đối với việc phát hành các khoản cho vay (tạo tiền). Khi Fed tăng lãi suất liên bang, (nghĩa là lãi suất ngắn hạn mà chính sách tiền tệ thường dùng) điều này làm tăng chi phí đi vay qua các khoản tín dụng từ đó kìm hãm hoạt động kinh tế. Ngược lại, khi Fed hạ thấp lãi suất liên bang, thường để chống lại sự bùng nổ tình trạng thất nghiệp, điều này làm giảm chi phí đi vay qua các khoản tín dụng (đặc biệt các khoản vay ngắn hạn) do đó thúc đẩy hoạt động kinh tế. Chính sách tiền tệ chủ yếu nói về vận hành lãi suất ngắn hạn mặc dù còn các yếu tố khác nữa. Chính sách tài khóa như là cần số. Các nhà kinh tế thường thảo luận về tổng cung và tổng cầu. Tổng cung là tổng lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất bởi một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng cầu là tổng số lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được mua bởi các đại lý trong một thời kỳ nhất định. Giá cả thị trường của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong một quốc gia có thể được bán với giá khác nhau; từ đây về sau, đó là khái niệm về tổng cung và tổng cầu. Khi nền kinh tế bùng nổ tức là tổng cầu có thể vượt quá tổng cung dẫn đến áp lực lạm phát. Khi kinh tế đình trệ trong một cuộc suy thoái, tổng cung có thể vượt quá tổng cầu dẫn đến sự chống lạm phát hoặc thậm chí là giảm phát. Nếu kinh tế đang chịu sự thiếu hụt trong tổng cầu, khu vực chính phủ có thể thông qua việc thâm hụt (ví dụ như chi tiêu vượt quá thu nhập), để tăng tốc nền kinh tế (điều này là do chính phủ thông qua các loại thuế thấp hoặc chi tiêu nhiều hơn). Trong thực tế, như sự thu thuế và những chi tiêu nhất định của chính phủ (ví dụ như trợ cấp thất nghiệp) đều tăng và giảm trong một cách nghịch chu kỳ, nhiều ý kiến về ngân sách của chính phủ liên bang là nằm ngoài sự kiểm soát của nhà hoạch định chính sách, và thay vào đó được quyết định bởi sự diễn ra bên trong nền kinh tế. Điều này được biết đến như bộ ổn định tự động của xe hơi. Những chi tiêu cho trợ cấp thất nghiệp và các hình thức "tự động" khác có thể tăng lên mà không cần bất kỳ hành động mới nào của chính phủ trong thời kỳ suy thoái. Sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ làm tăng dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế và giúp cải thiện bảng cân đối kế toán của khu vực tư. Điều này diễn ra thông qua 2 chức năng chính. Đầu tiên là việc chính phủ luôn có thể thu được tiền và gia tăng dòng chi tiêu trong nền kinh tế. Đó là, khi khu vực tư dừng việc chi tiêu và đầu tư ( vì bất cứ lí do gì), chính phủ luôn có thể mở “ dòng chảy” và làm tăng thu nhập, doanh thu, Tác động thứ hai xảy ra khi gia tăng tài sản tài chính thuần giúp cải thiện sự ổn định của bảng cân đối kế toán. Hãy nhớ rằng, khi thâm hụt ngân sách, chính phủ sẽ bán trái phiếu cho Peter và phân phối lại tiền gửi ngân hàng của Peter cho Paul. Việc bán trái phiếu cho Peter mang đến một tài sản tài chính ròng cho khu vực tư vì không có khoản nợ khu vực tư nào được gắn với trái phiếu này. Tất nhiên, nếu chi tiêu chính phủ ít hoặc bị sử dụng sai mục đích thì có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực lâu dài thông qua các kênh khác nhau. Điều này không nên bỏ qua hoặc lơ là Như Michael Kalecki đã có một lưu ý nổi tiếng, thâm hụt ngân sách chính phủ (cho dù đó là do thu thuế thấp hơn hay tăng chi tiêu) cũng có thể giúp duy trì doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp, vì họ có khả năng thuê nhiều nhân viên hơn. Bạn có thể để ý thấy sự phục hồi nhanh chóng trong lợi nhuận các công ty sau thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính. Điều này phần lớn là do thâm hụt ngân sách của chính phủ. Điều này có thể được hiểu thông qua đẳng thức lợi nhuận của Kalecki: Lợi nhuận = Đầu tư – Tiết kiệm hộ gia đình – tiết kiệm chính phủ – tiết kiệm nước ngoài + cổ tức Đẳng thức này có thể được quan sát thông qua biểu đồ dưới đây. Biểu đồ này cho thấy sự suy giảm lợi nhuận doanh nghiệp qua phần trăm của GDP từ năm 1960. Như bạn có thể thấy, thành phần chính tác động đến lợi nhuận doanh nghiệp hầu như luôn là đầu tư ròng. Vì vậy, khu vực tư là động lực chính của tăng trưởng lợi nhuận trong suốt khoảng thời gian đó. Cuộc khủng hoảng 2008 là bất thường trong đó việc thoái nợ dẫn đến sự sụt giảm trong đầu tư ròng. Các gạch màu đỏ tươi, hay chi tiêu của chính phủ, có vai trò đáng kể trong việc tác động đến lợi nhuận doanh nghiệp trong giai đoạn này vì có một sự sụp đổ trong đầu tư tư nhân. (Biểu đồ 3 - % Lợi nhuận doanh nghiệp theo GDP) Tiếp tục với phép ẩn dụ, quy định của chính phủ có thể là một sự phiền toái (tình trạng quan liêu) nhưng khi không có sự quá mức, nó cũng giống như các tính năng an toàn được trang bị cho những xe hơi hiện đại (ví dụ như dây an toàn, túi khí, vv) với mục đích giữ cho các hoạt động kinh tế đặt trong giới hạn chấp nhận được, nhưng không hạn chế sự di chuyển của phương tiện. Xét khía cạnh khác, chính phủ giống như một “lưới an toàn” để khắc phục và hạn chế những thất bại của thị trường (mặc dù cũng phải thừa nhận rằng, nó cũng có thể làm vấn đề xấu hơn nếu có sự sai lầm). Với cách hiểu tương tự, vai trò của tiền bên ngoài như là một đặc trưng thuận tiện trong hệ thống tiền tệ, quy định của chính phủ có thể tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định khi không có sự thái quá. Hyman Minsky đã ghi nhận rằng các nền kinh tế tư bản dễ bị những gì ông gọi là "nội sinh" bất ổn tài chính, ý nói rằng các hoạt động "bình thường" của hệ thống thị trường có thể tạo ra dư thừa tài chính. Ông khuyên về sự cần thiết cập nhật những quy định trong quan điểm về sự phát triển đối với các nhà hoạch định chính sách và các nhà lý luận cũng như để khiêm tốn thừa nhận những gì có thể làm trong quá khứ không thể còn làm như vậy được nữa. Nhưng lời Minsky bị phớt lờ. Tôi tin rằng con người vốn đã sai lầm và thường không có lý trí. Kể từ khi nền kinh tế là tập hợp của các quyết định của nhà hoạch định phi lý không có gì đáng ngạc nhiên khi nền kinh tế có xu hướng xoay theo chiều hướng cực đoan những lần đó. Như Minsky có lưu ý nổi tiếng, "sự ổn định gây mất ổn định" như các bộ ngành kinh tế trở nên ngày càng ung dung và tự mãn trong giai đoạn bùng nổ của các chu kỳ kinh doanh mà có thể dẫn đến dư thừa và phá sản. Những thứ khác trong xe là khu vực tư. Các lĩnh vực kinh doanh phi tài chính là động cơ, khung xe, bánh xe và chỗ ngồi (những gì chúng ta có thể nghĩ đến như là "cốt lõi" của xe). Các doanh nghiệp phi tài chính được sử dụng lao động lớn nhất và sản xuất hầu hết các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu để nâng cao tiêu chuẩn sống. Các hộ gia đình là người lái xe và hành khách trên xe. Với tư cách người sử dụng lao động, người lao động, nhà đầu tư và người tiêu dùng, chúng tôi xác định hướng tổng thể của hệ thống kinh tế. Ngành tài chính cung cấp các chất bôi trơn trong xe (ví dụ dầu, nước làm mát, vv). Vai trò chính của tài chính là để tạo điều kiện cho sự phát triển của tài sản vốn sản xuất của nền kinh tế và để cung cấp các nguồn lực tài chính và tài chính cho phép chúng ta thực hiện các hoạt động theo ý thích của mình (ví dụ mua hoặc xây dựng nhà cửa). Các nhiên liệu trong động cơ xe hệ thống kinh tế là công cụ để kiếm sống, tạo ra lợi nhuận và tiết kiệm cho tương lai. Khái niệm cơ bản về ngân hàng và chuyện khó tin về số nhân tiền Hệ thống tiền tệ của Mỹ được thiết kế để phục vụ cho việc tạo ra các nguồn cung tiền trong công chúng chủ yếu dựa vào các ngân hàng tư nhân. Hầu hết tiền hiện đại có hình thức tiền gửi ngân hàng và hầu hết các giao dịch trên thị trường liên quan đến tư nhân được giao dịch bằng tiền ngân hàng tư nhân: nó là "tiền bên trong" vốn thường được đề cập hằng ngày trong hệ thống tiền tệ pháp định hiện đại. Vai trò của khu vực công trong việc tạo ra "tiền bên ngoài" là không đáng kể và chủ yếu đóng vai trò là điều kiện thuận lợi. Giống như chính phủ, các ngân hàng cũng là tổ chức phát hành tiền, nhưng không phát hành tài sản tài chính ròng. Đó là các giao dịch của ngân hàng luôn luôn liên quan đến việc tạo ra tài sản và nợ phải trả. Ngân hàng tạo ra các khoản cho vay độc lập với sự ràng buộc của chính phủ (ngoài các khuôn khổ pháp lý). Như chúng ta sẽ giải thích dưới đây, các ngân hàng tạo ra các khoản cho vay độc lập với mức dữ trữ của họ. Hệ thống tiền tệ ở Mỹ được thiết kế đặc biệt chung quanh hệ thống ngân hàng tư nhân cạnh tranh. Hệ thống ngân hàng không phải là hội các công ty công hoặc tư phục vụ với mục đích công như Cục Dự trữ Liên bang vốn đang làm. Hệ thống ngân hàng ở Mỹ là một thành phần sở hữu của tư nhân vì mục đích lợi nhuận. Điều này nhằm mục đích phân tán quyền lực của việc tạo tiền từ chính phủ trung ương vào tay các tổ chức phi chính phủ. Vì Fed thấy rằng họ như là một cơ quan của chính phủ Mỹ thực hiện chính sách của mình thông qua các tổ chức tư nhân. Điều này sẽ xuất hiện những xung đột lợi ích khi Cục Dự trữ Liên bang, một đại diện của chính phủ, thường được xem là thông đồng với các ngân hàng và tạo nên mâu thuẫn với việc đạt được các mục đích công cộng. Mối quan hệ của Chính phủ với hệ thống ngân hàng tư nhân là một cơ chế được hỗ trợ nhiều hơn bất cứ điều gì khác. Về vấn đề này, tôi thích cách suy nghĩ chính phủ như là một người hỗ trợ trong việc giúp duy trì một khoản tín dụng vững chắc dựa trên hệ thống tiền mặc dù các ngân hàng như những chủ thể vì mục đích lợi nhuận đôi khi mâu thuẫn với mục tiêu tổng thể là mục đích công. Điều quan trọng là phải hiểu rằng các ngân hàng không bị kiểm soát bởi chính phủ (bên ngoài cơ sở pháp lý) về cách họ tạo ra tiền. Khi chúng tôi học các lớp về kinh doanh, chúng tôi được dạy rằng các ngân hàng có được các khoản tiền gửi và sau đó sử dụng đòn bẩy những khoản tiền gửi lên tới 10 lần hoặc cao hơn. Đây là lý do tại sao chúng ta gọi hệ thống ngân hàng hiện đại là một hệ thống "Ngân hàng dự trữ một phần". Các ngân hàng được cho vay một phần "dự trữ" của họ. Chỉ có một vấn đề ở đây. Các ngân hàng không bao giờ bị ràng buộc dự trữ. Các ngân hàng luôn ràng buộc vốn. Điều này có thể dễ nhìn thấy ở các nước như Canada, nơi không có dự trữ yêu cầu. Dự trữ được sử dụng cho hai mục đích - để giải quyết các khoản thanh toán trên thị trường liên ngân hàng và để đáp ứng yêu cầu dự trữ của Fed. Ngoài ra, dự trữ có rất ít tác động tới hoạt động cho vay trong ngày của các ngân hàng ở Mỹ. Điều này gần đây đã được khẳng định trong một bài nghiên cứu Fed: “ Những thay đổi trong dự trữ là không liên quan đến những thay đổi trong việc cho vay, và nghiệp vụ thị trường mở không tác động trực tiếp đến việc cho vay. Chúng tôi kết luận rằng tài liệu về sự tác động của tiền trong cơ chế chuyển giao có thể bị hủy bỏ” Luận điểm này được củng cố bởi Standard và Poors cũng như Ngân hàng Anh trong vài năm qua. Thật vậy, có xu hướng dường như nắm được lỗi của khái niệm số nhân tiền. Cần phải hiểu một điều rất quan trọng là vì nhiều người đã cho rằng chính sách đa dạng của Fed trong những năm gần đây (như chính sách nới lỏng định lượng) sẽ là lạm phát hoặc thậm chí siêu lạm phát. Nhưng tất cả những gì Fed đang làm là thêm dự trữ cho hệ thống ngân hàng để đổi lấy (chủ yếu) trái phiếu chính phủ. Bởi vì các ngân hàng không bị ràng buộc dự trữ, tức là, họ không cho vay khoản dự trữ hoặc nhân khoản dự trữ của họ, điều này không nhất thiết dẫn đến cho vay nhiều hơn và sẽ không dẫn đến kêt quả các khu vực tư có thể nhận thêm vốn. Bởi vì các ngân hàng không bị ràng buộc dự trữ, nó chỉ có thể có nghĩa là - ngân hàng cho vay khi khách hàng đủ chuẩn tín dụng có nhu cầu vay vốn (giả sử hệ thống ngân hàng lành mạnh và các ngân hàng đang tham gia vào hoạt động kinh doanh giao dịch như đã được chỉ định). Các khoản cho vay tạo tiền gửi, chứ không phải ngược lại. Các ngân hàng tạo ra các khoản vay mới độc lập với mức dự trữ của họ và Cục Dự trữ Liên bang trong hoạt động thay đổi thành phần của tài sản tài chính chưa trả được nợ trong một nỗ lực để duy trì một mức lãi suất mục tiêu và duy trì các hệ thống thanh toán hoạt động trơn tru mà nó giám sát (điều này là một phần của chính sách tiền tệ mà ít tác động đến sự phát hành trực tiếp của tiền bên trong). Trong quá trình tạo tiền vay, các ngân hàng sẽ cho vay trước tiên (kết quả là tiền gửi mới) và lúc đó sẽ tìm ra mức dự trữ cần thiết sau thực tế (hoặc trong các thị trường qua đêm hoặc qua Fed). Để hiểu được hoạt động của ngân hàng là khá đơn giản. Tốt nhất là nghĩ rằng ngân hàng đang chạy một hệ thống thanh toán giúp tất cả chúng ta giao dịch trong nền kinh tế. Ngoài ra để giúp quản lý các hệ thống thanh toán này, họ phát hành tiền dưới hình thức các khoản vay. Các ngân hàng thu được lợi nhuận trong giao dịch kinh doanh khi tài sản của họ ít tốn kém hơn so với khoản nợ của họ. Nói cách khác, ngân hàng cần tìm nguồn vốn để vận hành hệ thống thanh toán suôn sẻ, nhưng họ sẽ tìm một cách thực hiện nào đó mà không làm giảm mức sinh lời của họ. Tuy nhiên, các ngân hàng không sử dụng những khoản tiền gửi hoặc dữ trữ để cho vay. Các ngân hàng cho vay và tìm dự trữ sau, khi cần thiết. Nhưng bởi vì ngân hàng là một loại hình kinh doanh chênh lệch (nắm giữ tài sản có giá thấp hơn các nghĩa vụ nợ), các ngân hàng sẽ luôn tìm kiếm nguồn quỹ rẻ nhất có thể vận hành hệ thống thanh toán của chúng, thường là các khoản tiền gửi. Điều này nghĩa là ngân hàng tài trợ cho các khoản cho vay bằng cách nhận tiền gửi, nhưng điều này không phải vấn đề. Sẽ đơn giản hơn khi nghĩ ngân hàng là một loại hình kinh doanh chênh lệch khi mà ngân hàng chỉ đơn giản mua các nghĩa vụ nợ giá rẻ để đảm bảo việc thanh toán và tối đa hóa lợi nhuận. Để làm rõ quan điểm này, hãy xem lại sự thay đổi trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng và hộ gia đình trước và sau khi khoản cho vay được thực hiện. Vì các ngân hàng không bị ràng buộc bởi dự trữ, các ngân hàng không cần phải có một khoản X dự trữ trong tay để tạo ra các khoản cho vay mới. Nhưng các ngân hàng phải có nhiều vốn để có khả năng vận hành và đáp ứng các yêu cầu theo quy định. Khoản dự trữ chỉ là một bộ phận trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng nên sẽ tốt hơn nếu nghĩ rằng ngân hàng bị ràng buộc bởi số vốn cần có chứ không phải bị ràng buộc về dự trữ. Hãy bắt đầu với một hệ thống tiền tệ đơn giản được trình bày dưới đây. Trong ví dụ này, các ngân hàng bắt đầu với $120 trong tài sản và nghĩa vụ nợ, bao gồm tiền tệ, dự trữ, vốn cổ phần và tiền gửi. Trong đó, các hộ gia đình giữ $80 trong tài khoản tiền gửi, số tiền đó là tài sản đối với các hộ gia đình và là nghĩa vụ nợ đối với hệ thống ngân hàng. Nghĩa là, ngân hàng nợ bạn khoản tiền đó, khi bạn yêu cầu, ngân hàng sẽ trả. (Biểu đồ 4 – Trước khi khoản vay được hình thành) Khi ngân hàng có dự trữ, ngân hàng không cần thiết phải cho vay. Đơn giản là nó phải duy trì khả năng trả nợ dưới những yêu cầu được quy định. Nếu các hộ gia đình muốn vay một khoản tiền mới để mua nhà mới với giá $50, ngân hàng sẽ ghi nợ tài khoản của hộ gia đình đó như trong hình 5. Khi một khoản cho vay mới được hình thành, tài khoản tiền gửi hộ gia đình đó tăng lên $130. Nợ của hộ gia đình tăng thêm $50. Tài sản ngân hàng tăng thêm $50 (khoản cho vay) và nghĩa vụ nợ của ngân hàng tăng thêm $50 (tiền gửi). Nếu ngân hàng cần dự trữ để thực hiện thanh toán hoặc đáp ứng mức dự trữ bắt buộc, nó luôn có thể đi vay từ một ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng hoặc nếu bắt buộc, nó có thể vay từ “cửa sổ chiết khấu” của FED. (Biểu đồ 5- Sau khi khoản vay được hình thành) Mấu chốt ở đây là các ngân hàng không chỉ đơn thuần là trung gian trong hệ thống tài chính. Chúng là những người phát hành tiền bạc đầy quyền lực và làm vậy bằng cách làm tăng bảng cân đối kế toán của chúng. Với ý nghĩa này, ngân hàng có thể được xem như là một “máy in tiền”. Hiểu về hệ thống “ngân hàng ngầm”. Kể từ giữa thập niên 80, các ngân hàng đã phát triển từ một hình mẫu với tiêu chuẩn nợ 3-6-3 (nghĩa là vay nợ 3%, cho vay 6% và đi đánh golf vào 3 giờ chiều) đến một việc kinh doanh phức tạp và mập mờ hơn nhiều lần. Để hiểu về hệ thống ngân hàng hiện đại trước hết ta nên tìm hiểu về hệ thống ngân hàng truyền thống trước. Những năm gần đây, khái niệm về “ngân hàng ngầm” dần trở nên đáng chú ý bởi vì hệ thống ngân hàng đã phát triển. Các “ngân hàng ngầm” nói chung không giống với ngân hàng truyền thống. Chúng là những trung gian tài chính hoặc các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính bằng cách giúp tạo ra khả năng thanh khoản bằng nhiều cách khác nhau. Ở hình thái đơn giản nhất cả “ngân hàng ngầm”, là khả năng gây quỹ ở thị trường tiền tệ rồi cho vay ở thị trường vốn. Những định chế này hoạt động ngầm vì chúng không được pháp luật cho phép như ngân hàng. Theo quỹ tiền tệ IMF, một “ngân hàng ngầm” thực hiện các nghiệp vụ trung gian tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: Dịch chuyển kỳ hạn (maturity transformation): lấy nguồn tiền ngắn hạn đi đầu tư vào các tài sản dài hạn. Dịch chuyển thanh khoản (liquidity transformation): đây là khái niệm tương tự như dịch chuyển kỳ hạn, nhưng chi tiết hơn là sử dụng các khoản nợ giống như tiền mặt (thanh khoản cao) để mua các tài sản rất khó bán đi (thanh khoản thấp hơn) như các khoản tín dụng. Đòn bẩy (leverage): vay mượn thêm tiền để mua tài sản nhằm khuếch đại lợi nhuận (lỗ) đầu tư tiềm năng. Chuyển rủi ro tín dụng (credit risk transfer): chuyển rủi ro người đi vay bị vỡ nợ từ người cho vay ban đầu sang người khác. Những “ngân hàng ngầm” có vẻ giống ngân hàng thường và hoạt động cũng tương tự như ngân hàng thường, tuy nhiên không phát hành bảo hiểm tiền gửi và không được hưởng quỹ cứu trợ khẩn cấp của ngân hàng trung ương. Quan trọng nhất, “ngân hàng ngầm” thường biến những tài sản không an toàn trở nên an toàn hơn bằng tập hợp nhiều công cụ tài chính khác nhau rồi đóng gói thành một sản phẩm được chứng khoán hóa, bằng cách đó họ làm giảm rủi ro thông qua đa dạng hóa và bán lại sản phẩm đó trên thị trường. Điều này cho phép “ngân hàng ngầm” phát hành tín dụng bằng cách phát hành các khoản nợ thanh khoản ngắn hạn dựa trên những tài sản dài hạn nhiều rủi ro hơn. Ngầm hàng ngầm là một hệ thống ngầm mập mờ, đang phát triển bên dưới hệ thống ngân hàng chính thống và nó sẽ còn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. 5. Trữ lượng (Stocks) và lưu lượng (Flows) trong hệ thống tiền tệ hiện đại. Chúng ta cần phải hiểu mối quan hệ giữa các khu vực trong nền kinh tế và cách mà các khu vực này và mối tương quan giữa chúng tạo ra sự tăng trưởng. Những người theo trường phái hiện thực tiền tệ (MR) tìm thấy nhiều điểm liên quan trong phương pháp “Cân bằng tài chính các khu vực” được phát triển bởi Wynne Godley. Đó là một thấu kính hữu ích có thể giúp chúng ta khái quát hóa nền kinh tế vĩ mô và hiểu mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước, việc cân đối tài khoản vãng lai và các quyết định tiết kiệm - đầu tư của khu vực tư nhân. Phương pháp này là một số liệu kế toán đặc biệt (lấy từ số liệu trong quá khứ) được phân tích ra bằng cách sắp xếp lại tổng cầu và trình bày lại một cách điển hình bằng một mô hình 3 nhân tố: khu vực tư nhân, khu vực công và khu vực nước ngoài. Đây là một mô hình cơ bản, chỉ ra sự liên kết giữa những tổng cầu (là tổng số lượng hàng hóa dịch vụ cuối cùng được mua trong một khoảng thời gian nhất định) với những thay đổi trong vị trí của tài sản tài chính ròng của các khu vực. Phương pháp cân bằng tài chính các khu vực đo lường thu nhập của 3 khu vực sau khi trừ đi chi tiêu trong một khoản thời gian nhất định. Khi một khu vực chi tiêu nhiều hơn thu nhập thì sẽ tạo ra thâm hụt, và ngược lại khi chi tiêu ít hơn thu nhập sẽ tạo ra thặng dư. Điều phải chú ý là trong số 3 khu vực, có khu vực công (cụ thể hơn là chính phủ liên bang) là có nhiều khả năng tạo ra những khoản thâm hụt lớn trong thời gian kéo dài nhất. Nguyên nhân là vì ràng buộc ngân sách của chính phủ liên bang Hoa Kỳ không giống với bất kỳ cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nào hay thậm chí còn không giống với một bang hoặc chính quyền địa phương ở đó. Thâm hụt của toàn chính phủ (gồm cả liên bang, từng bang và chính quyền địa phương) theo định nghĩa luôn bằng với thâm hụt tài khoản vãng lai cộng với cân bằng khu vực tư nhân (phần thừa ra giữa tiết kiệm và đầu tư). Nói một cách chính xác hơn: thu nhập ròng của hộ gia đình = thặng dư tài khoản vãng lai + thâm hụt chính phủ + Δtài sản phi tài chính của doanh nghiệp. Thặng dư của khu vực tư nhân (gồm hộ gia đình và doanh nghiệp) đại diện cho tiết kiệm ròng từ thu nhập sau chi tiêu của khu vực này, trong khi đó, thâm hụt của khu vực công chính là thâm hụt ngân sách chính phủ. Đây chính là bản chất của phương pháp “Cân bằng tài chính các khu vực” nổi tiếng của nhà kinh tế học Wynne Godley. Chúng ta có thể quan sát thông qua đồ thị sau: (Hình 6 – Cân bằng tài chính 3 khu vực) Cân bằng các khu vực có thể được chia nhỏ ra theo GDP như sau: GDP = C + I + G + (X – M) Trong đó: C = tiêu dùng, I = đầu tư, G = chi tiêu chính phủ, X = xuất khẩu, M = nhập khẩu Hoặc nói cách khác thì: GDP = C + S + T Trong đó: C = tiêu dùng, S = tiết kiệm, T= thuế Theo đó chúng ta có thể kết luận: C + S + T = GDP = C+ I + G + (X – M) Nếu sắp xếp lại chúng ta có thể thấy tổng những yếu tố này bằng 0: (I – S) + (G – T) + (X – M) = 0 Trong đó (I – S) = cán cân khu vực tư nhân, (G - T) = cán cân khu vực công, (X –M) = cân bằng khu vực nước ngoài Cân bằng của khu vực này phải có tổng kế toán bằng 0. Trong hình 6, điều nổi bật là chính phủ Hoa Kỳ hầu như đã thâm hụt trong suốt 60 năm vừa qua (và thực tế là trong hơn 200 năm). Phương pháp SFB (cân bằng tài chính các khu vực) nhấn mạnh rằng khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập, thâm hụt trong chi tiêu sẽ tạo ra tài sản tài chính ròng cho khu vực tư nhân dưới hình thức trái phiếu chính phủ. Các chủ thể tư nhân hưởng lợi từ việc này theo nhiều cách. Có nhiều nhà đầu tư mua những tài sản sinh lãi “an toàn” cho danh mục đầu tư của mình. Cũng có những người hưởng lợi từ thâm hụt ngân quỹ bằng cách được trả tiền cho việc kinh doanh của họ, hoặc nhận một khoản tiền giúp họ trả được các hóa đơn tháng. Phải chú ý rằng những trái phiếu tiết kiệm (saving bonds) này là một tài sản của khu vực tư nhân và là nghĩa vụ nợ của chính phủ. Vì vậy, nếu “trả hết nợ quốc gia”, theo đồng nhất kế toán, sẽ kéo theo sự biến mất của một loại tài sản tài chính sinh lãi quan trọng của khu vực tư nhân. Điều này không có nghĩa là chính phủ cần phải làm cho khu vực tư nhân giàu lên thông qua phát hành trái phiếu chính phủ, mà như đã được đề cập ở trên, ràng buộc của khu vực công khác với ràng buộc khu vực tư (khả năng thanh toán so với lạm phát). Vì thế, ý tưởng trả hết nợ công cần phải được hiểu cho đúng. Tầm quan trọng của việc hiểu S = I + (S - I) cho đúng. Cần phải nói rõ hơn về cân bằng khu vực tư nhân để người đọc không hiểu lầm rằng người điều khiển sự phát triển của nền kinh tế là khu vực công chứ không phải khu vực tư. Mặc dù chính phủ có thể chèo lái sự phát triển kinh tế (nếu làm một cách hợp lý), chúng ta vẫn không nên quên rằng những khoản đầu tư chính là xương sống của vốn cổ phần ở khu vực tư nhân. Phép hoán đổi đơn giản của những nhân tố khu vực tư sau đây sẽ làm nổi bật điều này và tránh sự hiểu lầm rằng I > S là điều tiêu cực cho nền kinh tế trong khi thực tế nhìn chung đầu tư nhiều lại tốt hơn (có thể thấy trong biểu đồ lợi nhuận doanh nghiệp trước đó). Khi ta hoán đổi một số nhân tố trong biểu thức cân bằng tài chính, ta có thể thấy một đặc điểm như sau: (S – I) = (G – T) + (X –M) S = I + (G – T) + (X – M) Chuyển thành: S = I + (S – I) Chúng ta cũng có thể suy từ biểu thức Thu nhập quốc gia: C + I + G + (X – M) = C + S + T Chuyển thành: (S-I) + (T-G) + (M-X) = 0 Chuyển thành: I = S + (T-G) + (M-X) Điều này cho độc giả thấy rằng, sự giàu có về tài chính của một quốc gia không chỉ được hình thành từ việc thâm hụt trong chi tiêu chính phủ mà phần lớn hình thành độc lập với chính phủ. Đẳng thức SFB (sectoral financial balances) khi dùng cho nền kinh tế đóng cho thấy thâm hụt của chính phủ chính bằng tiết kiệm trừ đầu tư của khu vực tư. (S - I) = ( G - T) Như đã nhắc đến ở trên, tất cả các tài sản tài chính ròng đều bằng 0 trên mệnh giá, nên từ đẳng thức trên người ta có thể kết luận rằng khả năng “tiết kiệm ròng” của khu vực tư được lấy từ quy mô của thâm hụt ngân sách. Nhưng điều này đã bỏ qua hiện thực là chính các khoản đầu tư đã điều khiển sự tăng trưởng kinh tế. Chính các khoản đầu tư đã tạo ra hầu hết sản phẩm và dịch vụ trong nền kinh tế, đem đến giá trị cho hệ thống tài chính của chúng ta. Vì thế thật vô nghĩa khi quan sát thế giới qua ống kính (S - I), khi mà các khoản đầu tư bị trừ đi mất. Thay vào đó, chúng ta nên quan sát thông qua S = I + (S - I) bởi vì biểu thức này cho thấy Tiết kiệm được điều khiển phần lớn bởi Đầu tư. Sau cùng, như đã diễn tả ở trên, giá trị ròng của thế giới là tổng hợp của những tài sản phi tài chính (mà giá trị là phần lớn do Đầu tư) và giá trị thị trường của tài sản tài chính (giá trị của cổ phiếu,vv). Những thành phần của Tiết kiệm ở khu vực tư bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Đầu tư của khu vực này. Thâm hụt trong nước, mặt khác, chỉ bao gồm một phần tương đối nhỏ của giá trị thực của khu vực tư. Nhìn nhanh qua dữ liệu, thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ trung bình bằng khoảng 1/6 tổng đầu tư tư nhân trong nước trong giai đoạn 1960-2007 và 4/5 trong giai đoạn 2008-2010. Không cần tranh luận gì nhiều về việc nhân tố thường xuyên điều khiển tiết kiệm tư nhân chính là đầu tư tư nhân, nhưng dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, vai trò của thâm hụt chi tiêu chính phủ có thể trở nên quan trọng hơn. Trong khi phải nhấn mạnh thực tế rằng khu vực tư nhân đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế, thì vai trò tạo điều kiện của chính phủ trong hệ thống tiền tệ cũng không nên bị bỏ qua. Tiền pháp định trong hệ thống tài chính toàn cầu Khi chúng ta nói về tiền pháp định trong nền hệ thống kinh tế vĩ mô toàn cầu, cần phải chú ý rằng hệ thống này thực sự được kết nối với nhau trên toàn cầu. Việc châu Âu, Liên hiệp vương quốc Anh, Trung Quốc hay Liên bang Hoa Kỳ có loại tiền tệ của riêng họ không có nghĩa rằng những khu vực này hoàn toàn là hệ thống độc lập. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, ta có giao dịch thương mại tự do, nghĩa là một đồng tiền ở một quốc gia có thể thả nổi tự do giá trị khi so sánh với một đồng tiền ở quốc gia khác. Vì vậy, trong khi $1 trên danh nghĩa luôn bằng $1 khi ở bên trong biên giới Mỹ, nhưng $1 không phải luôn bằng 1 Euro ở châu Âu. Để bắt đầu suy nghĩ một cách thực sự vĩ mô, bạn phải một lần nữa hiểu rõ rằng phương diện quốc tế của giao dịch cũng không khác biệt hoàn toàn so với giao dịch nội địa. Nói cách khác, thu nhập của một người vẫn là chi tiêu của một người khác. Điều khác biệt của giao dịch quốc tế chính là nhu cầu chuyển đổi tiền tệ của doanh nghiệp nội địa. Điều đó đòi hỏi phải có công cụ chuyển đổi tiền tệ. Một quốc gia bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài được gọi là có hoạt động xuất khẩu, trong khi một quốc gia mua hàng hóa dịch vụ nước nước ngoài được gọi là có hoạt động nhập khẩu. Sự chênh lệch giữa lượng xuất khẩu và nhập khẩu sẽ quyết định rằng quốc gia đó có thặng dư hay thâm hụt thương mại. Có một điều bạn sẽ chú ý lần nữa là thặng dư thương mại 1 quốc gia chính là thâm hụt thương mại một quốc gia khác. Mọi thứ không tự sinh ra và cũng không tự mất đi. Khi phân tích dòng chảy của vốn, hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, chúng ta nhìn vào cán cân thương mại. Cán cân thanh toán được xác định kỹ hơn bằng ba tài khoản: tài khoản vãng lai, tài khoản tài chính và tài khoản vốn. Quan trọng nhất chính là tài khoản vãng lai, nó cho thấy dòng chảy của hàng hóa, dịch vụ và thu nhập giữa cư dân trong nước và người ngước ngoài. Khi xem xét tới dòng chảy của vốn giữa các nước, cần phải hiểu cách mà tỷ giá hối đoái giữa 2 nước biến động. Trên danh nghĩa, nền kinh tế của những nước khác nhau sẽ có mức độ năng động khác nhau, điều đó nghĩa là những gì một đồng tiền mua ở nước này không nhất thiết phải tương đương với những gì nó mua được ở một nước khác. Ví dụ, một ổ bánh mì có thể có giá $1 ở Mỹ, nhưng lại có giá 2 euro ở châu Âu, vì rất nhiều lý do khác nhau (thị trường lao động, nguồn nguyên liệu, làm phát, lãi suất, khả năng sản xuất,). Điều này có nghĩa là tỷ giá hối đoái là €2 = $1 vì thế hàng hóa ở Mỹ rẻ hơn ở châu Âu. Tỷ giá hối đoái này dao động giống như giá của các tài sản tài chính trên bất kỳ thị trường nào, dựa trên mức cung và cầu của mỗi loại tiền tệ. Nhìn chung, hàng hóa rẻ hơn ở Mỹ sẽ thúc đẩy xuất khẩu vì người châu Âu sẽ nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa rẻ từ Mỹ. Một mức tỷ giá hối đoái thấp có thể tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế trong nước vì nó thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là điều mong mỏi của những quốc gia không đủ khả năng cạnh tranh với những nước phát triển hơn mình, dẫn đến việc chính phủ của những quốc gia này thỉnh thoảng thực hiện chính sách thúc đẩy kinh tế trong nước bằng cách làm cho nó trở nên hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi những nhân tố căn bản nhất của ngoại thương là phải giao dịch với nước ngoài, không phải tất cả các quốc gia bên ngoài đều có một hệ thống tiền tệ thiết kế hoàn hảo hoặc có một nền kinh tế được phân hóa tương tự mình. Thực sự thì nền kinh tế của họ khá khác biệt và bị giới hạn bởi vô vàn cách khác nhau. Khi tôi sử dụng khái niệm “Nhà phát hành tiền tệ độc lập” trong tài liệu này, tôi đang đề cập đến mức độ mà ở đó một quốc gia có đủ khả năng để duy trì việc phát hành tiền tệ độc lập. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến mức độ mà một quốc gia có thể phát hành tiền độc lập hay không. Những nhân tố này bao gồm: tình trạng dự trữ tiền tệ, tỷ giá hối đoái thả nổi, nợ nước ngoài, và cấu trúc của hệ thống tiền tệ trong nước. Hình 7 dưới đây cung cấp một cái nhìn sơ lược về các mức độ mà một quốc gia có thể phát hành tiền độc lập hay không. (Hình 7: Mức độ độc lập trong phát hành tiền tệ) Đúng như lý tưởng là một quốc gia sẽ mong muốn một mức độ nào đó về tình trạng dự trữ tiền tệ, tỷ giá hối đoái thả nổi, không có nợ nước ngoài, ngân hàng trung và kho bạc được thiết kế đồng bộ. Như tôi đã thảo luận trước đây, Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) là một hệ thống tiền tệ thú vị, ở đó đồng tiền dự trữ không có nợ nước ngoài và tỷ giá hối đoái thả nổi, nhưng thiết kế tiền tệ không đầy đủ ở chỗ ngân hàng trung ương thực chất là một tổ chức nước ngoài và không có Kho bạc Trung ương. Điều này khiến cho các nước trong EMU trở thành người sử dụng đồng euro chứ không phải là người phát hành đồng euro. Vương quốc Anh và Thụy Sĩ, bằng cách không sử dụng đông euro, đã duy trì tình trạng của họ là tổ chức độc lập phát hành tiền tệ. Điều quan trọng cần lưu ý là không phải tất cả các nước đều có thể độc lập tiền tệ vì nhiều lý do khác nhau. Có thể là do không có nhu cầu cao đối với tiền tệ trên thị trường ngoại hối do yếu kém về năng suất, do không thể tiếp cận các nguồn lực, do không có một hệ thống tiền tệ phát triển hoặc có thể là do thích định giá đồng tiền của mình cao hơn một đối tác thương mại mạnh hơn để duy trì tính cạnh tranh. Mức độ đặc quyền liên quan đến một nền kinh tế đa dạng, tiếp cận thị trường ngoại hối, không nợ nước ngoài, hệ thống tiền tệ trong nước phát triển và khả năng tiếp cận các nguồn lực. Khi hệ thống kinh tế vĩ mô toàn cầu phát triển và trở nên ngày càng liên kết với nhau, nó sẽ càng trở nên quan trọng hơn để hiểu được các yếu tố của ngoại thương. Mối quan hệ giữa các nền kinh tế khác nhau sẽ đóng một vai trò rất lớn trong sự tăng trưởng và thịnh vượng của nền kinh tế toàn cầu trong những thập kỷ tới. Do đó, khi chúng ta xem xét hệ thống tiền tệ nói chung, chúng ta nên luôn nghĩ về nó không chỉ ở giới hạn trong nước mà còn mở rộng ra toàn cầu. Kết Luận Chủ nghĩa hiện thực tiền tệ là một cách tiếp cận mang tính vận hành đối với tài chính và kinh tế nhằm mô tả cách vận hành thực tiễn của một hệ thống tiền tệ hiện đại. Tôi hy vọng rằng sự hiểu biết nhiều hơn về hệ thống tiền tệ của chúng ta thông qua các hoạt động thực tiễn sẽ tạo ra một góc nhìn ít giáo điều hơn, thực dụng hơn và hợp lý hơn về hệ thống tiền tệ để giúp tất cả chúng ta đạt được sự thịnh vượng mà chúng ta mong muốn. Glossary Giá trị chấp nhận: biểu diễn sẵn lòng của công chúng khi chấp nhận một vật trở thành đơn vị tiền tệ và phương tiện trao đổi của quốc gia. Việc chấp nhận này đạt được chủ yếu qua tiến trình pháp lý và sự ủng hộ từ người dân. Nghĩa là, chính phủ và người dân chấp nhận một thứ gì đó (ví dụ như đô la mỹ) trở thành đơn vị tiền tệ được chấp nhận và phương tiện trao đổi. Giá trị chấp nhận chỉ là một khía cạnh của nhu cầu tiền tệ. Tiền tệ: Tiền tệ trong bài viết này chỉ một hình thức đặc biệt của “tiền bên ngoài” hay tiền được tạo ra bên ngoài khu vực tư nhân bởi chính phủ dưới hình thức là dự trữ ngân hàng, tiền mặt hoặc tiền xu. Nhà phát hành tiền tệ: Một quốc gia phát hành tiền tệ mà có sự thống nhất giữa chính trị và tiền tệ bằng cách nào đó cho phép quốc gia này luôn luôn kiếm được vốn. Điều này được đạt được bằng nhiều cách khác nhau tùy thuộc từng quốc gia, nhưng điểm chung là quốc gia đó không bị ràng buộc bởi các tác nhân bên ngoài (như nhu cầu ngoại tệ, nợ nước ngoài, v.v) mà đe doạ khả năng phát hành và huy động tiền theo ý muốn. Những quốc gia này đa phần có nền kinh tế đã phát triển. Không phải tất cả các quốc gia đều có khả năng duy trì hay giữ vững vị thế độc lập tiền tệ và vị thế đó cũng không thể giúp quốc gia đó có thể “miễn dịch” trước các khó khăn tài chính. Vốn chủ sở hữu thể hiện quyền lợi quyền sở hữu. Khi thảo luận vốn chủ sở hữu chúng thường đề cập tới chứng khoán. Tiền pháp định là một hình thức của tiền được chấp nhận rộng rãi, nó được quản lí bằng các luật và điều khoản của chính phủ và duy trì thông trên cơ sở khả năng sản xuất của khu vực tư. Tiền pháp định, bản thân nó không có giá trị gì, nhưng nó cho người sử dụng cách đơn giản và thuận tiện để trao đổi. Khi định lượng giá trị của tiền pháp định, điều tốt nhất là nghiên cứu tiêu chuẩn sống của xã hội một cách tổng quát hơn là cách chúng thường được sử dụng và rất dễ gây hiểu lầm: xem xét lạm phát qua thời gian. Một sự gia tăng lạm phát hoàn toàn phù hợp với sự gia tăng trong mức sống và sự tồn tại của tiền pháp định, một bằng chứng điển hình là USA vào thập niên 1900 Chính sách tài khóa là chính sách của chính phủ nhằm thay đổi qui mô của việc chi tiêu công và hệ thống thuế. FFR: viết tắt cho lãi suất liên bang, hay còn gọi là lãi suất qua đêm, đây là lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng. Siêu lạm phát: là mức lạm phát cao được gây ra bởi cú sốc bất thường từ bên ngoài vào nền kinh tế. Đối lập với ý kiến thông thường, siêu lạm phát không gây ra bởi việc in tiền, nhưng thông thường nó diễn ra sau khi có cú sốc từ bên ngoài vào nền kinh tế mà với kết quả là phải in tiền hoặc sự sụp đổ hệ thống thuế. Các nguyên nhân trong lịch sử gây ra siêu lạm phát là: mất quyền kiểm soát tiền tệ, chiến tranh, thay đổi chế độ, sự sụp đổ sản xuất hoặc tham nhũng. Lạm phát: là sự gia tăng đồng bộ trong mức giá chung của hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Mức lạm phát thấp thường đi kèm với tăng trưởng kinh tế tốt trong một hệ thống tiền tệ pháp định. Trung gian trao đổi: Là một công cụ trung gian được chấp nhận rộng rãi tạo điều kiện cho việc mua bán trao đổi hàng hoá/dịch vụ. MR: Viết tắt cho Monetary Realism. Chính sách tiền tệ: là chính sách được xây dựng bởi ngân hàng Trung ương của một quốc gia nhằm tác động nguồn cung tiền. Cụ thể, chính sách tiền tệ được thiết lập thông qua việc tương tác bằng nhiều cách khác nhau giữa hệ thống ngân hàng tư nhân nhằm tác động đến chi phí và việc sử dụng tiền bên trong Tiền: tiền là công cụ xã hội được dùng để chủ yếu trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Về cơ bản, bất kỳ thứ gì đều có thể được phục vụ như là “ tiền”, nhưng trong xã hội hiện đại tiền thông thường được tổ chức dưới các luật và quy định của chính phủ và có thể được coi như mức chấp nhận cao nhất của tiền khi nó được chấp nhận rộng rãi như là phương tiện thanh toán cuối cùng. Chủ nghĩa hiện thực tiền tệ : Là một hệ thống những kiến thức dùng để mô tả hoạt động thực tế của hệ thống tiền tệ thông qua sự hiểu biết về cấu trúc tổ chức cụ thể và mối quan hệ tồn tại trong hệ thống tiền tệ này. Mức độ chấp nhận của tiền: Dùng để nói đến mức độ mà tài sản tài chính hoặc tài sản phi tài chính đáp ứng được chức năng là phương tiện thanh toán cuối cùng của tiền. MR xem xét tiền trên một thang bậc đo lường khả năng đáp ứng chức năng là phương tiện thanh toán cuối cùng. Tiền bên ngoài: Là tiền được tạo ra bởi chính phủ. Tiền bên ngoài bao gồm giấy tờ có giá, tiền xu, dự trữ ngân hàng. Nó được gọi là tiền ngoại lai bởi nó được tạo ra bên ngoài khu vực tư nhân. Tiền bên ngoài tồn tại để hỗ trợ cho việc sử dụng tiền bên trong. Các đại lý sơ cấp: Là ngân hàng hoặc những người kinh doanh chứng khoán, mà tạo lập thị trường cho chứng khoán chính phủ US và giúp cục Dự trữ liên bang Mĩ ban hành chính sách. Mục đích riêng: Những hành động được thực hiện bởi cá nhân hoặc những tổ chức trong khu vực tư với những ý định tư lợi cho một cá nhân hoặc một nhóm nào đó. Khu vực tư: là một bộ phận của nền kinh tế hoạt động bởi công dân vì mục tiêu lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, không phải vì lợi ích cho quốc gia hoặc dân chúng nói chung. Mục tiêu công: Chính sách chính phủ hoặc hành động với mong muốn mang lợi ích cho đa số hoặc người dân nói chung. Khu vực công: Khu vực chính phủ hoặc một phần của nhà nước mà ban hành tiến hành các mục tiêu công thay mặt cho công dân. Giá trị định lượng: mô tả giá trị trung gian trao đổi dưới dạng sức mua, lạm phát, lãi suất trao đổi, giá trị sản xuất, vv. Đây là chức năng phương tiện cất trữ của tiền. Trong khi giá trị định tính thường ổn định và được đảm bảo bởi luật pháp, thì giá trị định lượng có thể khá bất thường và dẫn đến kết quả là sự sụp đổ tiền tệ trong viễn cảnh xấu nhất. Nới lỏng định lượng : Là một hình thức của chính sách tiền tệ, được thực hiện thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, trong đó ngân hàng trung ương cố gắng tác động đến chi phí và việc sử dụng của tiền trong bằng việc thay đổi dự trữ ngân hàng. Cụ thể, điều này đạt được bằng cách hoán đổi dự trữ với trái phiếu kho bạc (trong hầu hết các trường hợp). Điều đó không làm thay đổi tài sản tài chính ròng của khu vực tư và thường bị nhầm lẫm với việc “in tiền” hoặc “ sự tiền tệ hóa nợ công”. Nó thật sự chỉ là một cách thức không thường xuyên trong chính sách thông thường của Fed hoặc nghiệp vụ thị trường mở và tính hiệu quả của nó cần được xem xét lại. Dự trữ: Dự trữ ngân hàng là một hình thức của tiền bên ngoài được sử dụng dưới dạng phương tiện giải quyết thanh toán và đáp ứng mức dự trữ bắt buộc. Sự tồn tại của dự trữ (và hệ thống dự trữ liên bang) dùng để hợp lý hóa hệ thống ngân hàng vào một đơn vị liên kết trong khi duy trì hệ thống ngân hàng cạnh tranh tư nhân. S = I + (S - I): Đây là đẳng thức quan trọng được sử dụng bởi Chủ nghĩa hiện thực tiền tệ nhằm nhấn mạnh sự thật rằng nền kinh tế được dựa vào sự sản xuất tư nhân. Đẳng thức này nhấn mạnh vai trò của nền đầu tư tư nhân trong nền kinh tế và ý tưởng rằng tiêu chuẩn sống đạt tối đa khi quốc gia có năng suất cao và tạo ra sản phẩm cũng như dịch vụ mà nâng cao tiêu chuẩn sống. Phương pháp cân bằng khu vực: Được tạo ra bởi Wynne Godley để chỉ ra các dòng lưu chuyển trong nền kinh tế. Đây là một cách hữu ích trong việc hiểu rõ GDP được tạo ra bởi nhiều thành phần kinh tế. (I-S) + (G-T) +(X-M)= ΔNGDP Hinh thái xã hội (Social Construct): Hình thái xã hội là một thuật ngữ khác của “ tiền”. Xem ở trên. Đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn: Dùng để đo lường giá trị hàng hoá, dịch vụ hoặc tài sản tài chính. Ở nước Mĩ, đơn vị tiền tệ là USD. References: - Keynes, JM. (1914), The Royal Economic Journal, vol. XXIV - Desan, CA (2013), Creation Stories: Myths About the Origins of Money – Federal Reserve Cash Product Office, Cash Continues to Play a Key Role in Consumer Spending - Minsky, Hyman (1992), The Financial Instability Hypothesis – Werner, Richard, (2014), How do banks create money, and why can other firms not do the same? An explanation for the coexistence of lending and deposit-taking – Smith, Adam, The Wealth of Nations – Roche, C. (2011), Hyperinflation – It’s More Than Just a Monetary Phenomenon – Lavoie, Marc (2002), Kaleckian models of growth in a coherent stock-flow monetary framework: a Kaldorian view – Roche, C. (2014), Pragmatic Capitalism: What Every Investor Needs to Know About Money and Finance. – Carpenter, S. (2014), The Federal Reserve’s Balance Sheet and Earnings: A Primer and Projections – Federal Reserve, The Federal Reserve in the US Payments System – FRBNY – Administration of Relationships with Primary Dealers - Lavoie, Marc, “Changes in Central Bank Procedures during the Subprime Crisis and Their Repercussions on Monetary Theory”, Working Paper No. 606, Levy Economics Institute, Annandale-on-Hudson, NY, August 2010. – Roche, C. (2014), Understanding Quantitative Easing 15 – Roche, C. (2011), Buffett’s Silly Talk About the US Debt 16 – Kalecki, M. Theory of Economic Dynamics – Clinton, K. (1997), Implementation of Monetary Policy in a Regime with Zero Reserve Requirements – Carpenter & Demiralp (2010), Money, Reserves and the Transmission of Monetary Policy: Does the Money Multiplier Exist?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxhieu_ve_he_thong_tien_te_hien_dai_cullen_roche_9605.docx
Tài liệu liên quan