Điều 59 của Dự thảo Luật PCTN (sửa
đổi) nêu hai phương án xử lý TS,TN không
giải trình được nguồn gốc một cách hợp lý,
chúng tôi cho rằng:
- Phương án 1 khoản 1 quy định:
Trường hợp có kết luận TS,TN thực tế của
người có nghĩa vụ kê khai lớn hơn TS,TN đã
kê khai hoặc có TS,TN tăng thêm mà người
kê khai không giải trình được một cách hợp
lý về nguồn gốc của TS,TN chênh lệch hoặc
tăng thêm đó và chưa có căn cứ xác định do
phạm tội mà có, thì trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh
TS,TN, cơ quan, đơn vị kiểm soát TS,TN gửi
Kết luận xác minh TS,TN đến cơ quan quản
lý thuế có thẩm quyền yêu cầu thực hiện việc
thu thuế thu nhập cá nhân theo quy định của
pháp luật về thuế.
- Phương án 2 khoản 1 quy định:
Trường hợp kết luận TS,TN thực tế của
người có nghĩa vụ kê khai lớn hơn TS,TN đã
kê khai hoặc có TS,TN tăng thêm mà người
kê khai không giải trình được một cách hợp
lý về nguồn gốc của TS,TN chênh lệch hoặc
ăng thêm đó và chưa có căn cứ xác định do
phạm tội mà có, thì trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh
TS,TN, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt
tiền bằng 45% giá trị của phần TS,TN chênh
lệch hoặc tăng thêm.
Trước hết, có thể nói rằng, TS,TN
không được kê khai (của người có nghĩa vụ
kê khai) về cơ bản là bất minh. Và trong số
tài sản bất minh thì tài sản tham nhũng là
chủ yếu. Sẽ có ý kiến biện minh rằng, nguồn
gốc số TS,TN lớn hơn hay tăng thêm là do
bạn bè tặng cho; bố mẹ có của nhưng không
có di chúc, cũng không trăng trối lại. nên
không thể kê khai. Chúng tôi cho rằng, bạn
bè, người thân tặng cho; của cải bố mẹ để
lại (nếu không có di chúc thì sẽ được Tòa án
xử lý theo pháp luật) đều là tài sản có nguồn
gốc (nguồn gốc là được tặng cho, nguồn gốc
là được chia thừa kế). Chỉ có TS,TN “mờ
ám” hoặc là tham nhũng, hoặc là được trả
công để làm việc phi pháp. thì mới không
dám kê khai.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các chế tài để công khai, minh bạch tài sản và thu nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bùi Ngọc Thanh*
* TS. Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Abstract
The disclosure, transparency of the assets and income of those
(especially those with high titles and powerful position) who are legally
subject to the declare are a discussable issue once those who are subject
to the declaration under the Law on Anti-Corruption but unwilling to
publicize and disclose their assets and incomes due to the publication
and transparency mechanism of assets and incomes have not provided its
efficiency and effectiveness. This article provides proposed punishment
for those who are subject to the assets and income declaration but do
not declare or declare dishonestly their assets and incomes, and also
provides recommendations of "all statements of assets and income
of the subject person shall be publicized to the people; firstly at their
residence places ... and at the local hall where the persons lives with two-
way correspondence of the Party and at the office where the persons
regularly work at. It is possible to publicize in the same manner as the
listed information for election of the National Assembly deputies”, as
well as "the unproven property (which is mainly the property driven
from corruption), for the best and most feasible option is nationalization".
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công khai, minh bạch,
kê khai tài sản thu nhập, chế tài,
sung công
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/06/2018
Biên tập : 11/06/2018
Duyệt bài : 13/06/2018
Article Infomation:
Keywords: disclosure; transparency;
assets and income declaration;
punishment; nationalization
Article History:
Received : 05 June 2018
Edited : 11 Jun 2018
Approved : 13 Jun 2018
HOÀN THIỆN CÁC CHẾ TÀI ĐỂ CÔNG KHAI,
MINH BẠCH TÀI SẢN VÀ THU NHẬP1
1 Bài viết thuộc Đề tài khoa học cấp Bộ “Xây dựng pháp luật về kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức, viên
chức - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nghiên cứu Lập pháp năm 2017-2019, do TS. Nguyễn Hoàng Thanh
làm Chủ nhiệm
Tóm tắt:
Hiện nay, việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có
nghĩa vụ kê khai (nhất là người có chức cao, quyền lớn) đang là một
vấn đề đáng nói khi thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng do người
có nghĩa vụ kê khai không muốn công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
và do cơ chế công khai, minh bạch tài sản, thu nhập chưa phát huy hiệu
quả. Bài viết đề xuất chế tài đối với những người có nghĩa vụ kê khai tài
sản, thu nhập nhưng không kê khai, kê khai không trung thực, và kiến
nghị “tất cả các bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê
khai phải được công khai, minh bạch trước nhân dân; trước hết là tại nơi
cư trú hợp pháp tại chi bộ nơi đảng viên sinh hoạt hai chiều và tại địa
bàn hoạt động thường xuyên của người có nghĩa vụ kê khai. Hoàn toàn
có thể công khai giống như niêm yết danh sách cử tri trong các cuộc
bầu cử”, đồng thời, “tài sản bất minh (trong đó chủ yếu là tài sản tham
nhũng) thì phương án tốt nhất, khả thi nhất là phải sung công”.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 12(364) T6/2018
Trong báo cáo Tổng kết 10 năm thực
hiện Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN)
số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính
phủ trình Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ
4 có kết luận về việc công khai, minh bạch
bản kê khai tài sản, thu nhập (TS,TN) như
sau: “Tình trạng lạm dụng bảo mật thông
tin, thiếu công khai, minh bạch với nhân
dân và trong nội bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi.
Trong một số cơ quan, đơn vị, các quy định
về dân chủ, giám sát chưa được quan tâm
đúng mức, có nơi thậm chí cản trở, vô hiệu
hóa, dẫn đến tình trạng vi phạm kéo dài, sai
phạm nghiêm trọng nhưng không được kịp
thời phát hiện, xử lý”.
Kết luận đúng đắn như vậy có nghĩa
là Chính phủ trực tiếp đặt ra vấn đề cho Ban
soạn thảo Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) phải
khắc phục về cơ bản các khuyết điểm đó,
nhất là khuyết điểm thiếu công khai, minh
bạch với nhân dân. Theo chúng tôi, để PCTN
nói chung, kê khai và công khai TS,TN nói
riêng có kết quả thực chất thì phải xử lý ít
nhất bốn loại vấn đề cốt lõi sau đây:
1. Người đứng đầu chỉ đạo phòng, chống
tham nhũng phải là người có đôi bàn tay sạch
Đây là vấn đề then chốt của mọi vấn đề.
Chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng thực sự
rất khó, vô cùng khó. Nhân dân thì đồng lòng,
nhất trí cao để PCTN, nhưng trong hàng ngũ
lãnh đạo, quản lý ở các ngành, các cấp, các
địa phương thì khác. Từ thực tế xã hội, có thể
phân ra 3 xu hướng: xu hướng thứ nhất kiên
quyết chống, triệt để PCTN, nhưng tiếc là xu
hướng này chưa thu hút được số đông tuyệt
đối; xu hướng thứ hai, chống tham nhũng “từ
cổ họng trở ra cửa miệng”, nói thì rất ghê
nhưng thực lòng thì muốn “đục nước, béo
cò”; loại thứ ba, “quan năm cũng ừ, quan tư
cũng gật”, “thuận theo chiều gió”, phía nào
“mạnh” thì dựa dẫm theo phía đó. Nhưng
có một thực tế khác đau đớn hơn là, các vụ
án tham nhũng đã và đang được xét xử cho
thấy, hầu hết bị can, bị cáo lại là người đứng
đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu, và
những người này trước khi bị xét xử là đảng
viên (từ các vụ Trịnh Xuân Thanh, Đinh La
Thăng, Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa
đến các vụ trước đây như Vinashin, Vinalies,
vụ chia chác đất công ở Đồ Sơn (Hải Phòng),
hay xa hơn là vụ PMU 18,vụ Đề án 112, vụ
Đường dây 500 KV... các bị cáo hầu hết là
người đứng đầu có chức vụ cao, có quyền
hành lớn).
Như đã biết, Luật PCTN hiện hành
nói chung và các Điều 53a, 54 nói riêng đã
giao cho người đứng đầu rất nhiều việc quan
trọng. Tuy nhiên, một khi họ đã tham nhũng
thì không đời nào họ “tự trảm mình” mà
ngược lại, họ làm động tác giả, đánh lừa dư
luận để bảo vệ chính mình. Và như thế, toàn
bộ bộ máy, cán bộ dưới quyền của họ đều bị
vô hiệu hóa. Đây cũng là nguyên nhân tối
quan trọng lý giải vì sao việc hô hào chống
tham nhũng thì rầm rộ mà kết quả của 10
năm thì lại... nhẹ tênh. Thực tế này đặt ra
nhiệm vụ cực kỳ nặng nề và cấp thiết cho
việc kiện toàn bộ máy, chuyển hóa căn bản
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII (về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ)
của Đảng trước khi Luật PCTN (sửa đổi) có
hiệu lực thi hành. Người đứng đầu ngành,
địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị về cơ
bản phải là người thực sự có dũng khí, quyết
tâm PCTN triệt để, “hai tay họ còn sạch sẽ”.
Đây cũng chính là một trong các lý do mà
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã có tới
11 lần nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của
người đứng đầu. Trong đó rất quan trọng là
đi đầu, tiên phong trong công cuộc chống
giặc nội xâm - tham nhũng.
2. Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa
đổi) phải xác lập ngay chế tài để không
thể kê khai gian dối
Kê khai TS,TN là công đoạn mang
nhiều ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, đây
là cuộc đấu tranh nội tâm ghê gớm, có nhiều
trường hợp khá gay gắt, quyết liệt của những
người có nghĩa vụ kê khai. Thường là đã khi
tham nhũng đến mức không thể lý giải được
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 12(364) T6/2018
nguồn gốc tài sản thì rất khó khai báo thật
thà, đầy đủ, trung thực. Tiếp đó, một khi
nhiều người kê khai gian dối, không trung
thực thì đương nhiên sau đó sẽ phát sinh một
khối lượng công việc đồ sộ, vô vàn khó khăn
ở các công đoạn xác minh, giám sát, thanh
tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng, tức
là dễ rơi vào tình trạng bị động truy tìm mệt
mỏi, hao tổn nhiều thời gian và công sức
mà không mấy kết quả. Sau nữa, nhiều nơi
thấy “khó quá, đành buông xuôi”! Do đó,
Luật PCTN (sửa đổi) phải thiết kế được “lối
đi độc đạo” chắc chắn (không có lối rẽ) để
người có nghĩa vụ kê khai phải khai đúng.
TS,TN phải kê khai, theo quy định tại Điều
38 của Dự thảo Luật (Dự thảo 2 trình Quốc
hội tại kỳ họp thứ 5 ngày 31/5/2018) có
4 nhóm:
1. Quyền sử dụng đất, nhà ở, công
trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền
với đất, nhà ở, công trình xây dựng.
2. Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ
có giá và các loại động sản khác mà mỗi tài
sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.
3. Tài sản, tài khoản ở nước ngoài.
4. Tổng thu nhập tính từ lần kê khai
trước đến thời điểm kê khai kế tiếp.
Mỗi nhóm cần có chế tài để người có
nghĩa vụ kê khai phải khai đúng (nếu không
khai thì mất, khai sai sẽ bị xử lý). Có thể lấy
nhóm 1 (nhà, đất) làm ví dụ: Sau kê khai lần
thứ nhất thì Nhà nước tổng kiểm kê bất động
sản. Nếu trên địa bàn (làng, xóm, tổ dân phố,
phường, xã, thị trấn) có nhà, đất, công trình
xây dựng là “chủ nhân lạ” thì phải truy xét
đến cùng cho tới khi xác định đúng chủ nhân
đích thực; nếu vô thừa nhận thì nhà, đất đó
được đưa vào tài sản chung của Nhà nước
(hiện nay công dân ở các địa bàn làng, xóm,
tổ dân phố, phường, xã, thị trấn, họ đều biết
khá rõ, nhà, đất đó chủ nhân đích thực là ai)...
3. Đối tượng kê khai tài sản, thu nhập
Theo quy định tại Điều 37 (của Dự
thảo 2 Luật PCTN (sửa đổi) thì diện có
nghĩa vụ kê khai rất rộng, bao gồm:
1. Cán bộ, công chức.
2. Sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó Tiểu
đoàn trưởng, người hưởng phụ cấp chức vụ
tương đương Phó Tiểu đoàn trưởng trở lên
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân; sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó Tiểu đoàn
trưởng, Phó Trưởng công an phường, thị
trấn, Phó đội trưởng trở lên trong cơ quan,
đơn vị thuộc Công an nhân dân.
3. Người giữ chức vụ tương đương
Phó Trưởng phòng trở lên tại các đơn vị sự
nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước,
người được cử làm đại diện phần vốn nhà
nước, phần vốn của doanh nghiệp nhà nước
và giữ chức danh quản lý từ Phó Trưởng
phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn
Nhà nước, doanh nghiệp có vốn của doanh
nghiệp nhà nước.
4. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân (HĐND) các cấp không phải
là cán bộ, công chức.
5. Người ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu HĐND.
Năm 2013, năm Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật PCTN số 27/2012/
QH13 có hiệu lực thi hành, cả nước đã có
620 nghìn người có nghĩa vụ kê khai TS,TN;
đến năm 2016 mở rộng ra tới gần 1,2 triệu
người có nghĩa vụ kê khai. Hầu như tất cả
những người đã kê khai, bản kê khai đều
được chấp nhận. Và qua 10 năm thi hành
Luật, chỉ phát hiện và xử lý có 17 trường
hợp kê khai không trung thực, trong khi đó,
ở thời gian này hàng loạt vụ tham nhũng lớn
được phát hiện (như đã nói ở trên). Nếu theo
dự kiến mở rộng diện người có nghĩa vụ kê
khai như Điều 37 của Dự thảo Luật thì ước
tính có tới gần 2 triệu người thuộc diện phải
kê khai. Với gần 1,2 triệu người, thậm chí
mới có 620 nghìn người có nghĩa vụ kê khai
mà còn chưa thể phát hiện được sai sót gì
đáng kể, thì khi Điều 37 của Dự thảo Luật
nói trên được thông qua thì liệu chừng việc
kiểm soát gần 2 triệu người kê khai có khả
thi không? Chắc chắn là không, thậm chí
còn hết sức phức tạp!
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 12(364) T6/2018
Vì vậy, để tiến hành kê khai TS,TN có
hiệu quả, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm
như kinh điển đã dạy “thà ít mà tốt”, trước
hết, ở Trung ương cần tập trung vào số cán
bộ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; ở
địa phương là số cán bộ do tỉnh ủy, thành
ủy và Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy, huyện
(quận, thị) ủy, quản lý. Thứ hai là những
người làm ở những nơi có nguy cơ dễ xảy
ra tham nhũng (thuế vụ, hải quan, xây dựng,
ngân hàng, tài chính, bất động sản...). Thứ ba
là những người có thu nhập cao bất thường,
gồm những người có tài sản, tài khoản ở
nước ngoài, những người là “khách hàng
được chăm sóc đặc biệt” của các ngân hàng
thương mại (họ gọi là khách VIP), có tiền
gửi hàng trăm tỷ đồng trở lên (có thông tin
nói, số người này lên tới hàng trăm ngàn).
Nói cho cùng thì trong ba nhóm người đó, số
người có tài sản và thu nhập cao bất thường
có tỷ lệ cao hơn hẳn so các nhóm người khác.
Thực hiện có hiệu quả việc kê khai TS,TN
đối với các đối tượng này thì đây chính là
thắng lợi đột phá trong cuộc chiến nóng bỏng
PCTN. Cũng từ đó, việc kê khai TS,TN của
các đối tượng khác nhất định sẽ được tiến
hành thuận lợi hơn. Đây cũng là chiến thuật
“đầu xuôi đuôi lọt”. Sau quá trình thực thi có
hiệu quả chắc chắn đối với các đối tượng trên
thì từng bước mở rộng diện, “tiến tới tất cả
đảng viên là cán bộ, công chức đều phải kê
khai tài sản” như Nghị quyết Trung ương 3
khóa X đã định hướng.
4. Công khai, minh bạch bản kê khai tài
sản, thu nhập
Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật
PCTN của Chính phủ đã chỉ rõ, tình trạng
lạm dụng bảo mật thông tin, thiếu công
khai, minh bạch với nhân dân và trong nội
bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Bản chất của
kết luận này là, không ít cơ quan, tổ chức,
đơn vị và người có nghĩa vụ kê khai (nhất
là người có chức vụ cao, quyền hành lớn)
không muốn công khai, minh bạch tài sản.
Như vậy rõ ràng là họ có vấn đề, không
“đàng hoàng” thì mới không dám công khai.
Trong khuyết điểm này có nguyên nhân từ
quy định của Luật PCTN hiện hành. Điều
6. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong
PCTN quy định: Công dân có quyền phát
hiện, tố cáo hành vi tham nhũng... Điều
8. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên quy định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên có trách nhiệm động viên nhân
dân tham gia tích cực vào việc PCTN; phát
hiện, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền xử lý người có hành vi tham
nhũng... Nhưng tới Điều 46a. Công khai bản
kê khai tài sản lại chỉ quy định: Bản kê khai
tài sản của người có nghĩa vụ kê khai phải
được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị người đó thường xuyên làm việc. Nghĩa
là Bản kê khai tài sản của người có nghĩa
vụ kê khai chỉ nội bộ nơi làm việc biết với
nhau. Nhưng ngay cả trong nội bộ cơ quan,
tổ chức, đơn vị cũng khó có thể công khai, vì
Điều 46a quy định chỉ có hai hình thức công
khai, hoặc là công bố tại cuộc họp, hoặc là
niêm yết tại trụ sở. Trên thực tế, hầu như
không mấy nơi mà cơ quan, tổ chức, đơn vị
đem cả tệp bản kê khai ra đọc lần lượt từng
bản của từng người tại cuộc họp, mà nếu có
đọc thì thông tin cũng trượt đi như “nước
đổ lá môn”. Còn niêm yết tại trụ sở thì có
nơi này, nơi kia thực hiện nhưng không mấy
ai biết. Nhiều cơ quan, nhiều tổng công ty...
có nhiều nơi làm việc, trải khắp cả nước thì
niêm yết ở đâu, ai đi được đến đó để xem?
Đó là chưa nói đến có những phòng niêm
yết phải luôn có người “hướng dẫn” trông
coi, mà thực chất là canh gác, theo dõi xem
ai đến xem và đến xem để làm gì!
Tại quy định của Điều 6 và Điều 8
nói trên, Luật cho phép công dân có quyền,
(thậm chí là nghĩa vụ) phòng, chống, phát
hiện, kiến nghị xử lý tham nhũng, nhưng lại
không cho nhân dân biết bản kê khai tài sản
và thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
thì có khác nào đánh đố người dân. Giao cho
Mặt trận Tổ quốc nhiệm vụ nặng nề như thế,
nhưng mỗi tổ chức Mặt trận cùng lắm cũng
chỉ biết mọi việc trong nội bộ tổ chức của
mình. Như vậy, Luật hiện hành đã thiếu tính
khả thi ngay từ khi ban hành, do mâu thuẫn:
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 12(364) T6/2018
muốn chống tham nhũng nhưng lại không
muốn công khai, minh bạch TS,TN của
người có nghĩa vụ kê khai trước nhân dân.
Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) lần này
phải khắc phục cho được khiếm khuyết mâu
thuẫn này. Nghĩa là, tất cả các bản kê khai
TS,TN của người có nghĩa vụ kê khai phải
được công khai, minh bạch trước nhân dân;
trước hết là tại nơi cư trú hợp pháp (thôn,
bản, tổ dân phố thuộc xã, phường, thị trấn;
chi bộ nơi đảng viên sinh hoạt hai chiều phải
được biết) và tại địa bàn hoạt động thường
xuyên của người có nghĩa vụ kê khai. Hoàn
toàn có thể công khai giống như niêm yết
danh sách cử tri trong các cuộc bầu cử (như
ý kiến của một đại biểu Quốc hội đã phát
biểu tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV:
“treo ở nơi dân có thể xem được”).
Ngoài ra cũng có một phương án khác
tuy có tốn kém hơn chút ít, đó là, lập một
website, đưa tất cả các bản kê khai tài sản
và thu nhập lên đó, ai cần nghiên cứu, tìm
hiểu thì truy cập.
Rất tiếc là, Dự thảo Luật PCTN (sửa
đổi) lần này tuy đã thấy rõ nhược điểm căn
bản nhưng lại không sửa chữa, tức là vẫn
không quy định về công khai, minh bạch
bản kê khai tài sản và thu nhập trước nhân
dân. Cụ thể là:
1. Bản kê khai TS,TN của người có
nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường
xuyên làm việc.
2. Bản kê khai TS,TN của người được
dự kiến bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải
được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín
nhiệm khi tiến hành quy trình bổ nhiệm.
3. Bản kê khai TS,TN của người ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND phải
được công khai theo quy định của pháp luật
về bầu cử.
4. Bản kê khai TS,TN của người dự
kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội,
HĐND phải được công khai với đại biểu
Quốc hội, đại biểu HĐND trước khi bầu,
phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai
được thực hiện theo quy định của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
5. Bản kê khai TS,TN của người dự
kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại
doanh nghiệp nhà nước được công khai tại
cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành
bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng
Thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ
lãnh đạo, quản lý.
6. Chính phủ quy định chi tiết về
thời điểm, hình thức công khai bản kê khai
TS,TN tại các khoản 1, 2 và 5 Điều này.
Vấn đề đáng quan tâm nữa là, Dự thảo
Luật lần này đã bỏ hẳn Điều 8 của Luật hiện
hành, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên có trách nhiệm động viên
nhân dân tham gia tích cực vào việc PCTN;
phát hiện, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi
tham nhũng; giám sát việc thực hiện pháp
luật về PCTN”. Một hệ thống cơ quan “đại
đoàn kết toàn dân” từ trung ương đến địa
phương, có chức năng giám sát, phản biện,
vì sao lại đưa họ ra khỏi công cuộc phòng,
chống giặc nội xâm - tham nhũng? Vấn đề
là, Luật PCTN (sửa đổi) phải có điều, khoản
quy định điều kiện để họ làm tròn sứ mệnh
PCTN chứ không phải “gạt” họ ra. Điều kiện
đó không có gì khác là công khai, minh bạch
hóa bản kê khai tài sản và thu nhập của người
có nghĩa vụ phải kê khai trước nhân dân.
Có ý kiến nói rằng, công khai bản kê
khai TS,TN trước nhân dân là vấn đề phức
tạp nên phải thận trọng (ngụ ý là chưa nên
công khai trước nhân dân). Có lẽ nên đặt
ngược lại vấn đề là, càng để lâu không công
khai bản kê khai TS,TN trước nhân dân thì
càng tích tụ thêm nhiều dư luận phức tạp,
càng khó khăn cho công tác PCTN, do đó
nên cân nhắc phải sớm công khai, quy định
ngay vào Luật PCTN (sửa đổi) lần này thì
hơn. Lại có ý kiến biện hộ rằng, đó là vấn đề
“bí mật đời tư”, cần tế nhị. Nhưng, “cho đến
nay, pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định
rõ ràng về “bí mật đời tư” là gì, phạm vi của
“bí mật đời tư” như thế nào, mà chỉ có một số
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 12(364) T6/2018
quy định về vấn đề này trong Hiến pháp năm
2013; Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Giao
dịch điện tử năm 2005; Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)”2. Chúng
tôi cũng đã xem lại Điều 21 Hiến pháp năm
2013, Bộ luật Dân sự; Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân; Bộ luật Hình sự năm 2015 (Luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2017),
trong đó có Chương XV. Các tội xâm phạm
quyền tự do của con người, quyền tự do, dân
chủ của công dân. Tất cả các điều, khoản
trong các đạo luật trên cũng chỉ nói đến bí
mật cá nhân, danh dự, uy tín, thư tín, điện
thoại, trao đổi thông tin... mà không có điều,
khoản nào nói về quyền bảo vệ “bí mật tài
sản cá nhân”.
5. Về hai phương án xử lý tài sản, thu
nhập không giải trình được nguồn gốc
Điều 59 của Dự thảo Luật PCTN (sửa
đổi) nêu hai phương án xử lý TS,TN không
giải trình được nguồn gốc một cách hợp lý,
chúng tôi cho rằng:
- Phương án 1 khoản 1 quy định:
Trường hợp có kết luận TS,TN thực tế của
người có nghĩa vụ kê khai lớn hơn TS,TN đã
kê khai hoặc có TS,TN tăng thêm mà người
kê khai không giải trình được một cách hợp
lý về nguồn gốc của TS,TN chênh lệch hoặc
tăng thêm đó và chưa có căn cứ xác định do
phạm tội mà có, thì trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh
TS,TN, cơ quan, đơn vị kiểm soát TS,TN gửi
Kết luận xác minh TS,TN đến cơ quan quản
lý thuế có thẩm quyền yêu cầu thực hiện việc
thu thuế thu nhập cá nhân theo quy định của
pháp luật về thuế.
- Phương án 2 khoản 1 quy định:
Trường hợp kết luận TS,TN thực tế của
người có nghĩa vụ kê khai lớn hơn TS,TN đã
kê khai hoặc có TS,TN tăng thêm mà người
kê khai không giải trình được một cách hợp
lý về nguồn gốc của TS,TN chênh lệch hoặc
2 Dẫn từ Cổng thông tin Bộ Tư pháp, ngày 8/4/2016.
3 Thư viện Quốc hội, Xử lý hành vi làm giàu bất chính theo Công ước của Liên hiệp quốc; tài liệu tham khảo; Hà Nội,
tháng 5/2018.
tăng thêm đó và chưa có căn cứ xác định do
phạm tội mà có, thì trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh
TS,TN, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt
tiền bằng 45% giá trị của phần TS,TN chênh
lệch hoặc tăng thêm.
Trước hết, có thể nói rằng, TS,TN
không được kê khai (của người có nghĩa vụ
kê khai) về cơ bản là bất minh. Và trong số
tài sản bất minh thì tài sản tham nhũng là
chủ yếu. Sẽ có ý kiến biện minh rằng, nguồn
gốc số TS,TN lớn hơn hay tăng thêm là do
bạn bè tặng cho; bố mẹ có của nhưng không
có di chúc, cũng không trăng trối lại... nên
không thể kê khai. Chúng tôi cho rằng, bạn
bè, người thân tặng cho; của cải bố mẹ để
lại (nếu không có di chúc thì sẽ được Tòa án
xử lý theo pháp luật) đều là tài sản có nguồn
gốc (nguồn gốc là được tặng cho, nguồn gốc
là được chia thừa kế). Chỉ có TS,TN “mờ
ám” hoặc là tham nhũng, hoặc là được trả
công để làm việc phi pháp... thì mới không
dám kê khai.
Do vậy, hai phương án Dự thảo Luật
đưa ra nói trên đều không khả thi, nếu không
muốn nói là kỳ lạ. Kỳ lạ vì, cả hai phương
án đều nghiễm nhiên thừa nhận “sự ăn chia”
giữa Nhà nước và kẻ tham nhũng. Sao lại có
sự thỏa thuận trớ trêu như vậy? Do quản lý
yếu kém mà Nhà nước mất tài sản, rồi Nhà
nước lại đặt ra một thứ thuế ở cả hai phương
án để lấy lại một phần tài sản đã mất (45%
ở phương án 2). Trong công tác thuế, Nhà
nước vẫn có chủ trương “nuôi dưỡng nguồn
thu”, không lẽ lại “nuôi dưỡng tham nhũng”
để tăng thu?
Chúng ta có thể tham khảo cách làm
(kinh nghiệm) của một số nước đã và đang
xử lý việc này3:
- Ở Liên bang Nga, khi những công
chức và những người có liên quan không đưa
(Xem tiếp trang 64)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 12(364) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cac_che_tai_de_cong_khai_minh_bach_tai_san_va_thu.pdf