Thứ tư, về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại của Giám đốc Văn phòng đăng
ký đất đai thì Nghị định số 75/2012/NĐ-
CP quy định hợp lý hơn Luật Khiếu nại
năm 2011. Tuy nhiên, tình trạng nghị
định “vượt” luật là điều không thể
khuyến khích. Do đó, cần sửa đổi Luật
Khiếu nại năm 2011 theo hướng tiếp thu
thẩm quyền giải quyết khiếu nại được
quy định trong Nghị định số
75/2012/NĐ-CP. Có như vậy mới đảm
bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp
luật.
Cuối cùng, sửa đổi Điều 33 Luật
Khiếu nại năm 2011 theo hướng bỏ loại
giấy tờ mang tính bắt buộc trong hồ sơ
giải quyết khiếu nại lần hai là “quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu”. Nhà
làm luật nên quy định theo hướng linh
hoạt là “quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu” chỉ áp dụng đối với trường hợp
đã giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng
vẫn tiếp tục khiếu nại. Trường hợp khiếu
nại lần đầu không được giải quyết mà
người sử dụng đất khiếu nại lần hai thì
không cần loại giấy tờ này. Như vậy,
Điều 33 Luật Khiếu nại năm 2011 được
sửa như sau: “Trường hợp khiếu nại lần
hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm
theo quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu (nếu có), các tài liệu có liên quan
cho người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai”. Sửa đổi này tuy nhỏ
nhưng sẽ đảm bảo cho việc khiếu nại và
giải quyết khiếu nại lần hai được diễn ra
hiệu quả, đúng pháp luật./.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
42
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
Cao Vũ Minh*
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
(Email: cvminh@hcmulaw.edu.vn)
Ngày nhận: 15/11/2017
Ngày phản biện: 10/12/2017
Ngày duyệt đăng: 20/12/2017
TÓM TẮT
Khiếu nại là phương thức quan trọng giúp người sử dụng đất bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trước các quyết định hành chính trái pháp luật. Tuy nhiên, các quy định về
thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai còn nhiều bất cập. Có thể kể đến
những bất cập như: i. thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính do tập
thể Ủy ban nhân dân các cấp ban hành chưa được quy định cụ thể; ii. thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai cuả Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chưa hợp lý; iii. tồn
tại sự mâu thuẫn về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của đơn
vị sự nghiệp công lập thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai Những bất cập này
đã gây trở ngại rất lớn cho người sử dụng đất trong việc thực hiện quyền khiếu nại của
mình Bài viết phân tích các quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Đất đai năm
2013 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, đồng thời chỉ ra một số bất
cập, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Người sử dụng đất, khiếu nại, quyết định hành chính, thẩm quyền.
Trích dẫn: Cao Vũ Minh, 2017. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế
Trường Đại học Tây Đô. 02: 42-54.
*Tiến sĩ Cao Vũ Minh, Giảng viên Khoa luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
43
1. Khiếu nại về đất đai - thực trạng
một góc nhìn
Đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống xã hội và là tài sản thiết
thân của mỗi con người. Theo quy định
pháp luật, đất đai được trao quyền sử
dụng cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình,
cộng đồng dân cư (gọi chung là người sử
dụng đất). Trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về đất đai,
cơ quan hành chính, người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính có thể
ban hành các quyết định hành chính nhất
định. Các quyết định hành chính này tác
động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người sử dụng đất. Để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình trước các
quyết định hành chính trái pháp luật,
người sử dụng đất có quyền khiếu nại và
khởi kiện. Thực tiễn cho thấy, đối với
các vụ tranh chấp đất đai phức tạp, việc
giải quyết tranh chấp bằng thủ tục hành
chính thông qua con đường khiếu nại
chiếm ưu thế hơn so với giải quyết tranh
chấp bằng thủ tục tố tụng thông qua con
đường khởi kiện.1 Điều này cũng là dễ
hiểu bởi một khi đã chọn con đường tòa
án, người sử dụng đất không còn cơ hội
quay trở lại khiếu nại. Ngược lại, nếu đã
chọn con đường khiếu nại thì dù ở cấp
nào người sử dụng đất cũng luôn có khả
năng khởi kiện tại tòa án.
1 Nguyễn Mạnh Hùng, Phân định thẩm quyền giải
quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2015, tr. 47.
Theo thống kê, từ năm 2003 - 2011,
các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp
nhận và xử lý 1.219.625 đơn thư, khiếu
nại, tố cáo, trong đó đơn thư khiếu nại,
tố cáo về đất đai chiếm khoảng 70%.
Khiếu nại, tố cáo về đất đai có xu hướng
tăng lên trong giai đoạn 2008 - 2011.2
Từ năm 2012 - 2016, sau 4 năm thực
hiện Luật Khiếu nại năm 2011 và hơn 2
năm thực hiện Luật Đất đai năm 2013,
các cơ quan hành chính đã tiếp
1.503.607 lượt người đến khiếu nại, tố
cáo về đất đai.3
Từ năm 2012 đến tháng 6 năm 2016,
chỉ tính riêng Bộ Tài nguyên và Môi
trường (Bộ TNMT) đã tiếp 1.884 lượt
công dân4 đến khiếu nại, tố cáo về đất
đai với tổng số 11.814 lượt người, trong
đó có 387 lượt đoàn đông người. Trong
thời gian này, Bộ TNMT cũng tiếp nhận,
xử lý 17.630 lượt đơn,5 trong đó có
7.227/17.630 vụ việc đủ điều kiện xử lý
2 Báo cáo số 304/BC-CP ngày 26/10/2012 của Chính
phủ thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định
hành chính về đất đai, tr. 6.
3 Thanh tra Chính phủ, Báo cáo công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2012 - 2015 và
nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới tại Hội nghị
trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo ngày 7/10/2016 (theo Công
điện số 771/CĐ-VPCP ngày 4/10/2016 của Văn
phòng Chính phủ).
4 Năm 2012 có 296 lượt, năm 2013 có 381 lượt, năm
2014 có 359 lượt, năm 2015 có 538 lượt, 6 tháng
2016 có 310 lượt.
5 Năm 2012 có 4.600 lượt đơn, năm 2013 có 4.005
lượt đơn, năm 2014 có 4.021 lượt đơn, năm 2015 có
3.373 lượt đơn, 6 tháng đầu năm 2016 có 1.631 lượt
đơn.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
44
(có 10.403 lượt đơn trùng, chiếm 59% số
đơn). Trong 7.227 vụ việc đủ điều kiện
xử lý, có 5.022 vụ việc khiếu nại hành
chính về đất đai (chiếm 69,5%), 951 vụ
việc tranh chấp đất đai (chiếm 13,2%),
531 vụ việc đòi lại đất cũ (chiếm 7,3%).
Kết quả xử lý 7.227 vụ việc đủ điều kiện
cho thấy, có 5911 vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của các địa phương
(chiếm 81,2%), chỉ có 271 vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Bộ TNMT
(3,8%).6
Từ phân tích trên có thể thấy, khiếu
nại về đất đai là việc người sử dụng đất
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính của cơ quan hành chính, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính
khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai
Trong lĩnh vực đất đai, việc khiếu nại
đến đúng người có thẩm quyền giải
quyết là nghĩa vụ của người sử dụng
đất.7 Do đó, vấn đề thực tiễn đặt ra là
phải xác định được chủ thể có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai.
6 Báo cáo số 82/BC-BTNMT về công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ngày
3/10/2016 của Bộ TNMT.
7 Điểm a khoản 2, Điều 12 Luật Khiếu nại năm 2011
quy định: “người khiếu nại có nghĩa vụ khiếu nại
đến đúng người có thẩm quyền giải quyết”.
Về mặt lý luận, thẩm quyền là một hệ
thống các yếu tố cấu thành bao gồm hai
nhóm: i. các quyền và nghĩa vụ chung để
thực hiện các chức năng nhất định; ii.
các quyền hạn cụ thể để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chung nói trên.8 Với
tư duy đó, có thể hiểu: thẩm quyền giải
quyết khiếu nại về đất đai là phạm vi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về
đất đai được pháp luật quy định, để giải
quyết các tranh chấp về đất đai theo thủ
tục hành chính.
Căn cứ vào quy định pháp luật, việc
phân định thẩm quyền giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực đất đai được thể hiện
như sau:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
các cấp giải quyết khiếu nại lần đầu đối
với quyết định hành chính trong lĩnh vực
đất đai của mình, của người do mình
quản lý trực tiếp;
- Thủ trưởng các cơ quan quản lý đất
đai và các cơ quan, đơn vị liên quan
khác9 giải quyết khiếu nại lần đầu đối
với quyết định hành chính trong lĩnh vực
đất đai của mình hoặc của cán bộ công
chức do mình quản lý trực tiếp;
8 Nguyễn Cửu Việt, “Cải cách hành chính: về khái
niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
8, năm 2005.
9 Điều 24 Luật Đất đai năm 2013, Điều 4, 5, 6 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP và Điều 2 Nghị định số
01/2017/NĐ-CP.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
45
- Bộ trưởng Bộ TNMT giải quyết lần
đầu đối với khiếu nại quyết định hành
chính của mình hoặc của người mình
trực tiếp quản lý;
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai về đất đai thuộc Bộ trưởng Bộ
TNMT; Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp
tỉnh; Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có
đơn vị trực thuộc mà thủ trưởng các cơ
quan đơn vị này đã giải quyết khiếu nại
lần đầu nhưng quyết định giải quyết đó
không được người sử dụng đất đồng ý,
tiếp tục khiếu nại lên cấp trên.
3. Những bất cập về thẩm quyền
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai
Một là, quy định “người sử dụng đất
có nghĩa vụ khiếu nại đến đúng người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại” gây
khó khăn cho người khiếu nại.
Như đã trình bày, quy định người sử
dụng đất có nghĩa vụ khiếu nại đến đúng
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại là cần thiết nhằm tránh tình trạng
khiếu nại tràn lan, vượt cấp. Tuy nhiên,
xét ở chiều ngược lại thì quy định này
dường như đang đẩy phần khó về cho
người khiếu nại bởi pháp luật đất đai rất
đồ sộ, thường xuyên thay đổi, làm cho
việc xác định thẩm quyền của cơ quan
nào tiếp nhận, giải quyết khiếu nại là hết
sức khó khăn.10
10 Đơn cử, để Luật Đất đai năm 2003 đi vào được
cuộc sống phải cần đến hơn 120 văn bản hướng dẫn
Theo Luật Đất đai năm 2003, việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân
cư thuộc thẩm quyền của UBND cấp
huyện. Khi Luật Đất đai năm 2013 có
hiệu lực thì những trường hợp đã được
cấp giấy chứng nhận mà phải cấp mới
giấy chứng nhận hoặc cấp đổi, cấp lại
giấy chứng nhận sẽ do Sở Tài nguyên và
Môi trường (Sở TNMT) thực hiện. Sau
đó, Chính phủ lại ban hành Nghị định số
01/2017/NĐ-CP ngày 6/01/2017 quy
định hệ thống Văn phòng đăng ký đất
đai được thực hiện một số nhiệm vụ
quản lý nhà nước về đất đai. Theo nghị
định này, Văn phòng đăng ký đất đai
hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai được chứng nhận quyền sở hữu nhà
ở và tài sản gắn liền với đất vào giấy
chứng nhận đã cấp theo quyết định của
UBND cấp tỉnh. Thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận như đã nêu là khá phức tạp,
thậm chí chồng chéo lẫn nhau. Trên thực
tế, người sử dụng đất nếu thiếu kiến thức
pháp lý và thông tin sẽ rất khó khăn
trong việc xác định chính xác chủ thể có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Hãy
thử hình dung: người sử dụng đất nộp
đơn khiếu nại nhưng không chủ thể nào
đứng ra thụ lý vì cho rằng không thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình. Lúc
thi hành. Năm 2008, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương đã đưa ra nhận định: cứ 1 trang luật đất
đai thì phải cần đến hơn 19,5 trang văn bản hướng
dẫn thi hành. Có thể nói không có lĩnh vực nào văn
bản pháp luật lại nhiều như vậy.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
46
này, người sử dụng đất chỉ có “cứu
cánh” duy nhất là gửi đơn lên Bộ trưởng
Bộ TNMT. Điều này sẽ làm cho công
việc của Bộ trưởng Bộ TNMT vốn đã
quá nhiều, nay lại càng thêm quá tải.
Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp,
việc nộp đơn lên Bộ trưởng Bộ TNMT,
chờ đợi Bộ trưởng Bộ TNMT giải quyết
thẩm quyền thuộc về chủ thể nào thì
thời hiệu khiếu nại đã hết. Khi thời hiệu
đã hết thì người sử dụng đất cũng mất
luôn quyền khiếu nại.
Hai là, pháp luật hiện hành chưa quy
định cụ thể thẩm quyền giải quyết khiếu
nại đối với quyết định hành chính do tập
thể UBND các cấp ban hành.
Trong lĩnh vực đất đai, có rất nhiều
quyết định hành chính do tập thể UBND
các cấp ban hành. Cụ thể, theo Điều 66
Luật Đất đai năm 2013, thẩm quyền thu
hồi đất thuộc về tập thể UBND cấp tỉnh
và cấp huyện. Như vậy, quyết định thu
hồi đất của tập thể UBND cấp tỉnh và
cấp huyện có thể trở thành quyết định
hành chính bị khiếu nại.11 Tuy nhiên,
chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại đối với quyết định hành chính
của tập thể UBND các cấp lại chưa được
quy định rõ ràng.
11 Khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy
định: “quyết định hành chính là văn bản do cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để
quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần
đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”.
Theo Luật Khiếu nại năm 2011, người
giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại.12 Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
chúng tôi, thẩm quyền giải quyết khiếu
nại bao giờ cũng thuộc về cá nhân chứ
không thuộc về cơ quan, tổ chức.13 Do
đó, có thể trả lời chắc chắn việc giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành
chính của tập thể UBND các cấp không
thể thuộc về chính tập thể UBND. Vậy,
thẩm quyền này có thuộc về cá nhân
Chủ tịch UBND không?
Tham khảo các Điều 17, 18, 21 Luật
Khiếu nại năm 2011 thì pháp luật không
đặt ra trường hợp Chủ tịch UBND có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu
đối với quyết định hành chính của tập
thể UBND cùng cấp. Vì lẽ đó mà Chủ
tịch UBND cấp trên trực tiếp cũng
không có quyền giải quyết khiếu nại lần
hai đối với quyết định hành chính của
tập thể UBND cấp dưới trực tiếp đã giải
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Như
vậy, có hai khả năng xảy ra. Khả năng
thứ nhất là nhà làm luật chưa dự liệu
được tình huống Chủ tịch UBND giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành
chính của tập thể UBND. Nếu khả năng
này xảy ra thì đồng nghĩa với việc pháp
luật đã “bỏ ngỏ” thẩm quyền giải quyết
khiếu nại đối với quyết định hành chính
12 Khoản 6 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
13 Cao Vũ Minh, “Để khiếu nại xứng tầm là một
quyền hiến định”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
10, năm 2012.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
47
của tập thể UBND các cấp. Khả năng
thứ hai, nhà làm luật đã đồng nhất đối
tượng khiếu nại là quyết định hành chính
của tập thể UBND với quyết định hành
chính của cá nhân Chủ tịch UBND. Tuy
nhiên, khả năng thứ hai này ít khi xảy ra
bởi theo pháp luật hiện hành, thẩm
quyền ban hành quyết định hành chính
của tập thể UBND và của cá nhân Chủ
tịch UBND là hoàn toàn khác nhau.14
Như vậy, dù xảy ra khả năng thứ nhất
hay khả năng thứ hai thì đều có sự mâu
thuẫn về mặt pháp lý và sẽ gây lúng túng
trong thực tiễn giải quyết khiếu nại về
đất đai. Nguy hiểm hơn, sự bất cập này
sẽ tạo kẽ hở để cán bộ công chức làm
công tác tiếp công dân từ chối tiếp nhận
giải quyết đơn thư khiếu nại của người
sử dụng đất.
Ba là, quy định “Bộ trưởng Bộ TNMT
giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu của
Chủ tịch UBND cấp tỉnh” không khả thi
trong thực tiễn giải quyết khiếu nại.
Khoản 1 Điều 7 Luật Khiếu nại năm
2011 quy định: “trường hợp người khiếu
nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời
hạn quy định mà khiếu nại không được
giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai
lên thủ trưởng cấp trên trực tiếp của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu
14 Khoản 5 Điều 22 Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 quy định: “Chủ tịch UBND cấp
tỉnh đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản trái
pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện”.
nại lần đầu”. Khoản 3 Điều 23 Luật
Khiếu nại năm 2011 lại quy định Bộ
trưởng có thẩm quyền “giải quyết khiếu
nại lần hai đối với quyết định hành
chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh có
nội dung thuộc thẩm quyền quản lý nhà
nước của bộ, ngành đã giải quyết lần
đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại
lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa
được giải quyết”. Như vậy, trong lĩnh
vực đất đai, Bộ trưởng Bộ TNMT có
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối
với quyết định hành chính của Chủ tịch
UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu
nhưng còn khiếu nại. Tuy nhiên, quy
định này tạo ra sự xung đột pháp luật,
gây khó khăn cho việc giải quyết khiếu
nại và không đáp ứng được sự kỳ vọng
của người khiếu nại.
Về mặt pháp lý, xung đột xảy ra ngay
trong nội tại của pháp luật khiếu nại và
giữa pháp luật khiếu nại với pháp luật
chung về tổ chức, hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Theo pháp luật thì Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất,15 UBND cấp tỉnh là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ.16 Chủ tịch
UBND cấp tỉnh là người đứng đầu
UBND cấp tỉnh17 chịu trách nhiệm trước
Thủ tướng Chính phủ. Theo Luật Tổ
15 Điều 1 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
16 Điều 8 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
17 Điều 22 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2015.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
48
chức Chính phủ năm 2015 thì Thủ tướng
Chính phủ có quyền điều động, đình chỉ
công tác, cách chức Chủ tịch UBND cấp
tỉnh. Trong khi đó, Bộ trưởng Bộ TNMT
hoàn toàn không có những quyền hạn
này. Như vậy, xét về thứ bậc hành chính
thì Thủ tướng Chính phủ mới là thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của Chủ tịch
UBND cấp tỉnh chứ không phải là Bộ
trưởng Bộ TNMT. Do đó, Điều 23 Luật
Khiếu nại năm 2011 quy định Bộ trưởng
Bộ TNMT “giải quyết khiếu nại lần hai
đối với quyết định hành chính của Chủ
tịch UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần
đầu nhưng còn khiếu nại” là không phù
hợp với nguyên tắc “thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai thuộc về thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu” được nêu tại khoản 1 Điều 7 Luật
Khiếu nại năm 2011.
Theo khoản 8 Điều 28 Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2015, nếu phát hiện văn
bản của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên thì Thủ tướng Chính
phủ có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc
bãi bỏ văn bản đó. Đối với Bộ trưởng Bộ
TNMT, nếu phát hiện văn bản của Chủ
tịch UBND cấp tỉnh trái với các văn bản
về ngành, lĩnh vực được phân công thì
chỉ có quyền đề nghị Chủ tịch UBND
cấp tỉnh đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ văn bản đó. Nếu Chủ tịch UBND cấp
tỉnh không chấp hành thì báo cáo Thủ
tướng Chính phủ quyết định.18 Với thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nếu
phát hiện nội dung giải quyết lần đầu
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh chưa phù
hợp hoặc chưa đúng quy định pháp luật
thì Bộ trưởng Bộ TNMT có quyền yêu
cầu Chủ tịch UBND cấp tỉnh sửa đổi,
hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định
hành chính.19 Câu hỏi đặt ra nếu “Bộ
trưởng Bộ TNMT đã yêu cầu nhưng Chủ
tịch UBND cấp tỉnh không sửa đổi, hủy
bỏ quyết định hành chính” thì giải quyết
thế nào? Trong trường hợp này, Bộ
trưởng Bộ TNMT chỉ có quyền báo cáo
Thủ tướng Chính phủ quyết định chứ
không có quyền áp dụng chế tài đối với
Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Chính từ bất
cập này mà trong thực tiễn áp dụng pháp
luật, nhiều quyết định giải quyết khiếu
nại lần hai của Bộ trưởng Bộ TNMT
không được Chủ tịch UBND cấp tỉnh
nghiêm chỉnh thi hành.
Bốn là, pháp luật không quy định cho
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai là một hạn chế.
18 Khoản 2 Điều 36 Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015.
19 Điểm h khoản 2 Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011
quy định những nội dung bắt buộc phải có trong
quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là: “kết luận
nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hay sai
toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng
một phần thì yêu cầu Chủ tịch UBND cấp tỉnh sửa
đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành
chính bị khiếu nại”.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
49
Theo Luật Khiếu nại năm 2011 và
Luật Đất đai năm 2013, Thủ tướng
Chính phủ không phải là một chủ thể có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Việc
không quy định thẩm quyền giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai cho Thủ
tướng Chính phủ đã phần nào hạn chế
quyền khiếu nại của người sử dụng đất
và là nguyên nhân chính của những hạn
chế trong phân cấp thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai. Quy định Bộ
trưởng Bộ TNMT giải quyết khiếu nại
lần hai đối với quyết định hành chính
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại như
đã phân tích vừa không phù hợp với
nguyên tắc thứ bậc hành chính, vừa
không đảm bảo hiệu quả giải quyết
khiếu nại. Xét về góc độ pháp lý, Thủ
tướng Chính phủ mới là thủ trưởng cấp
trên trực tiếp của Chủ tịch UBND cấp
tỉnh. Do đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ
không bị vướng tâm lý e ngại và sẽ
quyết đoán hơn trong việc giải quyết
khiếu nại lần hai. Chính vì thế, các quyết
định giải quyết khiếu nại của Thủ tướng
Chính phủ có hiệu lực thi hành cao, đảm
bảo công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất. Đáng
tiếc, Luật Khiếu nại năm 2011 đã không
quy định quyền giải quyết khiếu nại cho
Thủ tướng Chính phủ.
Năm là, sự mâu thuẫn về thẩm quyền
giải quyết khiếu nại đối với quyết định
hành chính của đơn vị sự nghiệp công
lập thực hiện dịch vụ công trong lĩnh
vực đất đai.
Theo Luật Đất đai năm 2013, ngoài
cơ quan hành chính thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đất đai còn có đơn
vị sự nghiệp công lập thực hiện dịch vụ
công trong lĩnh vực đất đai như Văn
phòng đăng ký đất đai.20 Điều đáng nói
là đơn vị sự nghiệp công lập này có
thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành
chính về đất đai mà quyết định, hành vi
của họ có thể xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất.21
Vấn đề có tính pháp lý đặt ra là “người
sử dụng đất có quyền khiếu nại các
quyết định hành chính của đơn vị sự
nghiệp công lập này không”?
Khoản 8, 9 Điều 2 Luật Khiếu nại
năm 2011 quy định đối tượng của quyền
khiếu nại là các quyết định hành chính
do “cơ quan hành chính” hoặc “người
có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính” ban hành. Trong khi đó, Văn
phòng đăng ký đất đai là đơn vị sự
nghiệp công lập chứ không phải là một
cơ quan hành chính. Như vậy, nếu chỉ
căn cứ vào Luật Khiếu nại năm 2011 thì
không rõ chủ thể nào có thẩm quyền giải
20 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-
BNV-BTC ngày 04/04/2015 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai trực
thuộc Sở TNMT.
21 Điều 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Điều 2 Nghị
định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/01/2017 sửa đổi, bổ
sung một số quy định chi tiết thi hành Luật đất đai.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
50
quyết khiếu nại lần đầu và chủ thể nào
sẽ giải quyết khiếu nại lần hai đối với
quyết định hành chính trái pháp luật của
Văn phòng đăng ký đất đai.
Câu hỏi này, rốt cuộc đã được trả lời
trong Nghị định số 75/2012/NĐ-CP
ngày 3/10/2012 quy định chi tiết một
số điều của Luật Khiếu nại. Theo đó,
Điều 3 Nghị định số 75/2012/NĐ-CP
quy định: “Người đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập, người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp nhà nước có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu
đối với quyết định hành chính của mình,
của công chức, viên chức, người lao
động do mình quản lý trực tiếp.
Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập cấp trên trực tiếp có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối
với quyết định hành chính mà người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đã
giải quyết theo quy định tại Khoản 2
Điều này mà còn khiếu nại; đối với đơn
vị sự nghiệp công lập không có đơn vị sự
nghiệp công lập cấp trên trực tiếp thì
người đứng đầu cơ quan nhà nước quản
lý đơn vị sự nghiệp công lập đó có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai”.
Theo Thông tư số 15/2015/TTLT-
BTNMT-BNV-BTC thì Văn phòng đăng
ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc Sở TNMT. Do đó, nếu người
sử dụng đất khiếu nại thì phải khiếu nại
đến Giám đốc Văn phòng đăng ký đất
đai. Giám đốc Văn phòng đăng ký đất
đai sẽ căn cứ vào Điều 3 Nghị định số
75/2012/NĐ-CP để giải quyết khiếu nại
lần đầu. Với logic đó thì người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai là
Giám đốc Sở TNMT.
Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền
giải quyết khiếu nại trong Nghị định số
75/2012/NĐ-CP dường như không phù
hợp với Luật Khiếu nại năm 2011. Cụ
thể, theo Điều 20 Luật Khiếu nại năm
2011 thì Giám đốc Sở TNMT giải quyết
khiếu nại lần đầu đối với quyết định
hành chính của mình, của cán bộ, công
chức do mình quản lý trực tiếp. Giám
đốc Sở TNMT là người bổ nhiệm Giám
đốc Văn phòng đăng ký đất đai. Giám
đốc Văn phòng đăng ký đất đai là công
chức thuộc quyền quản lý trực tiếp của
Giám đốc Sở TNMT.22 Do đó, nếu
người sử dụng đất khiếu nại quyết định
hành chính của Văn phòng đăng ký đất
đai thì người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần đầu là Giám đốc Sở
TNMT. Tương tự, thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai sẽ thuộc về Chủ
tịch UBND cấp tỉnh theo Điều 21 Luật
Khiếu nại năm 2011. Mặc dù nghị định
là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu
lực pháp lý thấp hơn luật nhưng có thể
khẳng định rằng việc giải quyết khiếu
nại đối với quyết định hành chính của
Văn phòng đăng ký đất đai trên thực tế
hoàn toàn chỉ áp dụng theo Nghị định số
22 Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 06/2010/NĐ-CP
ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những
người là công chức.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
51
75/2012/NĐ-CP chứ không áp dụng theo
Luật Khiếu nại năm 2011. Như vậy,
thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất
đai của Giám đốc Sở TNMT và Chủ tịch
UBND cấp tỉnh được quy định trong
Luật Khiếu nại năm 2011 đã ít nhiều bị
“vô hiệu hóa” bởi Nghị định số
75/2012/NĐ-CP.
Sáu là, quy định khiếu nại lần hai
phải kèm theo quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu là chưa hợp lý, xảy ra
tình trạng đùn đẩy, né tránh trách
nhiệm.
Trường hợp người sử dụng đất không
đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu
hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại
không được giải quyết thì có quyền
khiếu nại lần hai. Khi khiếu nại lần hai,
người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu,
các tài liệu có liên quan cho người có
thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên,
không phải lúc nào người sử dụng đất
cũng có thể có “quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu”. Trường hợp khiếu
nại lần đầu không được giải quyết mà
người sử dụng đất khiếu nại lần hai thì
không thể có “quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu” để gửi đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Nghịch lý ở chỗ đây là loại giấy tờ bắt
buộc phải có nếu muốn được giải quyết
khiếu nại lần hai. Thiếu loại giấy tờ này
xem như việc giải quyết khiếu nại lần
hai bị “ách tắc”. Nếu như tuân thủ pháp
luật thì người có thẩm quyền không thể
tiến hành giải quyết khiếu nại lần hai.
Ngược lại, nếu như “bất chấp” loại giấy
tờ này vẫn tiến hành giải quyết khiếu nại
lần hai thì lại trái với quy định tại Điều
33 Luật Khiếu nại năm 2011. Quy định
bất hợp lý này có thể tạo ra mảnh đất
“màu mỡ” cho người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai từ chối tiếp nhận,
thụ lý giải quyết khiếu nại của người sử
dụng đất.
4. Kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những
bất cập về thẩm quyền giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực đất đai, chúng tôi có
một số đề xuất:
Thứ nhất, pháp luật quy định người
sử dụng đất phải khiếu nại đến đúng
người có thẩm quyền giải quyết là khá
hợp lý. Tuy nhiên, sẽ là hợp lý hơn nếu
nghĩa vụ này được san sẻ với các cơ
quan nhà nước. Pháp luật khiếu nại của
Cộng hòa Pháp bắt buộc những cơ quan
nhận được khiếu nại sai thẩm quyền vẫn
phải có nghĩa vụ chuyển đơn thư này
đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại.23 Quy định này mang
tính nhân văn bởi hơn người dân, các cơ
quan nhà nước hiểu rõ nhất về thẩm
quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai. Đây có lẽ là một kinh
nghiệm quý báu cần được kế thừa trong
23 Nguyễn Hoàng Anh, “Những nội dung có thể tham
khảo từ pháp luật về khiếu nại của Cộng hòa Pháp”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10, năm 2017.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
52
tương lai bởi quy định này hỗ trợ cho
quyền tiếp cận công lý của công dân
cũng như cho sự minh bạch và trách
nhiệm của công quyền. Do khiếu nại về
đất đai luôn diễn ra gay gắt, phức tạp
nên trước mắt cần quy định cụ thể trong
Luật Tiếp công dân năm 2013 là mọi
đơn thư khiếu nại về đất đai phải được
Ban tiếp công dân hoặc Bộ phận tiếp
công dân thuộc các cơ quan, tổ chức có
liên quan tiếp nhận, phân loại và chuyển
đến đúng chủ thể có thẩm quyền giải
quyết. Sau khi chuyển đến đúng địa chỉ,
Ban tiếp công dân hoặc Bộ phận tiếp
công dân thông báo bằng văn bản cho
người sử dụng đất biết để người này tiếp
tục liên hệ, thực hiện quyền khiếu nại
của mình.
Thứ hai, cần nhận thức rằng địa vị
pháp lý giữa người khiếu nại với người
bị khiếu nại là bất bình đẳng với nhau và
mức độ bất bình đẳng càng thể hiện rõ
rệt khi đại đa số trường hợp người bị
khiếu nại lại chính là người giải quyết
khiếu nại lần đầu. Từ đó, khả năng thành
công của người sử dụng đất là rất thấp
bởi như một lẽ tự nhiên, cơ quan hành
chính không muốn phủ định quyết định
hành chính của chính mình đã ban hành
trước đó. Cơ chế giải quyết khiếu nại
theo kiểu “bộ trưởng - quan tòa” dường
như không phù hợp với nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật - một nguyên tắc
cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Do đó,
chúng tôi cho rằng, cần mạnh dạn sửa
đổi cơ chế giải quyết khiếu nại theo
nguyên tắc: “việc giải quyết khiếu nại
lần đầu thuộc thẩm quyền của cấp trên
trực tiếp của cá nhân, tập thể có quyết
định hành chính bị khiếu nại” và “việc
giải quyết khiếu nại lần hai thuộc thẩm
quyền của cấp trên trực tiếp của người
giải quyết khiếu nại lần đầu mà vẫn
còn bị khiếu nại”. Trên cơ sở đó, Luật
Khiếu nại năm 2011 cần minh định thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu của
Chủ tịch UBND cấp trên đối với quyết
định hành chính của tập thể UBND cấp
dưới trực tiếp. Theo logic đó thì Chủ
tịch UBND cấp trên trực tiếp sẽ có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối
với quyết định hành chính đã được Chủ
tịch UBND cấp dưới giải quyết nhưng
còn khiếu nại tiếp theo.
Thứ ba, Luật Khiếu nại năm 2011 cần
bãi bỏ quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ giải quyết khiếu nại
lần hai đối với quyết định hành chính
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại bởi
Bộ trưởng không phải là cấp trên trực
tiếp của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Đồng
thời, Luật Khiếu nại năm 2011 cần bổ
sung thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần hai cho Thủ tướng Chính phủ đối với
các khiếu nại đã được Chủ tịch UBND
cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ giải quyết lần đầu mà còn
khiếu nại. Trên cơ sở sửa đổi Luật Khiếu
nại năm 2011, Quốc hội cần tiến hành
sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 nhằm
đảm bảo tính thống nhất về thẩm quyền
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
53
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai. Theo đó, Luật Đất đai năm 2013 sẽ
không quy định thẩm quyền của Bộ
trưởng Bộ TNMT giải quyết khiếu nại
lần hai đối với quyết định hành chính
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Thay
vào đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ là
người giải quyết khiếu nại đối với các
khiếu nại đã được Chủ tịch UBND cấp
tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ giải quyết lần đầu mà còn
khiếu nại. Quy định thẩm quyền giải
quyết khiếu nại cho Thủ tướng Chính
phủ không chỉ tạo niềm tin cho người sử
dụng đất mà còn đảm bảo chất lượng,
hiệu quả trong việc giải quyết dứt điểm
các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài.
Thứ tư, về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại của Giám đốc Văn phòng đăng
ký đất đai thì Nghị định số 75/2012/NĐ-
CP quy định hợp lý hơn Luật Khiếu nại
năm 2011. Tuy nhiên, tình trạng nghị
định “vượt” luật là điều không thể
khuyến khích. Do đó, cần sửa đổi Luật
Khiếu nại năm 2011 theo hướng tiếp thu
thẩm quyền giải quyết khiếu nại được
quy định trong Nghị định số
75/2012/NĐ-CP. Có như vậy mới đảm
bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp
luật.
Cuối cùng, sửa đổi Điều 33 Luật
Khiếu nại năm 2011 theo hướng bỏ loại
giấy tờ mang tính bắt buộc trong hồ sơ
giải quyết khiếu nại lần hai là “quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu”. Nhà
làm luật nên quy định theo hướng linh
hoạt là “quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu” chỉ áp dụng đối với trường hợp
đã giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng
vẫn tiếp tục khiếu nại. Trường hợp khiếu
nại lần đầu không được giải quyết mà
người sử dụng đất khiếu nại lần hai thì
không cần loại giấy tờ này. Như vậy,
Điều 33 Luật Khiếu nại năm 2011 được
sửa như sau: “Trường hợp khiếu nại lần
hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm
theo quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu (nếu có), các tài liệu có liên quan
cho người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai”. Sửa đổi này tuy nhỏ
nhưng sẽ đảm bảo cho việc khiếu nại và
giải quyết khiếu nại lần hai được diễn ra
hiệu quả, đúng pháp luật./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Anh, 2017. Những
nội dung có thể tham khảo từ pháp luật
về khiếu nại của Cộng hòa Pháp. Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 10.
2. Nguyễn Mạnh Hùng, 2015. Phân
định thẩm quyền giải quyết khiếu nại
hành chính và thẩm quyền xét xử hành
chính ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Cao Vũ Minh, 2012. Để khiếu nại
xứng tầm là một quyền hiến định. Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 10.
4. Nguyễn Cửu Việt, 2005. Cải cách
hành chính: về khái niệm thẩm quyền,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017
54
5. Báo cáo số 304/BC-CP ngày
26/10/2012 của Chính phủ thực hiện
chính sách, pháp luật trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với
các quyết định hành chính về đất đai.
6. Thanh tra Chính phủ, Báo cáo công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
giai đoạn 2012 - 2015 và nhiệm vụ, giải
pháp trong thời gian tới tại Hội nghị trực
tuyến toàn quốc về công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày
7/10/2016 (theo Công điện số 771/CĐ-
VPCP ngày 4/10/2016 của Văn phòng
Chính phủ).
7. Báo cáo số 82/BC-BTNMT về
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai ngày 3/10/2016
của Bộ TNMT.
COMPLETION OF LEGAL REGULATIONS ON THE COMPETENCE
ON COMPLAINT SETTLEMENT IN THE LAND AREA
Cao Vu Minh
Ho Chi Minh University of Law
(Email: cvminh@hcmulaw.edu.vn)
ABSTRACT
Complaints are an important method to help land users protect their legitimate rights and
interests against illegal administrative decisions. However, there are many inadequacies
and shortcomings regarding land jurisdiction. Some shortcomings include: i. The
competence to settle complaints about administrative decisions issued by the People’s
Committees at all levels has not been specified yet; ii. The competence to settle second-time
complaints of ministers and heads of ministerial-level agencies is unreasonable; iii. There
is a conflict of jurisdiction over the administrative decision of business units-public
agencies who delivery public service in the field of land. These shortcomings have caused
great obstacles for land users in the exercise of his right to complain... The article analyses
regulations in the 2011 Law on Complaints and 2013 Land Law relating to jurisdiction to
resolve complaints in the land; also it points out some shortcomings, thereby suggests
relevant proposals.
Key words: Land users, complaints, administrative decisions, authority.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cac_quy_dinh_phap_luat_ve_tham_quyen_giai_quyet_k.pdf