Phân hoá tốt hơn mức chế tài tuỳ theo tính
chất, hậu quả, hình thức lỗi. Theo chúng tôi, 1/
Các tội có tính chất kinh tế, xâm phạm trật tự
quản lý hành chính thì nên hạn chế hình phạt
tù có thời hạn, tăng cường phạt tiền là hình phạt
chính; 2/ Giảm hình phạt đối với các tội được
thực hiện do lỗi vô ý. Đối với loại tội này, dù
hậu quả có là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì mức hình phạt tối đa cũng
không nên quá 12 năm tù. Điều này phù hợp với
nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, quan
điểm về tính hướng thiện của hình phạt, phù hợp
với thực tiễn áp dụng hình phạt và chấp hành
hình phạt ở nước ta trong thời gian qua.
Tóm lại, hình phạt tù có thời hạn là hình
phạt cơ bản, quan trọng trong hệ thống hình
phạt và được áp dụng phổ biến nhất trong thực
tiễn xét xử nước ta. Việc nghiên cứu đổi mới
hình phạt tù có thời hạn có vai trò rất quan
trọng trong đổi mới pháp luật hình sự nói riêng,
cải cách tư pháp nói chung ở nước ta. Quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp cũng là quan điểm hoàn thiện pháp luật
hình sự, trong đó có hình phạt tù. Hoàn thiện
các quy định về hình phạt tù có thời hạn theo
hướng hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng
áp dụng các hình phạt không phải tù là hướng
cơ bản trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước
ta trong bối cảnh mới.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình phạt tù có thời hạn - Một số kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
65
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN -
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Nguyễn Thị Hảo1
Trong hệ thống hình phạt nước ta cũng như
nhiều nước khác trên thế giới, hình phạt tù có
thời hạn có vị trí, vai trò rất quan trọng, được
áp dụng phổ biến nhất trong thực tiễn xét xử
của Tòa án. Theo thống kê của Toà án nhân dân
tối cao, mặc dù trong hệ thống hình phạt nước
ta có 07 loại hình phạt chính, nhưng hàng năm
tỷ lệ người phạm tội bị kết án phạt tù có thời
hạn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thực tiễn xét xử.
Đa số các trường hợp mặc dù chế tài được quy
định là chế tài lựa chọn giữa phạt tù có thời hạn
với các hình phạt khác không phải tù, nhưng
Toà án các cấp vẫn có xu thế áp dụng hình phạt
tù có thời hạn đối với bị cáo. Toà án chỉ không
áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi không có
cơ sở pháp lý, tức là khi chế tài điều luật không
quy định; trong trường hợp chế tài lựa chọn
hình phạt tù có thời hạn thì hầu như hình phạt
tù có thời hạn được áp dụng, các hình phạt
khác không phải tù thì lại được xem như một
ngoại lệ. Trong các trường hợp phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng mà có chế tài lựa chọn giữa
tù có thời hạn đến 20 năm, tù chung thân hoặc
tử hình, thì đa số các Toà án lựa chọn hình phạt
tù có thời hạn để áp dụng đối với bị cáo. Thực
tiễn này xuất phát từ: (1) truyền thống lịch sử
pháp luật hình sự nước ta vốn coi phạt tù có
thời hạn là hình phạt quyết định trong hệ thống
hình phạt; (2) từ “thói quen” áp dụng hình phạt
tù có thời hạn của thẩm phán các cấp; (3) dư
luận xã hội về lợi ích, hiệu quả trừng trị cao
của việc áp dụng hình phạt tù; (4) nhận thức
chưa đúng đắn của người áp dụng pháp luật về
vai trò của các hình phạt được quy định, nhất
là quá coi trọng vai trò răn đe, phòng chống tội
phạm của hình phạt tù, trong khi đó lại xem
nhẹ vai trò của các hình phạt không phải tù,
cho rằng các hình phạt đó không đủ sức răn đe
người phạm tội.
Việc xây dựng Bộ luật hình sự (BLHS)
mới, trong đó có các quy định về hình phạt tù
có thời hạn theo hướng bảo vệ quyền con
người hơn, mang tính hướng thiện hơn là một
đòi hỏi cấp thiết để xây dựng một nền tư pháp
vững mạnh, tiến bộ và nhân văn trong thời đại
mới. Xuất phát từ thực tiễn trên, trong quá trình
hành nghề cũng như quá trình nghiên cứu các
quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời
hạn, tác giả xin nêu ra một vài luộn điểm để
bàn về quy định của pháp luật về hình phạt tù
1 Luật sư, Văn phòng luật sư Nhật Minh
Tóm tắt tiếng Việt: Hình phạt tù có thời hạn có vị trí, vai trò rất quan trọng, được áp dụng phổ
biến nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành cũng như
quá trình thưc̣ tiễn áp duṇg hình phaṭ tù có thời hạn trong những năm qua còn nhiều bât́ cập, vướng
măć. Việc nghiên cứu đổi mới hình phạt tù có thời hạn là mục tiêu cấp thiết trong đổi mới pháp luật
hình sự nói riêng, cải cách tư pháp nói chung ở nước ta trong bối cảnh mới hiện nay.
Từ khóa: hình phạt, hình phạt tù có thời hạn, Bộ luật hình sự, chế tài, kiến nghị, hoàn thiện
Nhận bài: 05/1/2017; Hoàn thành biên tập: 06/2/2017; Duyệt đăng: 05/3/2017
Tóm tắt tiếng Anh:
Abstract: Determine prison sentence has very important role and position being applied at
the court at the most popular scale. However, there are lots of shortcomings and difficulties in
regulations of the existing law as well as process of real application of determine prison sentence
over the past years. It is urgent to study for modification of determine prison sentence in criminal
modification in particular and legal reform in general in country in the new situation.
Keywords: punishment, determine prison sentence, criminal code, sanction, recommendation,
finalization.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
66
có thời hạn, những tồn tại, vướng mắc xung
quanh chế định này và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định về hình phạt tù có
thời hạn trong thời gian tới.
1. Quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về hình phạt tù có thời hạn
Theo quy định của BLHS, tù có thời hạn là
việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình
phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định.
Như vậy, về bản chất pháp lý tù có thời hạn là
biện pháp cưỡng chế tước quyền tự do của người
bị kết án trong thời hạn do Toà án quyết định
trong phạm vi và giới hạn pháp luật quy định.
BLHS quy định giới hạn tối thiểu và tối đa
của hình phạt tù có thời hạn: Thời hạn tối thiểu
của hình phạt tù là 03 tháng. Trong lịch sử pháp
luật hình sự nước ta, đã có thời kỳ thời hạn tối
thiểu của hình phạt tù được quy định ngắn hơn
(01tháng, 10 ngày, thậm chí 07 ngày). Sở dĩ
như vậy là vì người ta cho rằng phạt tù là hình
phạt nghiêm khắc, nên tước tự do thân thể của
một người ở các mức độ đó là đủ để người
phạm tội “trả giá” cho hành vi của mình. Thời
hạn tối đa của hình phạt tù được quy định khác
nhau. Điều 33 BLHS quy định tù có thời hạn
đối với người phạm một tội có mức hình phạt
cao nhất là 20 năm tù. Nhưng theo quy định
của Điều 50, Điều 51, Điều 58 BLHS thì trong
các trường hợp nếu người phạm nhiều tội hoặc
phải chịu hình phạt của nhiều bản án, thì hình
phạt tù có thời hạn tối đa là 30 năm tù. Người
bị kết án tù chung thân nếu được xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt lần đầu thì xuống 30
năm tù. BLHS quy định mức hình phạt tối đa
trong trường hợp này là nhằm bảo đảm sự bình
đẳng cho mọi công dân trước pháp luật, thực
hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự trong
trường hợp phạm một tội và trườg hợp phạm
nhiều tội hoặc có nhiều bản án.
Như vậy, BLHS chỉ quy định nội dung, thời
hạn tối thiểu và thời hạn tối đa của hình phạt tù
có thời hạn. BLHS không quy định đối tượng
được áp dụng, loại tội được áp dụng, điều kiện
áp dụng như đối với một số loại hình phạt
khác. Đặc biệt, Điều 33 BLHS không quy định
điều kiện chung của việc áp dụng hình phạt tù
có thời hạn, cho nên người làm luật đã rất lúng
túng trong việc quy định chế tài các quy phạm
phần tội phạm có hình phạt tù có thời hạn. Có
thể thấy một cách rõ rằng hầu như 100% khung
hình phạt được quy định trong phần các tội
phạm, không phân biệt đó là tội thuộc loại ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng; đó là tội cố ý hay
vô ý đều có chế tài là hình phạt tù có thời
hạn. Điều đó dẫn đến khó khăn khi phân hoá
trách nhiệm hình sự trong quy định các chế tài,
trong cá thể hoá hình phạt của Toà án đối với
người phạm tội.
Trên cơ sở quy định chung, BLHS hiện hành
quy định các chế tài cụ thể áp dụng hình phạt tù
có thời hạn. Có thể thấy, đại đa số chế tài các tội
phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đều
có quy định hình phạt tù có thời hạn. Trong
BLHS chỉ có chế tài thuộc khung cơ bản các tội
sau đây là không có hình phạt tù: Tội xâm phạm
bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín
của người khác (khoản 1 Điều 125 BLHS); tội
xâm phạm quyền tác giả (khoản 1 Điều 131
BLHS); tội kinh doanh trái phép (Điều159
BLHS); tội trốn thuế (khoản 1 Điều 161 BLHS);
tội cho vay lãi nặng (khoản 1 Điều 163 BLHS);
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (khoản
1 Điều 171 BLHS)
Nhìn chung, mức hình phạt tù có thời hạn
được quy định trong chế tài các điều luật là hợp
lý, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà
nước ta. Tuy nhiên, cũng có một số điểm hạn
chế cần được nghiên cứu khắc phục. Đó là:
+ Hình phạt tù có thời hạn được quy định
còn quá nhiều, trong khi lại không coi trọng vai
trò các hình phạt khác không phải là hình phạt
tù như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ Việc quy định hình phạt tù trong đại đa
số các chế tài phần các tội phạm là quá nghiêm
khắc không cần thiết, chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu “không áp dụng hình phạt tù tràn
lan”, chưa thể hiện triệt để “tính hướng thiện”
trong chính sách hình sự nước ta đã được thể
hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020;
+ Phạm vi quy định hình phạt tù có thời
hạn vẫn quá rộng. Có những tội, hầu như các
mức độ hình phạt đều được quy định trong chế
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
67
tài (Điều 134 về Tội cố ý gây thương tích; Điều
174 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 188
BLHS về tội buôn lậu..); có nhiều khung hình
phạt khoảng cách mức hình phạt tối thiểu và
tối đa được quy định còn khá rộng từ 08 đến 10
năm tù (Điều 110 về Tội gián điệp; Điều 111
về Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 112 về
Tội bạo loạn) làm ảnh hưởng tính thống nhất
trong áp dụng pháp luật;
+ Ở nhiều điều luật, sự phân hoá chế tài
chưa thật tốt từ góc độ các yếu tố chủ quan của
tội phạm. Theo tôi, đối với các tội phạm được
thực hiện do lỗi vô ý thì chế tài quy định là quá
nghiêm khắc.
Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử chúng tôi
thấy rằng đối với các tội phạm do vô ý, hình
phạt được quyết định trong đa số các trường
hợp lại nhẹ hơn quy định của luật rất nhiều. Ví
dụ: Điều 202 BLHS quy định tội vi phạm các
quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ có 04 khung hình phạt so với thực
tiễn xét xử thấy rằng:
- Chế tài khoản 1 Điều 202 BLHS quy định
phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng,
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến 05 năm. Trên thực tế các
hình phạt phạt tiền, cải tạo không giam giữ hầu
như không được áp dụng; mức phạt tù thường
không quá 03 năm, trong đó có khoảng 60%
được cho hưởng án treo. Rất ít thấy trường hợp
Toà án quyết định hình phạt trên ba năm tù;
- Chế tài khoản 2 Điều 202 BLHS quy định
phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Trên thực tế thì
mức phạt tù thường không quá 05 năm; nhiều
trường hợp được áp dụng Điều 47 BLHS để
quyết định hình phạt dưới 03 năm tù;
- Chế tài khoản 3 Điều 202 BLHS quy định
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Trên thực tế thì
mức phạt tù thường không quá 10 năm, đa số các
bị cáo bị xử phạt ở mức phạt tù từ 07 đến 10 năm;
rất nhiều trường hợp được áp dụng Điều 47
BLHS để quyết định hình phạt dưới 7 năm tù;
- Chế tài khoản 4 Điều 202 BLHS quy định
phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm trong trường
hợp vi phạm các quy định về an toàn giao
thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn
đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không
được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, trên thực
tiễn, việc áp dụng quy định này là rất hạn hữu.
Như vậy, có thể nói giữa thực tiễn áp dụng
hình phạt và quy định của BLHS về hình phạt
nói chung, hình phạt tù nói riêng đang có một
độ “lệch” nhất định. Theo chúng tôi, thực tế,
các chế tài được quy định quá nghiêm khắc đối
với tội phạm có hình thức lỗi vô ý.
Ngoài ra, đối với chế tài một số nhóm tội
phạm khác như nhóm tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế, một số tội xâm phạm trật tự, an toàn
xã hội cũng xảy ra tình trạng trên. Chế tài quy
định quá nghiêm khắc dẫn đến có sự chênh lệch
giữa quy định của BLHS và thực tiễn quyết định
hình phạt. Điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả của
hệ thống hình phạt và hoạt động xét xử trong
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nói tóm lại, qua nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định của BLHS về hình phạt tù
có thời hạn, chúng tôi thấy rằng BLHS hiện
hành quy định hình phạt này chiếm tỷ lệ quá
cao trong hệ thống hình phạt. Đồng thời, do bất
cập trong việc quy định khung hình phạt (quá
rộng), mức tối đa quy định quá cao cho nên
mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng có sự
thiếu thống nhất giữa quy định của BLHS và
hình phạt được quyết định trong bản án.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định
của BLHS về hình phạt tù có thời hạn
Đê ̉thể hiện được đầy đủ chính sách hình sự
nhân đạo của nhà nước ta với quan điểm giảm
hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không
phải tù, tăng cường tính hướng thiện của hình
phạt; đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc phân hoá
trách nhiệm hình sự theo chúng tôi, việc hoàn
thiện các quy định của BLHS về hình phạt tù
nói chung, hình phạt tù có thời hạn nói riêng
phải xuất phát từ các quan điểm lớn sau đây:
Một là, thể hiện được phạt tù có thời hạn là
hình phạt chính chủ yếu có vai trò quan trọng
nhất trong hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa rằng phải coi phạt tù là hình
phạt bao trùm, thay thế các hình phạt khác. Cần
xem xét lại quan niệm sai lầm hiện nay của một
số người khi cho rằng chỉ có xử phạt thật
nghiêm khắc người phạm tội thì mới có tắc
dụng răn đe tội phạm, mới có hiệu quả trong
đấu tranh phòng chống tội phạm. Những người
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
68
theo quan niệm này quên rằng mục đích cao
nhất của hình phạt là giáo dục, phòng ngừa chứ
không phải là trừng trị.
Hai là, hoàn thiện các quy định về hình phạt
tù phải thể hiện được quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền,
trong đổi mới tư pháp hiện nay ở nước ta. Các
quan điểm này thể hiện cụ thể trong Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số công việc trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020. Những quan điểm đó là:
(1) Nâng cao tính hướng thiện của việc áp dụng
biện pháp trách nhiệm hình sự; (2) Coi trọng
phòng ngừa hơn chống tội phạm; (3) Giảm hình
phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, tăng cường
các hình phạt không phải tù như phạt tiền, cải
tạo không giam giữ v.v
Ba là, hoàn thiện các quy định về hình phạt
tù phải thể hiện được các nguyên tắc cơ bản
của luật hình sự, mà trước tiên là nguyên tắc
nhân đạo, nguyên tắc phân hoá trách nhiệm
hình sự, cá thể hoá hình phạt. Vì vậy, quy định
về hình phạt nói chung, hình phạt tù có thời
hạn nói riêng phải thể hiện được đầy đủ các
nguyên tắc đó của luật hình sự;
Bốn là, hoàn thiện các quy định về hình
phạt tù phải xuất phát từ yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm trong bối cảnh kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế. Đưa pháp luật
Việt Nam đền gần hơn với pháp luật quốc tế
trong các lĩnh vực, trong đó có pháp luật hình
sự là yêu cầu cấp thiết hiện nay ở nước ta.
Từ những quan điểm định hướng nêu trên,
chúng tôi có một số kiến nghị hoàn thiện các
quy định của BLHS về hình phạt tù có thời
hạn như sau:
Một là, hoàn thiện quy định về phạt tù có
thời hạn:
- Tăng mức phạt tù tối thiểu từ 03 tháng lên
06 tháng. Bởi vì: 1/ Với thời hạn dưới 06 tháng
cách ly khỏi xã hội rất khó có thể tổ chức cải
tạo, giáo dục hiệu quả đối với người phạm tội;
trong khi đó hậu quả pháp lý của hình phạt tù
lại rất nặng nề đối với người bị kết án và hạn
chế khả năng tái hoà nhập cộng đồng đối với
họ; 2/ Thực tế, những trường hợp Toà án tuyên
phạt tù thời hạn dưới 06 tháng thường là những
trường hợp thông án, tức là xử phạt tù với thời
hạn bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam và trả tự
do cho bị cáo ngay tại phiên toà. Có thể nói,
đây là biện pháp “chữa cháy” trong trường hợp
người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ đáng lẽ họ có thể được áp dụng
hình phạt không phải tù hoặc cho hưởng án
treo; 3/ Việc nâng mức tối thiểu của hình phạt
tù tạo điều kiện cho người làm luật quy định
chế tài các tội ít nghiêm trọng chỉ bao gồm các
hình phạt không phải tù theo quan điểm mềm
hoá hệ thống hình phạt nước ta v.v
- Bổ sung điều kiện áp dụng hình phạt tù
có thời hạn để đảm bảo sự thống nhất trong các
quy định về hệ thống hình phạt trong BLHS.
Đồng thời tạo cơ sở chung cho việc quy định
và áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo quan
điểm giảm hình phạt tù trong BLHS nước ta.
Hai là, sửa đổi quy định về quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS:
Cần mở rộng phạm vi áp dụng Điều 47
BLHS theo hướng nới lỏng điều kiện áp dụng.
Không nên quy định phải có nhiều tình tiết giảm
nhẹ tại khoản 1 Điều 46 BLHS mới được áp
dụng Điều 47 BLHS. Bởi vì, các tình tiết giảm
nhẹ chỉ là một trong 4 căn cứ quyết định hình
phạt, trong đó các căn cứ như tính chất và mức
độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người
phạm tội cũng rất quan trọng cần được cân nhắc,
đánh giá trong khi quyết định hình phạt nói
chung, nhất là quyết định hình phạt nhẹ hơn;
Ba là, hoàn thiện chế tài các điều luật phần
các tội phạm:
Việc hoàn thiện chế tài các điều luật phần
các tội phạm cần được thực hiện theo các
hướng cơ bản sau đây:
- Tăng số lượng các chế tài các tội ít nghiêm
trọng không có phạt tù. Chế tài các khung hình
phạt có quy định hình phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm trong BLHS hiện hành, tuỳ theo tính chất
có thể được thay thế bằng chế tài lựa chọn có
hình phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không
giam giữ mà không có hình phạt tù. Có như vậy,
mới tạo ra cơ sở pháp lý để hạn chế hình phạt tù,
tăng cường các hình phạt không phải tù;
- Thu hẹp khoảng cách tuỳ nghi giữa mức
tối thiểu và mức tối đa của phạt tù có thời hạn;
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
69
Theo chúng tôi, khoảng cách giữa mức hình
phạt tối thiểu và tối đa của khung hình phạt
được xác định tùy theo loại tội: đối với loại tội
đặc biệt nghiêm trọng khoảng cách này tối đa
là 08 năm; đối với loại tội rất nghiêm trọng
khoảng cách này tối đa là 06 năm; đối với loại
tội nghiêm trọng khoảng cách này tối đa là 04
năm và đối với loại tội ít nghiêm trọng khoảng
cách này tối đa là 03 năm.
- Phân hoá tốt hơn mức chế tài tuỳ theo tính
chất, hậu quả, hình thức lỗi. Theo chúng tôi, 1/
Các tội có tính chất kinh tế, xâm phạm trật tự
quản lý hành chính thì nên hạn chế hình phạt
tù có thời hạn, tăng cường phạt tiền là hình phạt
chính; 2/ Giảm hình phạt đối với các tội được
thực hiện do lỗi vô ý. Đối với loại tội này, dù
hậu quả có là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì mức hình phạt tối đa cũng
không nên quá 12 năm tù. Điều này phù hợp với
nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, quan
điểm về tính hướng thiện của hình phạt, phù hợp
với thực tiễn áp dụng hình phạt và chấp hành
hình phạt ở nước ta trong thời gian qua.
Tóm lại, hình phạt tù có thời hạn là hình
phạt cơ bản, quan trọng trong hệ thống hình
phạt và được áp dụng phổ biến nhất trong thực
tiễn xét xử nước ta. Việc nghiên cứu đổi mới
hình phạt tù có thời hạn có vai trò rất quan
trọng trong đổi mới pháp luật hình sự nói riêng,
cải cách tư pháp nói chung ở nước ta. Quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp cũng là quan điểm hoàn thiện pháp luật
hình sự, trong đó có hình phạt tù. Hoàn thiện
các quy định về hình phạt tù có thời hạn theo
hướng hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng
áp dụng các hình phạt không phải tù là hướng
cơ bản trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước
ta trong bối cảnh mới./.
Một số khuyến nghị
Một là, do mặt bằng chung về trình độ,
nghiệp vụ giữa chủ thể thực hiện công chứng,
chứng thực nên khi nhà nước thừa nhận UBND
cấp xã được chứng thực thì cơ quan quản lí
chuyên ngành cần thường xuyên tổ chức tập
huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trực tiếp
thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch liên
quan đến tài sản để qua đó đảm bảo việc chứng
thực hợp đồng, giao dịch đơn giản hoặc phức
tạp đúng quy định của pháp luật.
Hai là, cơ quan có thẩm quyền thường
xuyên thanh tra, kiểm tra việc công chứng,
chứng thực đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên
truyền cho cá nhân, tổ chức nhằm phân biệt rõ
được công chứng, chứng thực khi thực hiện các
giao dịch liên quan đến quyền của người sử đất,
qua đó lựa chọn TCHNCC hoặc UBND cấp xã
phù hợp với tính chất hợp đồng, giao dịch.
Ba là, Bộ Tư pháp nên giải thích rõ Công
văn 4233/BTP-BTTP vì có nhiều điểm chưa
phù hợp với thực tiễn, thậm chí đi ngược lại
với chủ trương xã hội hóa lĩnh vực công chứng,
đồng thời làm giảm khả năng sử dụng cán bộ,
công chức cấp xã trong việc hỗ trợ hoạt động
tư pháp theo đúng tinh thần Thông báo số
347/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ cũng
như các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Bốn là, nhà làm luật nghiên cứu và xem xét
theo hướng quy định TCHNCC là chủ thể duy
nhất được quyền công chứng, chứng thực
nhằm nâng cao hơn nữa an toàn pháp lý cho
cho các hợp đồng, giao dịch, đồng thời loại bỏ
sự chồng chéo, mâu thuẫn trong hoạt động
công chứng, chứng thực và trả lại chức năng
chính cho UBND là hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
Năm là, nhà làm luật cần có hướng dẫn chi
tiết hơn để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền liên
quan đến công chứng, chứng thực nói chung
giảm bớt khó khăn trong quá trình hoạt động
chuyên môn.
Sáu là, nhà làm luật nên có góc nhìn khách
quan, tổng thể và đồng bộ trong việc soạn thảo,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn
bản dưới luật, như vậy mới có thể đảm bảo tính
khả thi, tính hệ thống tránh trường hợp luật vừa
ban hành chưa có hiệu lực nhưng đã phải sửa
đổi, bổ sung dẫn đến tuổi thọ văn bản luật thấp
gây bức xúc, tốn kém chi phí của xã hội./.
THẨM QUYỀN CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT...
(Tiếp theo trang 64)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hinh_phat_tu_co_thoi_han_mot_so_kien_nghi_hoan_thien.pdf