Thứ năm, hỗ trợ nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của doanh nghiệp vừa và
nhỏ khởi nghiệp sáng tạo.
Thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ cần nhân lực có khả
năng phân tích nhu cầu của thị trường và các
công nghệ tương tự của đối thủ cạnh tranh,
có kiến thức về định giá giá trị của công
nghệ mới, về sở hữu trí tuệ và khai thác và
phát triển tài sản trí tuệ, có trình độ về thiết
kế, xây dựng, hoạch định chiến lược thương
mại hóa, về truyền thông - marketing, về
đàm phán chuyển giao kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ, về pháp lý Do đó,
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ đào tạo để
tăng cường năng lực quản trị doanh nghiệp,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham
gia hoạt động TMHkết quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ và PTCN của DNNVV
khởi nghiệp sáng tạo .
Thứ sáu, thường xuyên đánh giá sơ kết,
tổng kết việc thực hiện Đề án hỗ trợ DNNVV
và hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp TMHkết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và
PTCN của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ bảy, tăng cường kiểm tra, giám sát việc
sử dụng kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ bằng nguồn vốn NSNN
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
1. Thực trạng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa
học bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Trong những năm gần đây, đầu tư và hỗ
trợ của ngân sách nhà nước (NSNN) cho lĩnh
vực khoa học và công nghệ tăng lên hàng
năm. Sự đầu tư và hỗ trợ của NSNN trong
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ góp phần thúc đẩy hoạt động
đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Kết quả
nghiên cứu của nhiều đề tài, dự án đã được
ứng dụng, thương mại hóa. Điều này góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, bảo vệ môi trường, hiệu quả tăng
trưởng của nền kinh tế và của doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV).
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện pháp luật
hỗ trợ DNNVV để thương mại hóa kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn NSNN cũng cho thấy những hạn
chế sau đây:
Thứ nhất, tỷ lệ các đề tài nghiên cứu
bằng nguồn vốn NSNN có kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ được ứng dụng
vào sản xuất, kinh doanh còn thấp. Thực
trạng này xuất phát từ những nguyên nhân
sau: (1) Cơ quan giao đề tài và tổ chức chủ
trì, cá nhân thực hiện đề tài, dự án khoa học
và công nghệ từ khâu đề xuất, thuyết minh,
tuyển chọn, giao, nghiệm thu đề tài, dự án
chưa chú ý gắn kết giữa nghiên cứu với ứng
dụng kết quả nghiên cứu. Sự kết nối giữa
Hỗ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỏ VÀ VừA THươNG MẠI HóA KẾT QUẢ NGHIÊN CứU
KHOA HọC VÀ CÔNG NGHỆ BằNG NGUỒN VốN NGÂN SÁCH NHÀ NướC
Nguyễn Trí Đức
TrungtâmĐàotạovàHỗtrợpháttriểnthịtrườngcôngnghệ,
CụcPháttriểnthịtrườngvàdoanhnghiệpkhoahọcvàcôngnghệBộKhoahọcvàcôngnghệ.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa; thương mại hóa; kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/8/2020
Biên tập : 03/9/2020
Duyệt bài : 05/9/2020
Article Infomation:
Key words: Support to small and
medium business;
commercialization; research results
of science technology
Article History:
Received : 29 Aug. 2020
Edited : 03 Sep. 2020
Approved : 05 Sep. 2020
Tóm tắt:
Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ
trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Điều này góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, hiệu quả tăng trưởng
của nền kinh tế và của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong phạm vi bài
viết này, tác giả phân tích thực trạng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học bằng nguồn vốn ngân
sách nhà nước; đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và đổi mới tổ
chức thực hiện pháp luật về vấn đề này.
Abstract:
In recent years, several small and medium-sized enterprises have been
supported to commercialize their research results of science
technology with the state budgets. This is for improvement of the
productivity, product quality, environmental protection, and growth
efficiency of the economy and small and medium-sized enterprises.
In the scope of this article, the author analyzes the situation of
supporting the small and medium enterprises to commercialize their
research results of science technology with the state budgets; propose
solutions to improve the legal regulations, and rearrange the law
enforcements on this question.
Số 17 (417) - T9/202038
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu
khoa học còn hạn chế. Công tác đánh giá kết
quả ứng dụng của sản phẩm nghiên cứu sau
nghiệm thu, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghĩa vụ ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa
thực sự được quan tâm. Mức phạt vi phạm
nghĩa vụ không trực tiếp hoặc tham gia triển
khai ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản
xuất, đời sống chưa đủ sức răn đe đối với
người có hành vi vi phạm1; (2) Nhiều chủ thể
ứng dụng thích và tin tưởng vào công nghệ
của nước ngoài hơn kết quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ trong nước2; (3) Ngân sách
chi cho hoạt động khoa học và công nghệ nói
chung, chi cho sự nghiệp khoa học và công
nghệ nói riêng, trong đó có chi hỗ trợ thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và
công nghệ và phát triển công nghệ (PTCN)
thấp3; (4) Một số lĩnh vực do đặc thù của đối
tượng nghiên cứu nên thiếu “thị trường đầu
ra” cho hoạt động thương mại hóa kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ, chẳng
hạn nghiên cứu về rừng phòng hộ, rừng bảo
tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học4;
(5) Một số chủ thể kinh doanh, trong đó có
hộ gia đình, hợp tác xã, nông trường, lâm
trường có nhu cầu sử dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ nhưng thiếu điều
kiện tiếp cận quyền sử dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ hoặc năng lực
tài chính yếu nên không thể thương mại hóa
kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ;
(6) Hầu hết DNNVV do nhận thức và do khó
khăn về nguồn lực (nhân sự, tài chính) nên
chưa đầu tư cho nghiên cứu khoa học và
PTCN. Năng lực tiếp cận, ứng dụng, PTCN
hiện đại của nhiều doanh nghiệp còn thấp5.
Thứ hai, hiệu quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên
cứu chưa cao6. Hiệu quả thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn NSNN thấp so với kinh phí đầu
tư cho đề tài. Nguồn hỗ trợ từ NSNN chủ
yếu chú trọng việc tạo ra công nghệ mới,
chưa quan tâm đúng mức tới sự phát triển
sản phẩm. Nguyên nhân của những hạn chế
này là: (1) Chất lượng nghiên cứu khoa học
và tính khả thi của việc ứng dụng kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ còn thấp;
không phải cơ quan tuyển chọn, giao nhiệm
vụ nào cũng quan tâm đúng mức việc đánh
giá khả năng thương mại hóa kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ, trong khi đó
không ít đề tài không bám sát vào nhu cầu
của thị trường, nặng tính lý thuyết, ít tính
ứng dụng nên khó thương mại hóa7; (2) Do
hạn chế về nguồn lực tài chính nên đầu tư,
hỗ trợ của NSNN cho thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ còn
dàn trải, chưa tập trung8.
1 Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
sử dụng ngân sách nhà nước, có cam kết, có địa chỉ ứng dụng vào sản xuất và đời sống nhưng không trực
tiếp hoặc tham gia triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đời sống (khoản 3 Điều 11 Nghị
định số 51/2019/NĐ-CP ngày 13/6/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ).
2 Nguyễn Quang Tuấn, Thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh doanh, Tạp
chí Cộng sản, số 810 (4/2010), tr. 72 - 74.
3 Chi thường xuyên cho khoa học và công nghệ năm 2020 là 12.800 tỷ đồng (xem dự toán kèm theo Quyết
định số 2680/QĐ-BTC ngày 16/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự
toán NSNN năm 2020).
4 Nguyễn Quang Tuấn, tlđd.
5 Bộ Chính trị, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham
gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
6 Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
7 Cùng nhận định: Nguyễn Trường Phi, Trần Anh Tú, Nguyễn Thị Anh Thư, Thương mại hóa kết quả nghiên
cứu-Một số mô hình cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 3/2018, tr.64.
8 Nguyễn Hồ Phi Hà (2018), Thực trạng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ ngân sách Nhà nước,
—trao-doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-dau-tu-cho-phat-trien-khoa-
hoc-va-cong-nghe-tu-ngan-sach-nha-nuoc-133809.html.
39Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Thứ ba, chất lượng, hiệu quả hoạt động
hỗ trợ, tài trợ cho hoạt động khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo của Quỹ phát triển
khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ đổi
mới công nghệ quốc gia chưa cao. Điều này
đã được xác nhận trong Kế hoạch thực hiện
Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của
Ban Bí thư ban hành kèm theo Quyết định
số 696/QĐ-TTg ngày 25/5/2020 của Thủ
tướng Chính phủ9.
Thứ tư, kinh phí đầu tư, hỗ trợ doanh
nghiệp thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ bằng nguồn vốn
NSNN đối với một số đề án, dự án, nhiệm
vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự
tương xứng với nhiệm vụ cần thực hiện.
Nguyên nhân của những hạn chế này là: (1)
Thiếu tiêu chí thực sự khách quan trong định
giá kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ và PTCN, tài sản trí tuệ sử dụng NSNN
phục vụ việc giao quyền sở hữu, quyền sử
dụng và phân chia lợi nhuận khi sử dụng,
chuyển giao quyền sở hữu, chuyển giao
quyền sử dụng, góp vốn bằng kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ và PTCN, tài sản
trí tuệ sử dụng NSNN; (2) Do khó khăn về
ngân sách nên ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương không thể đáp ứng được hết
đề nghị hỗ trợ của doanh nghiệp, mặc dù đề
nghị đó có thể hợp lý. Ngoài giới hạn về tỷ
lệ phân bổ, ngân sách cấp cho hoạt động
khoa học và công nghệ còn được thực hiện
theo chương trình, đề tài, dự án nên kinh phí
hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ thường bị giới hạn ở
mức kinh phí dự toán đã được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt đối với chương trình,
đề tài, dự án. Vì vậy, sự bình quân, cào bằng
trong cấp kinh phí cho nhiệm vụ, đề tài, dự
án trong chương trình đâu đó vẫn còn tồn tại;
(3) Về chuyên môn, mức kinh phí đầu tư, hỗ
trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ không phải do Hội đồng
tuyển chọn, giao thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ mà do Tổ thẩm định kinh
phí tư vấn xác định. Thành phần Tổ thẩm
định kinh phí thường gồm lãnh đạo đơn vị
quản lý nhiệm vụ của Bộ, ngành, địa
phương; đại diện đơn vị quản lý nhà nước về
kế hoạch, tài chính; chủ tịch hoặc phó chủ
tịch hoặc ủy viên phản biện của Hội đồng
tuyển chọn, giao trực tiếp; đại diện của đơn
vị dự toán ngân sách được giao trực tiếp
quản lý, sử dụng ngân sách của nhiệm vụ
thuộc bộ, ngành, địa phương. Nếu biểu quyết
thì rõ ràng đại diện của các cơ quan có quyền
quyết định tài chính cho đề tài sẽ chiếm quá
bán so với cơ quan chuyên môn về khoa học
và công nghệ.
Thứ năm, cải cách thủ tục hành chính
trong đầu tư, kinh doanh ở hầu hết các địa
phương đã và đang tiến hành quyết liệt. Việc
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong giải quyết thủ tục hành chính trong đầu
tư, kinh doanh đã được triển khai ở nhiều
cấp. Tuy nhiên, thủ tục hành chính liên quan
đến nhiều sở, ngành nên việc giải quyết hồ
sơ trong hỗ trợ doanh nghiệp vẫn còn chậm.
Thứ sáu, phần lớn các hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp được áp dụng chung cho các
DNNVV mà chưa có chính sách riêng hỗ trợ
cho đối tượng DNNVV khởi nghiệp sáng tạo10.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, ngoài những nguyên
nhân đã được chỉ ra, theo chúng tôi, nguyên
nhân cơ bản là quy định của pháp luật về hỗ
trợ doanh nghiệp thương mại hóa kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa
đồng bộ, thiếu thống nhất và không khả thi
cụ thể như sau:
9 Xem Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 696/QĐ-TTg ngày
25/5/2020 để thực hiện Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
10 Chẳng hạn, ở tỉnh Sơn La, xem tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Đề án Hỗ trợ DNNVV trên địa bàn tỉnh Sơn
La giai đoạn 2019-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1834/QĐ-UBND ngày 26/7/2019 của UBND
tỉnh Sơn La.
Số 17 (417) - T9/202040
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
- Nhiều quy định về hỗ trợ doanh nghiệp
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ đáng lẽ cần được quy định
trong Luật Hỗ trợ DNNVV nhưng lại được
quy định trong Luật Khoa học và Công nghệ
và Luật Chuyển giao công nghệ.
- Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ do được quy định trong các văn
bản pháp luật khác nhau nên thiếu tính hệ
thống, khó theo dõi đối với chủ thể được hỗ trợ.
- Thiếu các nguyên tắc cần thiết trong hỗ
trợ doanh nghiệp như: không hỗ trợ chồng
chéo, trùng lặp; bảo đảm sự bình đẳng trong
hỗ trợ; ưu tiên DNNVV sử dụng nhiều lao
động là người khuyết tật
- Một số quy định của pháp luật chuyển
giao công nghệ không thống nhất với pháp
luật về khoa học và công nghệ (Điều 17
Nghị định số 76/2018/NĐ-CP11 không thống
nhất với Điều 43 Luật Khoa học và Công
nghệ và khoản 1 Điều 42 Nghị định số
08/2014/NĐ-CP)12.
- Một số quy định về thực hiện nhiệm vụ
khoa học chưa hợp lý, cụ thể:
+ Quy định về xây dựng dự toán, quản
lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán kinh phí
vẫn chưa phù hợp với việc thực hiện nhiệm
vụ khoa học và công nghệ theo phương thức
khoán chi đến sản phẩm cuối cùng13.
+ Quy định về quyền tự chủ của chủ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ và quyền điều tiết của tổ chức chủ trì
nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa được
xử lý hài hòa trong Thông tư liên tịch số
27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015
của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
và Bộ trưởng Bộ Tài chính14.
+ Quy định về định mức chi hỗ trợ quản
lý chung nhiệm vụ khoa học và công nghệ
của tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và
công nghệ theo khoản 8 Điều 7 Thông tư
liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN
chưa thực sự hợp lý15.
+ Quy định về cơ chế quản lý tài chính
đối với khoa học và công nghệ tuy đã có đổi
mới, song còn bất cập, chưa đồng bộ; phân
bổ ngân sách chưa hợp lý16.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đổi mới
tổ chức thực hiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thương mại hóa
kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
2.1. Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thương mại hóa
kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Để khắc phục các hạn chế của pháp luật
về hỗ trợ DNVVN để thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
11 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
12 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Khoa học và công nghệ.
13 Như phản ánh trong Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 696/QĐ-
TTg ngày 25/5/2020 để thực hiện Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về phát triển
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
14 Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công
nghệ và Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng
ngân sách nhà nước.
15 Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22/4/2015 của liên bộ Bộ Tài chính và Bộ Khoa
học và Công nghệ hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm
vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
16 Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương trong
Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
nguồn vốn NSNN đã nêu ở trên, chúng tôi
đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, bổ sung một số nguyên tắc hỗ
trợ doanh nghiệp bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước.
Sửa đổi Điều 5 Luật Hỗ trợ DNNVV
theo hướng bổ sung các nguyên tắc hỗ trợ
như: không chồng chéo, trùng lặp; bảo đảm
sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc các
loại hình và thành phần kinh tế trong tiếp cận
nguồn lực hỗ trợ; ưu tiên DNNVV sử dụng
nhiều lao động là người khuyết tật (xác định
theo tỷ lệ phần trăm tối thiểu bình quân trong
năm trên tổng số lao động) có hồ sơ hợp lệ.
Hai là, bổ sung điều kiện hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.
Khoản 1 Điều 17 Luật Hỗ trợ DNNVV
quy định hai điều kiện để được xét hỗ trợ đối
với DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên,
để tăng trách nhiệm của doanh nghiệp trong
sử dụng nguồn lực hỗ trợ và tăng hiệu quả sử
dụng nguồn vốn hỗ trợ của NSNN cần sửa đổi
khoản 1 Điều 17 Luật Hỗ trợ DNNVV theo
hướng hạn chế hỗ trợ đối với trường hợp
DNNVV khởi nghiệp sáng tạo không thực
hiện đúng cam kết với cơ quan, tổ chức hỗ trợ
DNNVV đối với ít nhất 01 dự án hỗ trợ
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ bằng nguồn vốn NSNN.
Ba là, bổ sung quy định về trình tự, thủ
tục hỗ trợ doanh nghiệp thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước trong Đề án
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của các bộ,
địa phương.
Pháp luật hiện hành không quy định
trình tự, thủ tục hỗ trợ thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn NSNN mà dành cho các địa
phương ghi trong Đề án hỗ trợ DNNVV. Tuy
nhiên, trong Đề án hỗ trợ DNNVV cũng
chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Để
bảo đảm tính khả thi của chính sách hỗ trợ
thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ bằng nguồn vốn NSNN cho
DNVVN, cần quy định cụ thể trình tự, thủ
tục hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ bằng nguồn vốn
NSNN trong Đề án hỗ trợ DNNVV.
Bốn là, hoàn thiện quy định về nội dung
hỗ trợ doanh nghiệp thương mại hóa kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Cơ quan có thẩm quyền cần ban hành hệ
thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia làm cơ
sở cho việc ứng dụng vào sản xuất và đời sống
các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ
và PTCN, nhất là công nghệ cốt lõi của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Hiện nay, chế tài phạt tiền từ 6.000.000
đồng đến 10.000.000 đồng theo khoản 2
Điều 10 Nghị định số 51/2019/NĐ-CP đối
với tổ chức được giao quyền sở hữu, quyền
sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và
công nghệ và PTCN sử dụng NSNN khi vi
phạm nghĩa vụ báo cáo đại diện chủ sở hữu
nhà nước về hiệu quả khai thác, chuyển giao,
chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử
dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ và PTCN, vi phạm nghĩa vụ thông báo
với đại diện chủ sở hữu nhà nước khi không
còn khả năng khai thác quyền sử dụng kết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và
PTCN còn nhẹ, chưa đủ mức răn đe. Vì vậy,
cần tăng mức phạt tiền đối với sự vi phạm
nghĩa vụ báo cáo, nghĩa vụ thông báo của tổ
chức được giao quyền sở hữu, quyền sử
dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ và PTCN sử dụng NSNN. Năm là,
hoàn thiện quy định về lập dự toán, sử dụng,
quản lý, quyết toán ngân sách hỗ trợ doanh
nghiệp thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học.
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định số
54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính
phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa
học và công nghệ công lập theo hướng tăng
tính tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của
các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Ngoài ra, để tăng tính tự chủ của tổ chức
khoa học và công nghệ công lập, Chính phủ
nên mở rộng giới hạn trích lập quỹ thu nhập
tăng thêm hơn mức hiện nay (không quá 3
lần quỹ tiền lương ngạch, bậc).
- Sửa đổi Thông tư liên tịch số
27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015
của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng
Bộ Khoa học và Công theo hướng hài hòa
giữa quyền tự chủ của Chủ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quyền
điều tiết của tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm
vụ khoa học và công nghệ.
41Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Số 17 (417) - T9/202042
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
- Sửa đổi khoản 8 Điều 7 Thông tư liên
tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày
22/4/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ theo
hướng rút ngắn thời gian phê duyệt nhiệm
vụ khoa học và công nghệ; điều chỉnh kịp
thời định mức kỹ thuật, ngày công lao động;
tăng mức chi hỗ trợ quản lý chung nhiệm vụ
khoa học và công nghệ của tổ chức chủ trì
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
- Sửa đổi Điều 43 Luật Khoa học và
Công nghệ, khoản 1 Điều 42 Nghị định số
08/2014/NĐ-CP và Điều 17 Nghị định số
76/2018/NĐ-CP để tạo sự thống nhất với
nhau theo nguyên tắc các văn bản dưới luật
thống nhất với văn bản luật.
- Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài
chính cần ban hành thông tư liên tịch hướng
dẫn việc giao quyền sử dụng tài sản, việc
hoàn trả giá trị tài sản và việc phân chia lợi
nhuận với Nhà nước quy định tại khoản 3
Điều 7, khoản 3 Điều 19 và Điều 22 của
Nghị định số 70/2018/NĐ-CP17.
- Cần ban hành các tiêu chí khách quan
trong định giá kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ và PTCN, tài sản trí tuệ sử
dụng NSNN.
- Tiếp tục thúc đẩy, khuyến khích khu
vực tư nhân đầu tư hỗ trợ DNNVV để
TMHkết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ và PTCN; khuyến khích doanh nghiệp
đặt hàng hoặc liên kết với tổ chức khoa học
và công nghệ tổ chức nghiên cứu; tăng số
lượng và quy mô các quỹ phát triển khoa học
và công nghệ của doanh nghiệp; khuyến
khích các tập đoàn kinh tế tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết
hoặc hỗ trợ DNNVV để TMHkết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ và PTCN.
2.2. Đổi mới tổ chức thực hiện pháp
luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước
Thứ nhất, tăng tỷ lệ nhiệm vụ khoa học
và công nghệ được ứng dụng, TMHkết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ và PTCN
bằng nguồn vốn NSNN. Để thực hiện yêu
cầu này cần gắn kết chặt chẽ giữa nghiên
cứu với ứng dụng kết quả nghiên cứu ngay
từ giai đoạn tuyển chọn, giao, nghiệm thu
nhiệm vụ khoa học và công nghệ; tham gia
Hội đồng xét duyệt thuyết minh phải gồm
các nhà khoa học, chuyên môn, doanh
nghiệp có khả năng đánh giá tính khả thi của
việc ứng dụng kết quả nghiên cứu; xét chọn,
giao trực tiếp các cá nhân, tổ chức chủ trì
thực hiện nhiệm vụ khoa học có đủ điều
kiện, có năng lực, trách nhiệm, đủ thời gian
đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu khoa
học; tăng tỷ lệ phân bổ kinh phí cho nghiên
cứu phát triển trong cơ cấu phân bổ ngân
sách chi cho hoạt động khoa học và công
nghệ; tăng cường kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nghĩa vụ ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ và PTCN; tăng
cường sự hiểu biết và chia sẻ thông tin giữa
cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ với doanh nghiệp để
doanh nghiệp biết được năng lực của tổ chức
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ nắm bắt được nhu cầu của thị
trường và của doanh nghiệp.
Thứ hai, tập trung sự hỗ trợ của NSNN
đối với DNNVV trong việc triển khai nghiên
cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại
và phát triển sản phẩm cho một số ngành
công nghiệp, nông nghiệp được ưu tiên, y
học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con
người và các lĩnh vực then chốt được đề cập
trong Kết luận số 50-KL/TW ngày
30/5/2019 của Ban Bí thư như công nghiệp
mới, công nghiệp công nghệ cao như công
nghiệp hóa dược, sinh học, cơ điện tử, các
ngành tự động hóa; chế tạo, năng lượng
sạch, chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng và
công nghiệp môi trường; nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp
sinh học.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ
trợ, tài trợ cho hoạt động khoa học và công
nghệ và đổi mới sáng tạo của Quỹ phát triển
17 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/5/2018 quy hoạch việc quản lý, sử dụng tài sản được
hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước.
43Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ đổi
mới công nghệ quốc gia.
Thứ tư, phát triển mạng lưới trung gian
kết nối và hỗ trợ doanh nghiệp thương mại
hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Để TMHkết quả nghiên cứu khoa học và
công nghệ và PTCN thành công cần hỗ trợ
kết nối giữa người nghiên cứu với doanh
nghiệp và thị trường, cần xây dựng và phát
triển mạng lưới trung gian kết nối và hỗ trợ
doanh nghiệp trong tìm kiếm, tiếp cận, đánh
giá, tiếp nhận chuyển giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ; tư vấn về sở hữu trí tuệ; khai
thác và phát triển tài sản trí tuệ; thực hiện các
thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo
lường, chất lượng; thử nghiệm, hoàn thiện
sản phẩm mới, mô hình kinh doanh mới; hỗ
trợ về ứng dụng, chuyển giao công nghệ; xây
dựng, phát triển sản phẩm; thương mại hóa
sản phẩm; gọi vốn đầu tư; phát triển thị
trường.v.v..
Thứ năm, hỗ trợ nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của doanh nghiệp vừa và
nhỏ khởi nghiệp sáng tạo.
Thương mại hóa kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ cần nhân lực có khả
năng phân tích nhu cầu của thị trường và các
công nghệ tương tự của đối thủ cạnh tranh,
có kiến thức về định giá giá trị của công
nghệ mới, về sở hữu trí tuệ và khai thác và
phát triển tài sản trí tuệ, có trình độ về thiết
kế, xây dựng, hoạch định chiến lược thương
mại hóa, về truyền thông - marketing, về
đàm phán chuyển giao kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ, về pháp lý Do đó,
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ đào tạo để
tăng cường năng lực quản trị doanh nghiệp,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham
gia hoạt động TMHkết quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ và PTCN của DNNVV
khởi nghiệp sáng tạo .
Thứ sáu, thường xuyên đánh giá sơ kết,
tổng kết việc thực hiện Đề án hỗ trợ DNNVV
và hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp TMHkết
quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và
PTCN của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ bảy, tăng cường kiểm tra, giám sát việc
sử dụng kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ bằng nguồn vốn NSNN n
5. Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, Chỉ dẫn địa lý - di sản thiên nhiên và
văn hóa Việt, năm 2018.
6. Lê Mai Thanh - Đinh Thị Quỳnh Trang, “Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa
lý”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7, năm 2008.
7. Lê Việt Tuấn, Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật TP. HCM
và Đại học Lund, năm 2004.
8. Ninh Thị Thanh Thúy, Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo quy
định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ - Khoa luật ĐHQG Hà Nội, năm 2009.
9. Nguyễn Quế Anh, Chỉ dẫn địa lý - Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, trong sách
chuyên khảo: Nhà nước và Pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nxb. Công an
nhân dân - Hà Nội năm 2002.
10. Trần Thị Diệu Oanh, “Thuận lợi và khó khăn trong xây dựng cơ chế kiểm soát chỉ dẫn
địa lý ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04, năm 2007.
11. Vụ Pháp chế - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Các quy định pháp luật về sở
hữu công nghiệp, Nxb. Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2001.
12. Xuân Anh, “Chỉ dẫn địa lý nông sản - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 07, năm 2004.
BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ... (Tiếp theo trang 56)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ho_tro_doanh_nghiep_nho_va_vua_thuong_mai_hoa_ket_qua_nghien.pdf