Hình tượng chằn trong sân khấu dù kê của người Khmer ở Nam Bộ

Nhìn chung, sân khấu của người Khmer gắn liền với tôn giáo và tín ngưỡng. Vai Chằn là một hình tượng tiêu biểu cho những gì xấu xa, gian dối, nguy hiểm đang tồn tại. Tiêu diệt thế lực này để hướng đến một cuộc sống yên bình và vươn tới những giá trị tốt đẹp. Đó là bài học đạo đức nhân văn mà các nghệ nhân dân gian Khmer gửi gắm vào cho chính bản thân và cộng đồng. Như vậy, chúng ta thấy ở đây thể hiện khát vọng của dân tộc Khmer theo tư tưởng, triết lý Phật giáo với quan niệm: dù rằng cái thiện và cái ác luôn tồn tại song hành trong đời sống nhưng cuối cùng cái thiện luôn chiến thắng và chinh phục cái ác

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng chằn trong sân khấu dù kê của người Khmer ở Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201478 Soá 13, thaùng 3/2014 79 yên tâm theo nghề, cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của nền nghệ thuật dân tộc. 3. Kết luận Đến nay, tại vùng đất phương Nam, người Khmer vẫn còn lưu giữ được hai loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo của dân tộc, đặc biệt là kịch hát Dù kê, góp phần làm phong phú thêm vốn văn hóa của dân tộc, làm đặc sắc thêm vốn văn hóa dân gian Nam Bộ, đó là một điều vô cùng đáng quý. Do đó, để Rô băm, Dù kê tiếp tục đứng vững được với thời gian, không bị mai một, không bị chìm vào quên lãng, thì ta cần nhanh chóng đào tạo được đội ngũ kế thừa có đủ tâm, đủ lực, để khi Rô băm, Dù kê được ghi tên trong danh sách những Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, thì ta vẫn đủ sức duy trì, giữ mãi được vẻ độc đáo, tính truyền thống của hai loại hình sân khấu dân gian đặc sắc này. Tài liệu tham khảo Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. 2012. Sân khấu dân gia. NXB Văn hóa dân tộc. Đào Huy Quyền, Sơn Ngọc Hoàng, Ngô Khị. 2007. Nhạc khí dân tộc Khmer Sóc Trăng. Nxb Tổng hợp Tp. HCM. Lê Huy Hoàng. 2001. Xây dựng chính sách xã hội tạo sự công bằng, bình đẳng trong việc phát huy nguồn lực sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay. Triết học. số 9. tr. 5-8. Phạm Minh Hạc. 2001. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Chính trị Quốc gia. Phạm Thị Phương Hạnh (Chủ biên). 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia – Sự Thật. HÌNH TƯỢNG CHẰN TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ Nguyễn Thị Tâm Anh1 Tóm tắt Bài viết giới thiệu diện mạo cơ bản của một hình thức sân khấu đặc trưng cho cư dân Khmer ở Nam Bộ qua những chuyến điền dã mà chúng tôi đã có dịp thu thập được, đó chính là sân khấu Dù kê, trong đó chú trọng đến hình tượng Chằn trong loại hình nghệ thuật này. Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã dung nạp những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả giao lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Nam Bộ. Từ khóa: Dù kê, Khmer Nam Bộ, hình tượng Chằn (Yeak). Abstract This paper is to introduce a basic appearance of a distinctive form of the Southern Khmer people through our fieldtrip. That is “Du ke” on which Yeak figuration is mainly focused. “Du ke” receives other factors harmoniously and smoothly. This type of theatre results from cultural exchanges among various ethnic groups living in the southern land. Keywords: Du ke, the Southern Khmer, Yeak figuration. 1 Thạc sĩ, Khoa Xã hội học – Công tác xã hội – Đông Nam Á, Trường ĐH Mở Tp. HCM. 1. Đặt vấn đề Dân tộc Khmer vốn có một nền văn hóa nghệ thuật đặc sắc và phong phú. Qua bao thăng trầm trong lịch sử dân tộc và cũng chính là những biến động trong lịch sử nghệ thuật, dân tộc Khmer đã đã có một số loại hình nghệ thuật dần bị mai một, thậm chí mất hẳn. Sân khấu của người Khmer ở Nam Bộ nói chung khá đa dạng, từ các loại hình diễn xướng dân gian đến Rô băm, Dù kê và Yì kê Trong đó, Rô băm và Dù kê là hai loại hình sân khấu tiêu biểu, vẫn được bảo tồn lưu giữ trong cộng đồng cư dân Khmer Nam Bộ cho đến ngày nay. Loại hình Yì kê là loại hình nghệ thuật độc đáo ở vùng Bảy Núi – An Giang. Ở đây, chúng tôi muốn giới thiệu diện mạo cơ bản của một hình thức sân khấu đặc trưng cho cư dân Khmer ở Nam Bộ qua những chuyến điền dã mà chúng tôi đã có dịp thu thập được, đó chính là sân khấu Dù kê. 2. Sân khấu Dù kê – Loại hình nghệ thuật độc đáo của người Khmer Nam Bộ 2.1. Về nguồn gốc Về nguồn gốc, có thể nói Dù kê là sản phẩm của người Khmer sinh sống, cư trú trên vùng Tây Nam Bộ. Đó là những con người lao động bình thường nhưng khát khao sáng tạo. Do nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, cư dân Khmer sau những ngày lao động cực nhọc trên ruộng rẫy đã tìm cách thư giãn bằng âm nhạc. Ban đầu, chỉ dưới các hình thức đơn giản, thô sơ, sử dụng cây cối làm phông nền cùng vài nhạc cụ mà quây quần bên nhau. Nguồn gốc của loại hình này đến nay vẫn chưa có những chứng cứ xác thực. Một số nghệ sĩ ở Sóc Trăng cho rằng người khai sinh ra Dù kê là ông Lý Cọn (còn có tên là Lý Cuông), quê gốc ở xã An Ninh, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Ông đã cho rước thầy Soun ở Trà Vinh về dạy hát tập tuồng, thời gian này vào khoảng năm 1921. Đoàn Dù kê của ông được thành lập mang tên Tự lập ban sân khấu sơn thủy2. Tuy nhiên, sự hình thành của loại hình này phải kể từ sau năm 1930, khoảng thời gian này có ba gánh hát lớn: Nhật Nguyệt Quang, Tự lập ban và Tự lập thành. Ba gánh hát cạnh tranh nhau và phát triển Dù kê lên những bước mới. Khi sang biểu diễn tại Campuchia, do sự kết hợp của sân khấu Rô băm truyền thống cùng những môn nghệ thuật có mặt trên vùng đất Nam Bộ như Cải lương 2 Theo Ngô Hồng Khanh, “Từ Cải lương Nam Bộ đến sân khấu Dù kê Bassắc” in trong Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ, Sở VHTT Sóc Trăng, 1998, trang 21 – 30. Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201480 Soá 13, thaùng 3/2014 81 của người Kinh và Hồ Quảng của dân tộc Hoa, Dù kê đã thực sự đem lại ấn tượng cho người Khmer tại đây. Nhà vua Campuchia đã gọi loại hình nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ là Lakhol Bassac, có nghĩa là sân khấu vùng Nam Bộ (vùng Nam Bộ được gọi là vùng Bassac). Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã dung nạp những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả giao lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Nam Bộ. Nội dung những vở diễn của Dù kê ngoài khai thác từ tuồng tích xưa, chủ yếu rút ra trong bộ sử thi Ramayana, còn tiếp thu những đề tài mới gần gũi với đời sống của cư dân Khmer vùng Nam Bộ. 2.2. Về nội dung Những mảng đề tài này rất phong phú, có nguồn gốc, có liên hệ với đạo Bà La Môn, đạo Phật, những truyện truyền kỳ diễn giải các di tích, địa dư như sự tích các con rạch, hồ nước, ngọn đồi... Cũng có truyện dân gian như Thạch Sanh chém Chằn mang nội dung tương tự như Thạch Sanh Lý Thông của người Kinh. Hay là những truyện theo tuồng của người Hoa như Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê... Những vở này rất quen thuộc với bà con Khmer, có người còn thuộc làu hết các tình tiết, câu hát, lời thoại của vở diễn nhưng khi có đoàn hát đến diễn thì họ vẫn đi xem. Có thể nói Dù kê đã trở thành một phần tâm hồn người Khmer. Cũng như các loại hình sân khấu truyền thống khác, vào đầu mỗi mùa diễn, các đoàn Dù kê cũng phải cúng Tổ nhằm cầu xin sự bình an và thành công cho vở diễn. Những yếu tố về tôn giáo, thần linh đã thấm sâu vào tư tưởng, tâm lý của mỗi người dân Khmer với triết lý sống kiếp này là tạm để đức cho kiếp sau, tích thật nhiều phước để được giải thoát về sau nên việc thờ cúng Tổ cũng là một cách thể hiện sự biết ơn những người đi trước, những người thầy đã tạo nên sân khấu này. Như đã nói, người dân Khmer rất tin vào nhân quả nên nếu không cúng Tổ cũng giống như con cháu làm gì đó mà quên đi ông bà, cha mẹ mình vậy. Ngôn ngữ chính của sân khấu Dù kê là ca hát, đối thoại trên nền nhạc kết hợp với sự sáng tạo ngẫu hứng của từng diễn viên. Dù kê khác với Rô băm vì ít thần bí và mang tính người nhiều hơn. Theo tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các môn văn nghệ truyền thống của người Khmer thì Dù kê cũng chia thành hai tuyến nhân vật thiện và ác rõ rệt. Trong phần lớn tuồng tích sân khấu đều có nhân vật Chằn trong vai diễn phản diện, nó tượng trưng cho thế lực đen tối đầy tham vọng. “Diệt Chằn” trở thành mô típ dàn dựng chính trong sân khấu Khmer, hình tượng Chằn trở nên quen thuộc với khán giả sân khấu Dù kê, Rô băm... cũng như trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Khmer Nam Bộ. 2.3. Vai Chằn (Yeak) trong sân khấu Dù kê Hình tượng Chằn trong sân khấu Dù kê không phải là một kẻ rách rưới đói khát mà là những kẻ giàu có lắm mưu nhiều kế, quỷ quyệt và háo sắc, có sở trường sử dụng ma thuật và binh lực đi gây chiến. Cấu trúc các tuồng tích “diệt Chằn cứu người” không chỉ nêu ra sự xung đột giữa Chằn và người hùng để kết thúc bằng diệt Chằn (như truyện dân gian: Nàng công chúa tóc thơm; Anh mù và anh bại...) mà còn hàm chứa những xung đột khác lớn hơn, mà trong đó mâu thuẫn giữa Chằn và người diệt Chằn là những chi tiết lồng vào cho vở diễn thêm phong phú. Trong dị bản Khmer của trường ca Ramayana Ấn Độ, tình tiết liên quan đến việc đánh Chằn Krong Reap (Vua Chằn – kẻ bắt cóc nàng Seda) chiếm một khối lượng phong phú đến mức làm lu mờ xung đột tranh chấp quyền lực ở cung đình. Nàng Seda, nạn nhân của Chằn Krong Reap đã tập trung mọi sự chú ý của khán giả. Do vậy, việc giải thoát cho nàng Seda trở thành biểu trưng của sự thắng lợi chính nghĩa. Nhưng trong thực tế, việc chuyển tác phẩm văn học này ít khi sử dụng trọn vẹn để dàn dựng trên sân khấu. Các thầy tuồng thường chọn những tình tiết cơ bản của cốt truyện để dẫn đến một trong những trận đánh tiêu diệt con Chằn thuộc hạ hay trận đánh kết thúc diệt Chằn Krong Reap. Ý nghĩa triết lý ở đây là cái ác luôn tồn tại bên cạnh cái thiện và cái thiện chiến thắng cái ác là kết thúc có hậu mà nhân dân mong ước. Do đó, trong chừng mực nhất định có thể nói rằng mô típ diệt Chằn trong sân khấu và cả trong văn học Khmer đều bắt nguồn từ truyện Ream kê. Điều này chứng tỏ Ream kê đã tạo nên một xu hướng sáng tạo nghệ thuật độc đáo riêng của các nghệ sĩ Khmer. Vai Chằn trong sân khấu Dù kê dùng màu để vẽ mặt, gần giống như “kép núi”3 trong tuồng tích của gánh hát Bội và Hồ quảng. Đặc biệt, chằn mang cặp nanh cong và dài, lúc ngậm vào lúc lồi ra hai bên mép, làm tăng thêm tính hung dữ. Tất cả đều là biểu tượng đặc trưng của các nhân vật phản diện trên sân khấu tuồng. Chằn trong Dù kê Khmer thường được phân biệt: Chằn chưa biết phép thuật là chằn khi xuất hiện trên sân khấu chưa biết múa vũ đạo, chằn biết phép thuật là Chằn có vũ đạo và Chằn thiện (người Khmer gọi là Chằn tu) thì phân biệt ở cách hóa trang (chủ yếu màu trắng) và trang phục. Vai Chằn trong sân khấu Dù kê cũng được chia thành nhiều loại: Chằn lính, Chằn vua, Chằn tu, Chằn nữ... Theo lời anh Thạch Sakhol – nghệ nhân Dù kê Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng, chúng ta có thể nhận biết pháp lực của chằn qua cách múa của đôi tay. Nếu khi múa vai Chằn có động tác tay thấp hơn đầu là chằn đó chưa có phép thuật hoặc phép còn non yếu. Nếu động tác tay luôn cao hơn đầu chứng tỏ chằn đó có nhiều phép thuật hoặc là cho biết một nhân vật Chằn từ không có phép thuật đã hoàn thành việc đi học phép trở về. Động tác tay của vai Chằn rất quan trọng. Nó quy định nếu tay phải để cao hơn đầu thì tay trái ngang lưng và ngược lại. Trang phục cũng là một cách giúp nhận biết thân phận của nhân vật Chằn. Chằn trong Dù kê có khoác áo choàng và ba dải thắt lưng, đầu thắt chiếc kabăng (một dạng khăn). Chằn Vua ví dụ như Krong Reap mặc đồ sáng đẹp, có áo choàng, thường là màu đỏ, tượng trưng cho sức mạnh và uy quyền. Chằn trong rừng mặc đồ màu đen, vẽ mặt màu đen và trắng nhưng phần màu đen trội hơn, có đeo nanh. Chằn lính của Chằn Reap (có nghĩa là chằn đó ở trong cung) thì đồ màu xanh, có đeo nanh. Chằn tu thì mặc đồ màu trắng và vàng, có đeo miếng vải trắng trên vai. Chằn tu vẽ mặt màu trắng có pha màu đen một ít, chân mày màu trắng và không đeo nanh. Chằn nữ còn gọi là Yeak Keyney, mặc đồ rực rỡ và vẽ mặt rất đẹp, không đeo nanh. Tuy nhiên, vai Chằn nữ này hiện nay không còn được thể hiện trên sân khấu. 3 Kép núi trong hát Bội: mặt xanh xám, mắt tròng xéo, má đỏ, đen hay xanh; trên đầu có chít khăn đen của tên cướp. Trong sân khấu Dù kê, đôi nanh là chi tiết khá quan trọng đối với nhân vật Chằn. Nanh là nanh heo thật, được các nghệ sĩ chọn lựa đặt hàng hết sức cẩn thận. Khi diễn xong một vở tuồng, phải đặt đôi nanh lên bàn thờ Tổ rất trân trọng. Các nghệ sĩ tin rằng làm như thế mới được thần linh phù trợ để vai diễn luôn xuất thần và người diễn được mạnh khỏe. Trước đây, các nghệ sĩ đóng vai Chằn trong Dù kê sử dụng hai màu chính là đen và trắng để vẽ mặt. Ngày nay, người ta có dùng thêm nhiều màu khác nhưng chủ đạo vẫn là đen và trắng. Ví dụ như Đôi nanh của Chằn trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Chằn Vua Krong Reaptrong sân khấu Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201480 Soá 13, thaùng 3/2014 81 của người Kinh và Hồ Quảng của dân tộc Hoa, Dù kê đã thực sự đem lại ấn tượng cho người Khmer tại đây. Nhà vua Campuchia đã gọi loại hình nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ là Lakhol Bassac, có nghĩa là sân khấu vùng Nam Bộ (vùng Nam Bộ được gọi là vùng Bassac). Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã dung nạp những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả giao lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Nam Bộ. Nội dung những vở diễn của Dù kê ngoài khai thác từ tuồng tích xưa, chủ yếu rút ra trong bộ sử thi Ramayana, còn tiếp thu những đề tài mới gần gũi với đời sống của cư dân Khmer vùng Nam Bộ. 2.2. Về nội dung Những mảng đề tài này rất phong phú, có nguồn gốc, có liên hệ với đạo Bà La Môn, đạo Phật, những truyện truyền kỳ diễn giải các di tích, địa dư như sự tích các con rạch, hồ nước, ngọn đồi... Cũng có truyện dân gian như Thạch Sanh chém Chằn mang nội dung tương tự như Thạch Sanh Lý Thông của người Kinh. Hay là những truyện theo tuồng của người Hoa như Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê... Những vở này rất quen thuộc với bà con Khmer, có người còn thuộc làu hết các tình tiết, câu hát, lời thoại của vở diễn nhưng khi có đoàn hát đến diễn thì họ vẫn đi xem. Có thể nói Dù kê đã trở thành một phần tâm hồn người Khmer. Cũng như các loại hình sân khấu truyền thống khác, vào đầu mỗi mùa diễn, các đoàn Dù kê cũng phải cúng Tổ nhằm cầu xin sự bình an và thành công cho vở diễn. Những yếu tố về tôn giáo, thần linh đã thấm sâu vào tư tưởng, tâm lý của mỗi người dân Khmer với triết lý sống kiếp này là tạm để đức cho kiếp sau, tích thật nhiều phước để được giải thoát về sau nên việc thờ cúng Tổ cũng là một cách thể hiện sự biết ơn những người đi trước, những người thầy đã tạo nên sân khấu này. Như đã nói, người dân Khmer rất tin vào nhân quả nên nếu không cúng Tổ cũng giống như con cháu làm gì đó mà quên đi ông bà, cha mẹ mình vậy. Ngôn ngữ chính của sân khấu Dù kê là ca hát, đối thoại trên nền nhạc kết hợp với sự sáng tạo ngẫu hứng của từng diễn viên. Dù kê khác với Rô băm vì ít thần bí và mang tính người nhiều hơn. Theo tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các môn văn nghệ truyền thống của người Khmer thì Dù kê cũng chia thành hai tuyến nhân vật thiện và ác rõ rệt. Trong phần lớn tuồng tích sân khấu đều có nhân vật Chằn trong vai diễn phản diện, nó tượng trưng cho thế lực đen tối đầy tham vọng. “Diệt Chằn” trở thành mô típ dàn dựng chính trong sân khấu Khmer, hình tượng Chằn trở nên quen thuộc với khán giả sân khấu Dù kê, Rô băm... cũng như trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Khmer Nam Bộ. 2.3. Vai Chằn (Yeak) trong sân khấu Dù kê Hình tượng Chằn trong sân khấu Dù kê không phải là một kẻ rách rưới đói khát mà là những kẻ giàu có lắm mưu nhiều kế, quỷ quyệt và háo sắc, có sở trường sử dụng ma thuật và binh lực đi gây chiến. Cấu trúc các tuồng tích “diệt Chằn cứu người” không chỉ nêu ra sự xung đột giữa Chằn và người hùng để kết thúc bằng diệt Chằn (như truyện dân gian: Nàng công chúa tóc thơm; Anh mù và anh bại...) mà còn hàm chứa những xung đột khác lớn hơn, mà trong đó mâu thuẫn giữa Chằn và người diệt Chằn là những chi tiết lồng vào cho vở diễn thêm phong phú. Trong dị bản Khmer của trường ca Ramayana Ấn Độ, tình tiết liên quan đến việc đánh Chằn Krong Reap (Vua Chằn – kẻ bắt cóc nàng Seda) chiếm một khối lượng phong phú đến mức làm lu mờ xung đột tranh chấp quyền lực ở cung đình. Nàng Seda, nạn nhân của Chằn Krong Reap đã tập trung mọi sự chú ý của khán giả. Do vậy, việc giải thoát cho nàng Seda trở thành biểu trưng của sự thắng lợi chính nghĩa. Nhưng trong thực tế, việc chuyển tác phẩm văn học này ít khi sử dụng trọn vẹn để dàn dựng trên sân khấu. Các thầy tuồng thường chọn những tình tiết cơ bản của cốt truyện để dẫn đến một trong những trận đánh tiêu diệt con Chằn thuộc hạ hay trận đánh kết thúc diệt Chằn Krong Reap. Ý nghĩa triết lý ở đây là cái ác luôn tồn tại bên cạnh cái thiện và cái thiện chiến thắng cái ác là kết thúc có hậu mà nhân dân mong ước. Do đó, trong chừng mực nhất định có thể nói rằng mô típ diệt Chằn trong sân khấu và cả trong văn học Khmer đều bắt nguồn từ truyện Ream kê. Điều này chứng tỏ Ream kê đã tạo nên một xu hướng sáng tạo nghệ thuật độc đáo riêng của các nghệ sĩ Khmer. Vai Chằn trong sân khấu Dù kê dùng màu để vẽ mặt, gần giống như “kép núi”3 trong tuồng tích của gánh hát Bội và Hồ quảng. Đặc biệt, chằn mang cặp nanh cong và dài, lúc ngậm vào lúc lồi ra hai bên mép, làm tăng thêm tính hung dữ. Tất cả đều là biểu tượng đặc trưng của các nhân vật phản diện trên sân khấu tuồng. Chằn trong Dù kê Khmer thường được phân biệt: Chằn chưa biết phép thuật là chằn khi xuất hiện trên sân khấu chưa biết múa vũ đạo, chằn biết phép thuật là Chằn có vũ đạo và Chằn thiện (người Khmer gọi là Chằn tu) thì phân biệt ở cách hóa trang (chủ yếu màu trắng) và trang phục. Vai Chằn trong sân khấu Dù kê cũng được chia thành nhiều loại: Chằn lính, Chằn vua, Chằn tu, Chằn nữ... Theo lời anh Thạch Sakhol – nghệ nhân Dù kê Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng, chúng ta có thể nhận biết pháp lực của chằn qua cách múa của đôi tay. Nếu khi múa vai Chằn có động tác tay thấp hơn đầu là chằn đó chưa có phép thuật hoặc phép còn non yếu. Nếu động tác tay luôn cao hơn đầu chứng tỏ chằn đó có nhiều phép thuật hoặc là cho biết một nhân vật Chằn từ không có phép thuật đã hoàn thành việc đi học phép trở về. Động tác tay của vai Chằn rất quan trọng. Nó quy định nếu tay phải để cao hơn đầu thì tay trái ngang lưng và ngược lại. Trang phục cũng là một cách giúp nhận biết thân phận của nhân vật Chằn. Chằn trong Dù kê có khoác áo choàng và ba dải thắt lưng, đầu thắt chiếc kabăng (một dạng khăn). Chằn Vua ví dụ như Krong Reap mặc đồ sáng đẹp, có áo choàng, thường là màu đỏ, tượng trưng cho sức mạnh và uy quyền. Chằn trong rừng mặc đồ màu đen, vẽ mặt màu đen và trắng nhưng phần màu đen trội hơn, có đeo nanh. Chằn lính của Chằn Reap (có nghĩa là chằn đó ở trong cung) thì đồ màu xanh, có đeo nanh. Chằn tu thì mặc đồ màu trắng và vàng, có đeo miếng vải trắng trên vai. Chằn tu vẽ mặt màu trắng có pha màu đen một ít, chân mày màu trắng và không đeo nanh. Chằn nữ còn gọi là Yeak Keyney, mặc đồ rực rỡ và vẽ mặt rất đẹp, không đeo nanh. Tuy nhiên, vai Chằn nữ này hiện nay không còn được thể hiện trên sân khấu. 3 Kép núi trong hát Bội: mặt xanh xám, mắt tròng xéo, má đỏ, đen hay xanh; trên đầu có chít khăn đen của tên cướp. Trong sân khấu Dù kê, đôi nanh là chi tiết khá quan trọng đối với nhân vật Chằn. Nanh là nanh heo thật, được các nghệ sĩ chọn lựa đặt hàng hết sức cẩn thận. Khi diễn xong một vở tuồng, phải đặt đôi nanh lên bàn thờ Tổ rất trân trọng. Các nghệ sĩ tin rằng làm như thế mới được thần linh phù trợ để vai diễn luôn xuất thần và người diễn được mạnh khỏe. Trước đây, các nghệ sĩ đóng vai Chằn trong Dù kê sử dụng hai màu chính là đen và trắng để vẽ mặt. Ngày nay, người ta có dùng thêm nhiều màu khác nhưng chủ đạo vẫn là đen và trắng. Ví dụ như Đôi nanh của Chằn trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Chằn Vua Krong Reaptrong sân khấu Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201482 Soá 13, thaùng 3/2014 83 cho miệng màu đỏ, mũi màu xanh, phần trán có thể cho màu đỏ hồng... tất cả những cách thức này tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của từng diễn viên, miễn sao thể hiện được nét hung tợn của nhân vật Chằn. Một khuôn mặt của diễn viên vẽ mất khoảng 25 phút. Chất liệu để vẽ mặt là sơn bột màu trộn với mỡ heo. Việc thể hiện những đặc điểm nhân vật trên sân khấu Dù kê dựa vào cơ sở mà những nghệ nhân dân gian trước đã quy định. Ví dụ như Chằn Krong Reap sử dụng trang phục màu đỏ, vẽ mặt cũng dùng màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và uy quyền. Vai Khỉ Hanuman được thiết kế trang phục màu trắng có những xoáy tròn, còn các diễn viên vẽ mặt thì lấy tông màu trắng là chủ đạo. Chất liệu vẽ mặt trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Màu đen Màu đen Màu trắng Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách thức trước đây Vùng này vẽ tùy diễn viên Màu đen Vẽ xanh hoặc đỏ Vẽ màu tùy diễn viên Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách ngày nay Vì là vai phản diện tiêu biểu cho cái ác nên các động tác múa của vai Chằn được cường điệu, trông rất dữ tợn. Trên sân khấu, vai Chằn Dù kê thể hiện hết mình qua động tác múa và võ thuật. Chằn luôn dùng động tác võ lực nhằm áp đảo đối phương, ít sử dụng ngôn từ mà chủ yếu chỉ bằng những âm thanh phát ra như gầm thét lên. Nét mặt của chằn rất quan trọng, các diễn viên phải giỏi điều khiển cơ mặt theo ý muốn để bộc lộ được bản chất của nhân vật. Qua phỏng vấn, anh Thạch Sakhol – diễn viên Dù kê đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã cho biết vai Chằn có những động tác chính sau: - Pong: bước ra - Chai: đi - Choong chơn: dậm chân tại chỗ, giơ tay phải lên cao và chỉ hai ngón tay diễn tả “ta là hùng mạnh”. - Tr’ong diêng: như bưng người lên, hai tay đưa lên cao “hứng máu”. - Chơ-bôt puk mót: vuốt râu. Ngoài những động tác chính đó, vai Chằn cần phải thể hiện tốt những yếu tố khác như đôi mắt, cặp nanh và bộ ngực. Cặp mắt luôn liếc qua liếc lại nhiều lần. Miệng và nanh trong trạng thái chuyển động sao cho cặp nanh đưa lên đưa xuống. Trong tư thế đi đứng phải ưỡn căng lồng ngực, ngực luôn đi trước và theo chân nhúng nhịp nhàng. Về trình tự biểu diễn cũng thay đổi theo từng giai đoạn, theo tài liệu và các nghệ nhân Dù kê ở thời kỳ đầu còn sống thì: trước khi trình diễn vở tuồng ở thời kỳ đầu chỉ có hát Hum roông và sau đó mới đồng thanh hô tô 3 câu là “Yak O”. Còn việc lồng một số điệu múa cho mở màn trình diễn chỉ mới sau này từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở lại đây. Theo lời bà Kim Thị Suông – diễn viên Màu đen Vẽ tùy sáng tạo của diễn viên Màu trắng hoặc đỏ Viền màu đen Mô phỏng vẽ mặt nạ kiểu Chằn nữ Chằn Krong Reap và Hoàng tử Preah Ream Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201482 Soá 13, thaùng 3/2014 83 cho miệng màu đỏ, mũi màu xanh, phần trán có thể cho màu đỏ hồng... tất cả những cách thức này tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của từng diễn viên, miễn sao thể hiện được nét hung tợn của nhân vật Chằn. Một khuôn mặt của diễn viên vẽ mất khoảng 25 phút. Chất liệu để vẽ mặt là sơn bột màu trộn với mỡ heo. Việc thể hiện những đặc điểm nhân vật trên sân khấu Dù kê dựa vào cơ sở mà những nghệ nhân dân gian trước đã quy định. Ví dụ như Chằn Krong Reap sử dụng trang phục màu đỏ, vẽ mặt cũng dùng màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và uy quyền. Vai Khỉ Hanuman được thiết kế trang phục màu trắng có những xoáy tròn, còn các diễn viên vẽ mặt thì lấy tông màu trắng là chủ đạo. Chất liệu vẽ mặt trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Màu đen Màu đen Màu trắng Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách thức trước đây Vùng này vẽ tùy diễn viên Màu đen Vẽ xanh hoặc đỏ Vẽ màu tùy diễn viên Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách ngày nay Vì là vai phản diện tiêu biểu cho cái ác nên các động tác múa của vai Chằn được cường điệu, trông rất dữ tợn. Trên sân khấu, vai Chằn Dù kê thể hiện hết mình qua động tác múa và võ thuật. Chằn luôn dùng động tác võ lực nhằm áp đảo đối phương, ít sử dụng ngôn từ mà chủ yếu chỉ bằng những âm thanh phát ra như gầm thét lên. Nét mặt của chằn rất quan trọng, các diễn viên phải giỏi điều khiển cơ mặt theo ý muốn để bộc lộ được bản chất của nhân vật. Qua phỏng vấn, anh Thạch Sakhol – diễn viên Dù kê đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã cho biết vai Chằn có những động tác chính sau: - Pong: bước ra - Chai: đi - Choong chơn: dậm chân tại chỗ, giơ tay phải lên cao và chỉ hai ngón tay diễn tả “ta là hùng mạnh”. - Tr’ong diêng: như bưng người lên, hai tay đưa lên cao “hứng máu”. - Chơ-bôt puk mót: vuốt râu. Ngoài những động tác chính đó, vai Chằn cần phải thể hiện tốt những yếu tố khác như đôi mắt, cặp nanh và bộ ngực. Cặp mắt luôn liếc qua liếc lại nhiều lần. Miệng và nanh trong trạng thái chuyển động sao cho cặp nanh đưa lên đưa xuống. Trong tư thế đi đứng phải ưỡn căng lồng ngực, ngực luôn đi trước và theo chân nhúng nhịp nhàng. Về trình tự biểu diễn cũng thay đổi theo từng giai đoạn, theo tài liệu và các nghệ nhân Dù kê ở thời kỳ đầu còn sống thì: trước khi trình diễn vở tuồng ở thời kỳ đầu chỉ có hát Hum roông và sau đó mới đồng thanh hô tô 3 câu là “Yak O”. Còn việc lồng một số điệu múa cho mở màn trình diễn chỉ mới sau này từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở lại đây. Theo lời bà Kim Thị Suông – diễn viên Màu đen Vẽ tùy sáng tạo của diễn viên Màu trắng hoặc đỏ Viền màu đen Mô phỏng vẽ mặt nạ kiểu Chằn nữ Chằn Krong Reap và Hoàng tử Preah Ream Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201484 Soá 13, thaùng 3/2014 85 Dù kê lâu năm trong đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng thì hát trước khi diễn gọi là Hum roông. Lúc xưa còn có múa Băm bô trước khi hát Hum ronl, đây là điệu múa lai Ấn nhưng ngày nay gần như không còn lưu truyền nữa. Ngày nay, trình tự diễn trở nên linh hoạt hơn, đơn giản hơn cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh các đoàn Dù kê4. Khi ra diễn, các diễn viên được xức dầu thơm đã được làm phép để diễn thật có hồn. Tùy tuyến nhân vật mà sẽ ra sân khấu theo hướng khác nhau. Tuyến nhân vật thiện sẽ ra phía tay trái sân khấu, vô phía tay phải. Trống kèn cũng ngồi phía tay trái sân khấu. Tuyến nhân vật ác có thể ra phía tay phải nhằm tượng trưng cho sự ngang ngược, ngông cuồng của vai phản diện. Dù kê từ khi ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của cư dân Khmer Nam Bộ. Một sản phẩm riêng có của những người con Khmer vùng Nam Bộ nay đã khẳng định được vị thế của mình. Không những thế, 4 Qua tổng hợp, ở Sóc Trăng chỉ còn 3 đoàn Dù kê do tư nhân thành lập là duy trì hình thức cúng Tổ như ngày xưa: Đoàn Roong Roong, xã Phú Tân, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn Xà Coong (Ánh Bình Minh), xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn ông Tha (Chòng bệt), xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Dù kê còn vươn tới những con người Khmer trên đất Campuchia và được tiếp nhận nồng hậu. Cấu trúc song tuyến đối lập – thiện và ác, nhân đức và bạo tàn, chính nghĩa và phi nghĩa, yêu nước và phản quốc... trong tuồng tích diệt Chằn truyền thống đã trở thành một quán tính của thị hiếu tâm lý thưởng ngoạn sân khấu, vẫn chưa thay đổi với các thầy tuồng và khán giả Khmer Nam Bộ. Chằn trên sân khấu Dù kê không mang tính ma thuật mà chủ yếu tượng trưng cho cái xấu, các ác tồn tại xung quanh đời sống. Từ những con người gian xảo lừa lọc, lực lượng ngoại xâm đã từng đe dọa cuộc sống của đồng bào, đến các thế lực ma quỷ, thần linh trong niềm tin sâu thẳm của cư dân Khmer. Như thế, hình tượng Chằn Dù kê đã đi từ hư đến thực, từ những hoang đường đến hiện hữu. Cùng mang ý nghĩa giáo dục nhân cách con người, hướng đến những giá trị nhân văn như các loại hình sân khấu khác nhưng hình tượng Chằn Dù kê lại “đời” hơn nên được cư dân Nam Bộ tiếp nhận nhiệt tình và cởi mở. Động tác “hứng máu” của vai Chằn Dù kê do anh Thạch Dara (Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng) thể hiện Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Hóa trang vai Khỉ Hanuman trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 3. Kết luận Nhìn chung, sân khấu của người Khmer gắn liền với tôn giáo và tín ngưỡng. Vai Chằn là một hình tượng tiêu biểu cho những gì xấu xa, gian dối, nguy hiểm đang tồn tại. Tiêu diệt thế lực này để hướng đến một cuộc sống yên bình và vươn tới những giá trị tốt đẹp. Đó là bài học đạo đức nhân văn mà các nghệ nhân dân gian Khmer gửi gắm vào cho chính bản thân và cộng đồng. Như vậy, chúng ta thấy ở đây thể hiện khát vọng của dân tộc Khmer theo tư tưởng, triết lý Phật giáo với quan niệm: dù rằng cái thiện và cái ác luôn tồn tại song hành trong đời sống nhưng cuối cùng cái thiện luôn chiến thắng và chinh phục cái ác. Tài liệu tham khảo Lê Hương. 1969. Người Việt gốc Miên, Xuất bản Trí Đăng. 277tr. Nguyễn Thị Tâm Anh. 2006. Tài liệu điền dã chép tay. Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 372tr. Nhiều tác giả. 1997. Văn hóa nghệ thuật Nam Bộ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. NXB VH TT Hà Nội. 491tr. Sở VH – TT Tỉnh Sóc Trăng & Phân viện VHNT Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh. 1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở VH – TT. 173tr. Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201484 Soá 13, thaùng 3/2014 85 Dù kê lâu năm trong đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng thì hát trước khi diễn gọi là Hum roông. Lúc xưa còn có múa Băm bô trước khi hát Hum ronl, đây là điệu múa lai Ấn nhưng ngày nay gần như không còn lưu truyền nữa. Ngày nay, trình tự diễn trở nên linh hoạt hơn, đơn giản hơn cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh các đoàn Dù kê4. Khi ra diễn, các diễn viên được xức dầu thơm đã được làm phép để diễn thật có hồn. Tùy tuyến nhân vật mà sẽ ra sân khấu theo hướng khác nhau. Tuyến nhân vật thiện sẽ ra phía tay trái sân khấu, vô phía tay phải. Trống kèn cũng ngồi phía tay trái sân khấu. Tuyến nhân vật ác có thể ra phía tay phải nhằm tượng trưng cho sự ngang ngược, ngông cuồng của vai phản diện. Dù kê từ khi ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của cư dân Khmer Nam Bộ. Một sản phẩm riêng có của những người con Khmer vùng Nam Bộ nay đã khẳng định được vị thế của mình. Không những thế, 4 Qua tổng hợp, ở Sóc Trăng chỉ còn 3 đoàn Dù kê do tư nhân thành lập là duy trì hình thức cúng Tổ như ngày xưa: Đoàn Roong Roong, xã Phú Tân, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn Xà Coong (Ánh Bình Minh), xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn ông Tha (Chòng bệt), xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Dù kê còn vươn tới những con người Khmer trên đất Campuchia và được tiếp nhận nồng hậu. Cấu trúc song tuyến đối lập – thiện và ác, nhân đức và bạo tàn, chính nghĩa và phi nghĩa, yêu nước và phản quốc... trong tuồng tích diệt Chằn truyền thống đã trở thành một quán tính của thị hiếu tâm lý thưởng ngoạn sân khấu, vẫn chưa thay đổi với các thầy tuồng và khán giả Khmer Nam Bộ. Chằn trên sân khấu Dù kê không mang tính ma thuật mà chủ yếu tượng trưng cho cái xấu, các ác tồn tại xung quanh đời sống. Từ những con người gian xảo lừa lọc, lực lượng ngoại xâm đã từng đe dọa cuộc sống của đồng bào, đến các thế lực ma quỷ, thần linh trong niềm tin sâu thẳm của cư dân Khmer. Như thế, hình tượng Chằn Dù kê đã đi từ hư đến thực, từ những hoang đường đến hiện hữu. Cùng mang ý nghĩa giáo dục nhân cách con người, hướng đến những giá trị nhân văn như các loại hình sân khấu khác nhưng hình tượng Chằn Dù kê lại “đời” hơn nên được cư dân Nam Bộ tiếp nhận nhiệt tình và cởi mở. Động tác “hứng máu” của vai Chằn Dù kê do anh Thạch Dara (Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng) thể hiện Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 Hóa trang vai Khỉ Hanuman trong Dù kê Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006 3. Kết luận Nhìn chung, sân khấu của người Khmer gắn liền với tôn giáo và tín ngưỡng. Vai Chằn là một hình tượng tiêu biểu cho những gì xấu xa, gian dối, nguy hiểm đang tồn tại. Tiêu diệt thế lực này để hướng đến một cuộc sống yên bình và vươn tới những giá trị tốt đẹp. Đó là bài học đạo đức nhân văn mà các nghệ nhân dân gian Khmer gửi gắm vào cho chính bản thân và cộng đồng. Như vậy, chúng ta thấy ở đây thể hiện khát vọng của dân tộc Khmer theo tư tưởng, triết lý Phật giáo với quan niệm: dù rằng cái thiện và cái ác luôn tồn tại song hành trong đời sống nhưng cuối cùng cái thiện luôn chiến thắng và chinh phục cái ác. Tài liệu tham khảo Lê Hương. 1969. Người Việt gốc Miên, Xuất bản Trí Đăng. 277tr. Nguyễn Thị Tâm Anh. 2006. Tài liệu điền dã chép tay. Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 372tr. Nhiều tác giả. 1997. Văn hóa nghệ thuật Nam Bộ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. NXB VH TT Hà Nội. 491tr. Sở VH – TT Tỉnh Sóc Trăng & Phân viện VHNT Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh. 1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở VH – TT. 173tr.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhinh_tuong_chan_trong_san_khau_du_ke_cua_nguoi_khmer_o_nam_b.pdf