Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý
về Luật sư và hành nghề Luật sư để thể chế hoá
đầy đủ và kịp thời những nội dung có liên quan
của Chiến lược cải cách tư pháp, Chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như những chủ
trương, chính sách, định hướng quan trọng của
Đảng về cải cách hành chính, phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại
hội lần thứ XII.
Thứ hai, khẩn trương tổng kết thực tiễn,
rà soát những hạn chế, bất cập của Luật Luật
sư đặc biệt liên quan đến vấn đề đào tạo
nghề, hình thức hành nghề, hình thức tổ chức
hành nghề của Luật sư Việt Nam, hành nghề
của tổ chức Luật sư nước ngoài, Luật sư nước
ngoài tại Việt Nam để đề xuất với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Luật sư theo định
hướng cụ thể như sau:
- Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền, đặc biệt là
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Chỉ
thị 33-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của Luật sư nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng, nâng cao vị thế, vai trò, tính chuyên
nghiệp và tăng cường trách nhiệm xã hội của
Luật sư.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
hành nghề của Luật sư, bảo đảm để Luật sư
thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình,
góp phần bảo vệ công lý theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013.
- Tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc
kiện toàn, cơ cấu lại các tổ chức hành nghề
luật sư Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và thông lệ
quốc tế về nghề Luật sư cũng như tính đặc
thù, đồng bộ với các loại hình doanh nghiệp
theo quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014.
- Sửa đổi các quy định của Luật Luật sư,
tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng phù hợp
với thông lệ chung của các nước trong khu
vực và trên thế giới về hình thức hành nghề
của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại
Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình thức tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam thực trạng và một số đề xuất, kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
29
1. Những quy định của Luật Luật sư
năm 2012 về hình thức tổ chức hành nghề
luật sư Việt Nam và tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại
Việt Nam
Thứ nhất: Theo quy định tại Điều 32 của
Luật Luật sư năm 2012 thì tổ chức hành nghề
luật sư bao gồm: (i) Văn phòng Luật sư do
một Luật sư thành lập được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Luật sư thành lập văn phòng Luật sư là
Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa
vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là
người đại diện theo pháp luật của văn phòng;
(ii) Công ty luật bao gồm công ty luật hợp
danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
Thành viên của công ty luật phải là Luật sư.
Công ty luật hợp danh do ít nhất hai Luật sư
thành lập. Công ty luật hợp danh không có
thành viên góp vốn. Công ty luật trách nhiệm
hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên do ít nhất hai
Luật sư thành lập và công ty luật trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do một Luật sư thành
lập và làm chủ sở hữu.
Các thành viên công ty luật hợp danh, công
ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên thoả thuận cử một thành viên làm Giám đốc
công ty. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật
trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám
đốc công ty.
Thứ hai: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Luật sư năm 2012 đã đưa ra quy định
HÌNH THỨC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở
VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Nguyễn Văn Bốn1
1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh, Cục trưởng Cục Bồi thường Nhà nước, Bộ Tư pháp
Tóm tắt: Ngày 22 tháng 6 năm 2006, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật
Luật sư. Tiếp theo, ngày 29 tháng 6 năm 2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư (sau đây gọi chung là Luật luật sư năm 2012). Đây là một
bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế về luật sư ở nước ta. Bài viết đề cập
các hình thức tổ chức hành nghề luật sư, những điểm còn tồn tại và phương hướng hoàn thiện
về cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho việc kiện toàn cơ cấu lại các tổ chức hành nghề luật sư ở nước
ta phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Từ khóa: Luật Luật sư, Tổ chức hành nghề luật sư, Văn phòng Luật sư
Nhận bài: 25/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016
Forms of law practicing organizations in Viet Nam: situation and some
recommendations
Abstract: The Law on Lawyers is passed on June 22, 2006, at the 9th session of the 11th
National Assembly. Then, the Law amending and supplementing some articles of the Law on
Lawyers (hereinafter referred to as the Law on Lawyers, 2012) was adopted on June 29, 2012
by the 13th National Assembly. This is an important step toward perfecting regulations on the
lawyers in our country. The paper addresses the organizational forms of the law practice,
backwards and recommendations for the legal basis of improving of the organizational
restructuring of the law practices in our country in line with socio-economic conditions of
Vietnam and international practices.
Keywords: Law Lawyers, Law Practice Organization, Office of Attorney
Received: Oct 25th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication:
Dec 20 th, 2016.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
30
chặt chẽ về điều kiện thành lập tổ chức hành
nghề luật sư, theo đó, (i) Luật sư thành lập hoặc
tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư
phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm
việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành
nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá
nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ
chức theo quy định của luật này và (ii) tổ chức
hành nghề luật sư phải có trụ sở làm việc để
bảo đảm điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất để
thành lập tổ chức hành nghề.
Đối với Luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân Điều 49, 50 Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Luật sư năm 2012 đã thu hẹp
phạm vi hành nghề của “Luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân”, theo đó, Luật sư hành nghề
với tư cách cá nhân chỉ được làm việc theo hợp
đồng lao động cho cơ quan, tổ chức.
Thứ ba: Các tổ chức hành nghề luật sư theo
quy định tại Điều 32 của Luật Luật sư năm
2012 có quyền lập chi nhánh. chi nhánh của tổ
chức hành nghề luật sư là đơn vị phụ thuộc của
Văn phòng Luật sư, Công ty luật, hoạt động
theo sự ủy quyền của Văn phòng Luật sư, Công
ty luật phù hợp với lĩnh vực hành nghề ghi
trong giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng,
Công ty. Văn phòng Luật sư, Công ty luật phải
chịu trách nhiệm về hoạt động của Chi nhánh
do mình thành lập.
Thứ tư: Luật Luật sư quy định điều kiện
hành nghề của tổ chức Luật sư nước ngoài,
Luật sư nước ngoài và các hình thức hành nghề
tại Việt Nam.
Luật sư thành lập Văn phòng Luật sư, Công
ty luật, tổ chức Luật sư nước ngoài thành lập
Chi nhánh hoặc Công ty luật phải tiến hành
đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
2. Những kết quả đạt được về tổ chức
hành nghề luật sư, hoạt động hành nghề
Luật sư
Một là: Vấn đề tổ chức hành nghề luật sư
Tính đến 31/12/2015 trong cả nước đã có
3626 tổ chức hành nghề luật sư (trong đó có
1239 công ty luật, chiếm 34,1%). Các tổ chức
hành nghề luật sư được phân bố tập trung tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố
Hà Nội có 966 tổ chức hành nghề luật sư (trong
đó có 483 công ty luật), Thành phố Hồ Chí
Minh có 1424 tổ chức hành nghề luật sư (trong
đó có 566 công ty luật). Tuy nhiên, trong tổng
số tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư hiện
nay thì chỉ có khoảng 28 tổ chức hành nghề
luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh
doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
Về trụ sở của các tổ chức hành nghề luật sư
chủ yếu được đặt ở nhà riêng của Luật sư hoặc
đặt ở nhà riêng của dân, số các tổ chức hành
nghề luật sư có trụ sở tại các chung cư và các
tòa nhà văn phòng (chiếm khoảng 30%); thiết
kế văn phòng thì chủ yếu là theo mô hình văn
phòng của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam,
chỉ khoảng 10% các tổ chức hành nghề luật sư
được thiết kế theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc theo
mô hình của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài.
Hai là: Vấn đề kết quả hoạt động năm 2015
và nửa đầu năm 2016
Số lượng vụ việc mà một Luật sư tham gia
giải quyết trong một năm cũng như trong quá
trình hành nghề được coi là một trong những
tiêu chí đánh giá năng lực, uy tín của Luật sư
đó. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì tổng
số vụ việc mà Luật sư giải quyết trong năm
2015 và nửa đầu năm 2016 là gần 205.000 vụ
việc, trong đó tham gia tố tụng chiếm trên
22.000 việc và số việc tư vấn pháp luật là trên
124.000 việc. Phần lớn các việc tư vấn của
Luật sư vẫn tập trung vào các lĩnh vực hành
nghề truyền thống là dân sự, hình sự. Việc thu
hút Luật sư tham gia tư vấn, giải quyết các vụ
việc của Chính phủ, các cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước còn rất hạn chế.
Theo báo cáo của các tổ chức hành nghề
luật sư, thì trong những năm gần đây số lượng
khách hàng của các tổ chức này đã tăng lên với
tốc độ rất nhanh. Không những tăng lên về số
lượng, đối tượng khách hàng của các tổ chức
hành nghề luật sư cũng ngày càng phong phú,
đó không chỉ là cá nhân mà còn cả các cơ quan,
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
31
tổ chức trong nước và nước ngoài. Việc có
nhiều đối tượng khác nhau nhờ đến sự hỗ trợ
về mặt pháp lý của các tổ chức hành nghề luật
sư chứng tỏ khách hàng đã ngày càng tin tưởng
vào uy tín, khả năng của các tổ chức này.
Như vậy, mặc dù đối tượng khách hàng
của các tổ chức hành nghề luật sư đã được mở
rộng một cách đáng kể, song nếu nhìn một
cách tổng thể thì các tổ chức hành nghề ở nước
ta vẫn chủ yếu tập trung vào các khách hàng
truyền thống là các cá nhân trong nước, tiếp
đến mới là các cơ quan, tổ chức và các doanh
nghiệp trong nước. Chỉ một số ít tổ chức hành
nghề ở những thành phố lớn như Thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội có khách hàng
nước ngoài. Các tổ chức này lại chủ yếu do các
Luật sư trẻ, được đào tạo ở nước ngoài hoặc
theo chương trình đào tạo của nước ngoài
thành lập.
Một số tổ chức hành nghề luật sư có xu
hướng phát triển chuyên sâu trong các giao
dịch đầu tư, mua bán tái cấu trúc doanh nghiệp,
thị trường vốn, thị trường bất động sản, sở hữu
trí tuệ, hàng hải, logistics, tham gia tranh tụng
và trọng tài thương mại có yếu tố nước ngoài
và có xu hướng “quốc tế hóa”, thể hiện qua
việc liên kết, hợp tác với tổ chức Luật sư ở
nước ngoài, phát triển thị trường ra nước ngoài;
tuyển dụng Luật sư nước ngoài làm việc; quan
tâm đào tạo Luật sư thông qua việc thuyên
chuyển Luật sư tới các văn phòng Luật sư tại
các nước Châu Á, Châu Mỹ.
Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu
phát huy được thế mạnh, xây dựng được
thương hiệu của mình, cũng như tạo được tín
nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu
vực và quốc tế, trở thành “đối tác” cạnh tranh
với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.2
Các tổ chức hành nghề luật sư này cũng là nơi
tập hợp đông đảo đội ngũ Luật sư giỏi, thông
thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, tập quán
thương mại quốc tế, có khả năng giúp Chính
phủ, các doanh nghiệp, tổ chức trong những vụ
việc phức tạp liên quan hội nhập kinh tế quốc
tế, góp phần vào việc đào tạo, phát triển đội
ngũ Luật sư Việt Nam trong lĩnh vực thương
mại quốc tế.
3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân
3.1 Một số tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, Mặc dù số lượng các tổ chức
hành nghề luật sư nhiều nhưng chủ yếu tập
trung tại thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh
(2.390 tổ chức hành nghề), chiếm tới 65,91%
các tổ chức hành nghề luật sư trên cả nước,
trong khi đó cả khu vực miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên số tổ chức hành nghề luật sư rất ít
(khoảng 3% so với toàn quốc).
Thứ hai, hoạt động hành nghề của Luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư chưa mang tính
chuyên nghiệp, số Luật sư hành nghề kiêm
nhiệm các công việc khác vẫn còn khá cao,
chiếm trên 20%. Đa số các tổ chức hành nghề
luật sư Việt Nam là các văn phòng Luật sư với
quy mô nhỏ (chiếm hơn 65%), cơ sở vật chất
thiếu thốn, nghèo nàn, trụ sở thường đặt tại nhà
riêng của cá nhân Luật sư, công tác quản trị,
điều hành còn lỏng lẻo, thiếu tính chuyên
nghiệp. Số tổ chức hành nghề luật sư chuyên
sâu trong các lĩnh vực pháp luật, nhất là trong
lĩnh vực pháp luật kinh doanh, thương mại, tài
chính, ngân hàng v.v. còn rất ít.
Thứ ba, hoạt động hành nghề Luật sư hiện
nay chủ yếu vẫn là tham gia tố tụng. Ở các
địa phương có nền kinh tế - xã hội kém phát
triển, hoạt động hành nghề Luật sư chủ yếu là
tham gia các vụ án theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng, số lượng vụ việc do khách
hàng yêu cầu rất ít. Hoạt động tham gia tố
tụng của một số Luật sư chưa bảo đảm thực
2 Công ty luật TNHH Vilaf, Công ty luật TNHH YKVN, Văn phòng Luật sư Phạm và Liên danh, Công ty luật
Leadco... đã được một số tạp chí có uy tín của nước ngoài (Tạp chí IFLR tại Châu Á, Tạp chí Legal 500, Tạp chí
Asian Mena Counsel) vinh danh.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
32
hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà,
chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng đánh
giá và ghi nhận trong việc đưa ra các quyết
định, bản án.
Thứ tư, việc sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
vẫn còn thấp so với yêu cầu thực tế, hiện nay
mới chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ pháp lý của Luật sư, trong số đó
có chưa đến 19,5% doanh nghiệp ký hợp đồng
sử dụng dịch vụ thường xuyên, còn lại là hợp
đồng theo vụ việc. Vì vậy, lĩnh vực tư vấn pháp
luật chưa được chú trọng phát triển theo hướng
chuyên môn hoá. Hoạt động tư vấn pháp luật
và dịch vụ pháp lý khác của Luật sư chưa trở
thành một công cụ thật sự cho cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp trong việc tạo lập môi trường đầu
tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo
đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị
trường dịch vụ, giải quyết việc làm. Sự tham
gia của các Luật sư trong các dự án đầu tư, các
giao dịch kinh doanh, thương mại còn ít và
khiêm tốn, đặc biệt hạn chế trong việc giải
quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Thứ năm, phương pháp quản lý điều hành
của các tổ chức hành nghề luật sư rất đa dạng
và phong phú, không có sự thống nhất. Phần
lớn các tổ chức hành nghề luật sư này áp dụng
phương pháp truyền thống là phân công công
việc trực tiếp đến từng Luật sư. Số lượng các
tổ chức hành nghề áp dụng phương pháp điều
hành, quản lý theo nhóm, có giao ban công
việc hàng tuần, hàng tháng chỉ chiếm số
lượng rất nhỏ, thậm chí một số tổ chức hành
nghề luật sư quản lý công việc một cách tuỳ
tiện, lỏng lẻo, người đứng đầu tổ chức hành
nghề không nắm rõ được toàn bộ các công
việc của tổ chức mình.
Số lượng tổ chức hành nghề luật sư áp dụng
phương pháp quản trị, điều hành theo thông lệ
quốc tế còn quá ít do quy mô của tổ chức mình
rất nhỏ (ví dụ: Tại Thành phố Hồ Chí Minh,
hầu hết các tổ chức hành nghề luật sư chuyên
sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế có trung
bình 04 Luật sư/tổ chức; số tổ chức hành nghề
luật sư có từ 10 Luật sư trở lên (04 tổ chức).
3.2 Nguyên nhân của những tồn tại
hạn chế
Về nguyên nhân chủ quan: (1) Hiện nay,
đội ngũ Luật sư tuy đã được đào tạo về kỹ năng
hành nghề nhưng ít có cơ hội cọ xát, thực hành
nghề nghiệp nên yếu về kỹ năng hành nghề
trong thực tế, đặc biệt là kỹ năng tư vấn pháp
luật trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại,
ngân hàng, tài chính, đầu tư. Tính chuyên
nghiệp trong hoạt động hành nghề, quản trị,
điều hành còn yếu và thiếu; (2) Một số Luật sư
còn chưa chủ động, tích cực trong việc tự học
tập, cập nhật kiến thức pháp luật để nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành nghề
cũng như việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp;(3) Đa số Luật sư
chưa đủ kiến thức hội nhập quốc tế, tiếp cận
kỹ năng hành nghề Luật sư quốc tế, kỹ năng
quản trị điều hành một hãng luật theo tiêu
chuẩn quốc tế.
Nguyên nhân khách quan: (1) Tính chất
của nghề Luật sư là nghề tự do, hoạt động
Luật sư được điều tiết theo cơ chế của thị
trường nên hoạt động Luật sư trước hết phụ
thuộc vào nhu cầu của xã hội. Do điều kiện
kinh tế - xã hội của nước ta đang phát triển,
mức thu nhập của người dân chưa đồng đều,
nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức,
người dân, cộng đồng doanh nghiệp về vị trí,
vai trò của Luật sư chưa đầy đủ, chưa toàn
diện. Hơn nữa, nghề Luật sư ở Việt Nam mới
hình thành và phát triển hơn 30 năm còn
thiếu kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề,
chưa theo kịp với các nước có nghề Luật sư
phát triển trên khu vực và thế giới; (2) Thể
chế về tổ chức, hoạt động Luật sư mặc dù đã
từng bước hoàn thiện, song vẫn còn tồn tại
một số bất cập trong quy định của Luật Luật
sư như: nội dung, chương trình đào tạo nghề
Luật sư chỉ có đào tạo kỹ năng nghề mà chưa
đào tạo về kiến thức và kỹ năng liên quan đến
quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư;
thiếu cơ chế thực chất để giám sát chặt chẽ
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
33
việc tập sự hành nghề Luật sư để bảo đảm
chất lượng của người tập sự trước khi chính
thức trở thành Luật sư; quy định về hình thức
hành nghề Luật sư, hình thức tổ chức hành
nghề luật sư chưa bảo đảm tính đặc thù, phù
hợp với các loại hình doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 bảo đảm tính hiệu
quả trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
Việt Nam hiện nay, đặc biệt là hình thức hành
nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài tại Việt Nam.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Qua thực tiễn về hình thức, hoạt động của
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, tổ chức
Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại
Việt Nam và kinh nghiệm về hình thức tổ chức
hành nghề luật sư một số nước trên thế giới,
trong thời gian tới, cần tập trung vào một số
việc sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý
về Luật sư và hành nghề Luật sư để thể chế hoá
đầy đủ và kịp thời những nội dung có liên quan
của Chiến lược cải cách tư pháp, Chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như những chủ
trương, chính sách, định hướng quan trọng của
Đảng về cải cách hành chính, phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại
hội lần thứ XII.
Thứ hai, khẩn trương tổng kết thực tiễn,
rà soát những hạn chế, bất cập của Luật Luật
sư đặc biệt liên quan đến vấn đề đào tạo
nghề, hình thức hành nghề, hình thức tổ chức
hành nghề của Luật sư Việt Nam, hành nghề
của tổ chức Luật sư nước ngoài, Luật sư nước
ngoài tại Việt Nam để đề xuất với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Luật sư theo định
hướng cụ thể như sau:
- Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền, đặc biệt là
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Chỉ
thị 33-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của Luật sư nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng, nâng cao vị thế, vai trò, tính chuyên
nghiệp và tăng cường trách nhiệm xã hội của
Luật sư.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
hành nghề của Luật sư, bảo đảm để Luật sư
thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình,
góp phần bảo vệ công lý theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013.
- Tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc
kiện toàn, cơ cấu lại các tổ chức hành nghề
luật sư Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và thông lệ
quốc tế về nghề Luật sư cũng như tính đặc
thù, đồng bộ với các loại hình doanh nghiệp
theo quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014.
- Sửa đổi các quy định của Luật Luật sư,
tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng phù hợp
với thông lệ chung của các nước trong khu
vực và trên thế giới về hình thức hành nghề
của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại
Việt Nam.
Thứ ba, xây dựng các chính sách phát triển
các tổ chức hành nghề luật sư quy mô nhỏ và
vừa thành các tổ chức hành nghề luật sư có quy
mô lớn và có tính chuyên sâu như: (1) các
chính sách miễn, giảm thuế cho các tổ chức
hành nghề luật sư mới được thành lập hoặc
được sáp nhập hay liên kết với nhau; (2) xây
dựng cơ chế thu hút, sử dụng đội ngũ Luật sư
tham gia vào các công việc của Chính phủ,
UBND cấp tỉnh trong việc quản lý nhà nước,
các dự án đầu tư, thương mại và các hoạt động
khác khi cần thiết./.
Tài liệu tham khảo:
Luật Luật sư năm 2006.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Luật sư năm 2012.
Nghị định 123/2013/NĐ-CP Quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Luật sư.
Công báo số 137 và 138 ngày 31/1/2016
Về Luật Luật sư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hinh_thuc_to_chuc_hanh_nghe_luat_su_o_viet_nam_thuc_trang_va.pdf