Điều 73. Cách tính thời hạn để xóa
án tích (bổ sung)
1. Thời hạn để xóa án tích quy định
tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này
căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
Trong trường hợp bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung thì thời hạn được
xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó
chấp hành xong hình phạt bổ sung quy
định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều
71 Bộ luật Hình sự.
4. Người được miễn chấp hành hình
phạt còn lại do được tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, hình phạt bổ sung
quản chế, cấm cư trú hoặc hết thời gian
thử thách của tha tù trước thời hạn có
điều kiện thì được coi như đã chấp hành
xong hình phạt.
Điều 73.1 Án tích ở nước ngoài (quy
định mới)
1. Người phạm tội bị Tòa án ở nước
ngoài kết án và bản án đã có hiệu lực
pháp luật cũng được coi là án tích nếu
hành vi phạm tội mà người đó bị kết án
ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này
cũng áp dụng trong trường hợp chuyển
giao người đang chấp hành hình phạt tù
từ nước ngoài về Việt Nam./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các quy phạm về chế định án tích trong bộ luật hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN QuaNg LoNg
1. Định hướng tiếp tục hoàn thiện
các quy định về án tích theo Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành
Nghiên cứu quy định của Bộ luật
hình sự (BLHS) năm 2015 về chế định án
tích còn bộc lộ những bất cập, cần tiếp
tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự về xóa án tích, cụ thể là:
1) Đương nhiên xóa án tích
Theo BLHS năm 2015, hệ thống hình
phạt được phân chia thành Hình phạt
chính và Hình phạt bổ sung, 1) Hình
phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền;
Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù
có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. 2)
Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản
chế; Tước một số quyền công dân; Tịch
thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng
là hình phạt chính; Trục xuất, khi không
áp dụng là hình phạt chính.
Khoản 1, Điều 73 BLHS năm 2015
quy định: “Thời hạn để xóa án tích quy định
tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn
cứ vào hình phạt chính đã tuyên”. Đối chiếu
quy định này với trường hợp đương
nhiên xóa án tích quy định tại Điều 70
BLHS năm 2015 với loại hình phạt được
quyết định như: Phạt cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng
được hưởng án treo; phạt tù có thời hạn,
tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã
được giảm án cho thấy: nếu người bị kết
án bị áp dụng hình phạt chính là hình
phạt tiền thì cách tính thời hạn xóa án
tích phải xác định từ khi chấp hành xong
hình phạt tiền nhưng ngược lại, người bị
kết án bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt
tiền thì không phải kéo dài sau khi chấp
hành xong hình phạt chính so với hình
phạt bổ sung cùng nhóm như quản chế,
cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM VỀ CHẾ ĐỊNH ÁN TÍCH
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
NguyễN QuaNg LoNg*
* Thạc sỹ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đã kế thừa và hoàn thiện các quy định
về án tích từ BLHS năm 1999. Tuy vậy, qua nghiên cứu các quy định về án tích
và xóa án tích theo BLHS năm 2015, tác giả nhận thấy một số nội dung còn
tồn tại, vướng mắc cần được tiếp tục hoàn thiện.
Từ khóa: Án tích, xóa án tích, BLHS năm 2015.
The Penal Code in 2015 has inheritted and completed provisions on
criminal convictions in the 1999 one. However, by studying regulations on
criminal convictions and criminal conviction expungement in the Penal
Code in 2015, the author brings out some inadequacies which need to be
continuosly completed.
Keywords: Criminal convictions, criminal conviction expungement,
the Penal Code in 2015.
22
Hoàn tHiện các quy pHạm về cHế địnH án tícH...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
hành nghề hoặc làm công việc nhất định,
tước một số quyền công dân. Điều này
đã hạn chế việc kiểm soát xã hội đối với
tội phạm kinh tế, tham nhũng, gây thiệt
hại lớn đến tài sản Nhà nước và công dân
đối với cá nhân phạm tội và pháp nhân
thương mại phạm tội. Do đó, cần sửa đổi
bổ sung vấn đề này theo hướng như phân
tích trên.
2) Cách tính thời hạn để xóa án tích
Khoản 2, Điều 73 BLHS năm 2015 quy
định cách tính thời hạn để xóa án tích
như sau: “Người bị kết án chưa được xóa
án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới
và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực
pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được
tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt
chính hoặc thời gian thử thách án treo của
bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời
hiệu thi hành”.
Ví dụ: Ngày 27/11/2014, Lê Thanh H bị
TAND thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai
xử phạt 8 tháng tù giam về tội “Gây rối
trật tự công cộng”, chấp hành xong ngày
04/5/2015. Ngày 26/01/2016, H bị TAND
thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt
01 năm 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp
tài sản”, chấp hành xong ngày 17/4/2017.
Ngày 25/5/2017, H thực hiện hành vi phạm
tội mới. Ngày 03/5/2018, H bị xử phạt 06
năm tù về “Tội cố ý gây thương tích”; 01
năm tù về “Tội gây rối trật tự công cộng”.
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành
hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
31/8/2017.
Như vậy, Lê Thanh H sau khi chấp
hành xong hình phạt 07 năm tù của bản
án mới năm 2018 thì bản án cũ năm 2015,
2016 thuộc trường hợp đương nhiên được
xóa án tích. Tuy nhiên, quy định tại khoản
2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 BLHS năm
2015 về trường hợp đương nhiên xóa án
tích, xóa án tích theo quyết định của Tòa
án bắt buộc người bị kết án không chỉ
“chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời
gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành
xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác
của bản án và không thực hiện hành vi phạm
tội mới trong thời hạn...” nhất định. Vấn đề
này cho thấy đã mâu thuẫn với quy định
về cách tính thời hạn xóa án tích tại khoản
1 Điều 73 BLHS năm 2015 đó là “Thời hạn
để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71
của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã
tuyên”. Nghĩa là, thời hạn để xóa án tích
trong trường hợp đương nhiên xóa án
tích, xóa án tích theo quyết định của Tòa
án không chỉ căn cứ vào hình phạt chính
mà còn cả hình phạt bổ sung là quản chế,
cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định,
tước một số quyền công dân còn kéo dài và
kết thúc tương ứng với hình phạt bổ sung
được ấn định sau khi chấp hành xong hình
phạt chính. Như vậy, quy định tại khoản 1
Điều 73 BLHS năm 2015 là không tương
thích với các điều luật có liên quan, cần
sửa đổi bổ sung.
3) Xóa án tích đối với người được đại
xá hoặc đặc xá
Đại xá hoặc đặc xá là việc miễn giảm
trách nhiệm hình sự (TNHS) hoặc hình
phạt đối với người phạm tội của Nhà
nước. Cơ sở pháp lý để áp dụng đại xá
hoặc đặc xá với cá nhân và pháp nhân
thương mại phải được điều chỉnh không
chỉ bằng đạo Luật đặc xá hoặc Nghị quyết
về đại xá của Quốc hội mà phải quy định
đồng bộ song song với những quy định
khác như “miễn chấp hành hình phạt khi
23Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN QuaNg LoNg
được đặc xá hoặc đại xá” theo khoản 1
Điều 62 BLHS năm 2015. Chính vì vậy, khi
có văn bản đặc xá hoặc đại xá thì “người
đã chấp hành xong hình phạt thì có thể
được xóa án tích”. Do đó, cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung vấn đề này.
4) Quy định của pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng không tồn
tại bất biến, trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể chính sách pháp luật có thể thay
đổi để phù hợp với tồn tại xã hội tương
ứng; việc phi tội phạm hóa bằng cách xóa
bỏ một hành vi không còn nguy hiểm cho
xã hội dưới dạng một tội phạm hoặc điều
luật có quy định giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong BLHS là một thực tế. Và
như vậy, trong trường hợp này, người bị
kết án được xóa án tích theo quyết định
của Tòa án nhưng BLHS năm 2015 không
ghi nhận bằng những quy định cụ thể mà
thông thường chúng được viện dẫn, điều
chỉnh trong Nghị quyết thi hành BLHS
của Quốc hội. Do đó, cần thiết đề xuất để
sửa đổi bổ sung bằng một Điều tương ứng
về vấn đề này.
5) BLHS năm 2015 chỉ quy định đương
nhiên xóa án tích đối người dưới 18 tuổi
phạm tội (khoản 2 Điều 107) mà không
quy định hình thức xóa án tích theo quyết
định của Tòa án khi người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm
tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý đã bị kết án về một trong các
tội quy định tại Chương XIII và Chương
XXVI Phần các tội phạm của BLHS năm
2015. Điều này có thể được hiểu rằng, sau
khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính
hoặc hết thời gian thử thách án treo, đã
chấp hành xong hình phạt bổ sung, các
quyết định khác của bản án hoặc từ khi
hết thời hiệu thi hành bản án và không
thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời
hạn nhất định từ 06 tháng đến 03 năm
tùy loại hình phạt và mức hình phạt thì
có thể được coi như đương nhiên xóa án
tích. Như vậy, chính sách hình sự về xóa
án tích đã có sự thay đổi, tuy nhiên, quy
định về “thời hiệu thi hành bản án” trong
trường hợp này đã mâu thuẫn với Điều
61 BLHS khi “Không áp dụng thời hiệu
thi hành bản án đối với các tội quy định
tại Chương XIII, Chương XXVI, khoản 3
và khoản 4 Điều 353, khoản 3 và khoản 4
Điều 354 của Bộ luật này”. Nghĩa là, trong
mọi trường hợp, thời hiệu thi hành bản
án không đặt ra và do đó, cho dù người
chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi) nếu bị kết án về một trong các tội
nói trên khi đã hết thời hiệu thi hành bản
án và không phạm tội mới trong thời hạn
quy định thì vẫn không đương nhiên xóa
án tích. Quy định về thời hiệu tại Điều 61
và 107 BLHS là mâu thuẫn nhau. Chính vì
vậy, cần thiết phải sửa đổi bổ sung Điều
61 BLHS để tương thích với trường hợp
“xóa án tích” quy định tại Điều 107 BLHS
năm 2015.
6) Giá trị nhân đạo trong chính sách
hình sự hình thành từ chiều sâu của
truyền thống văn hóa dân tộc, giá trị đó
cần phải được mở rộng hơn nữa bằng
những chế định trong BLHS, đặc biệt về
“xóa án tích”. Thực tiễn áp dụng pháp luật
cho thấy rằng, trong giai đoạn chấp hành
hình phạt, người bị kết án “lập công”
hoặc “mắc bệnh hiểm nghèo” có thể được
miễn chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ, tù có thời hạn (khoản 2 Điều 62
BLHS). Như vậy, thời điểm bắt đầu được
“xóa án tích” ở dạng này được rút ngắn
đáng kể so với những trường hợp đã chấp
hành xong hình phạt có những tình tiết
tương ứng nói trên. Mặt khác, theo quy
24
Hoàn tHiện các quy pHạm về cHế địnH án tícH...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
định tại khoản 4, Điều 71 BLHS năm 2015
thì “người được miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành
xong hình phạt” cho thấy chỉ phù hợp trong
trường hợp người bị kết án được tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù, miễn chấp
hành phần còn lại của quản chế và cấm
cư trú mà chưa bao trùm hết một dạng
khác theo khoản 2 và khoản 6 Điều 62
BLHS nói trên khi chưa chấp hành hình
phạt nhưng được miễn chấp hành toàn bộ
hình phạt. Chính vì vậy, khi người bị kết
án chấp hành xong hình phạt chính nhưng
có những tình tiết như đã “lập công”, “lập
công lớn” hoặc “mắc bệnh hiểm nghèo”
và xét thấy họ không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa thì được xóa án tích là trường
hợp thứ nhất. Tương tự như vậy, một khi
được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt
cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn thì
tính nguy hiểm cho xã hội đã bị triệt tiêu
do tính tích cực mang tính chủ quan của
người bị kết án hoặc do sự tác động khách
quan (do bệnh tật, mất năng lực hành vi)
mang lại là trường hợp thứ hai và do đó,
cần xác định nếu một người được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt tù có thời hạn
hoặc miễn chấp hành phần hình phạt còn
lại thì được coi như đã chấp hành xong
hình phạt chính để giải thích sự tương
thích với phân tích của hai trường hợp nói
trên. Vấn đề này cần sửa đổi, bổ sung xây
dựng lại khoản 4 Điều 71 và các Điều luật
có liên quan trong BLHS năm 2015.
Tương tự như vậy, quy định tại Điều
69, BLHS năm 2015 về Tha tù trước thời
hạn có điều kiện chính là việc buộc người
bị kết án phải chịu thử thách trong thời gian
được tạm tha, thời gian thử thách bằng thời
gian còn lại của hình phạt tù. Tuy nhiên,
BLHS năm 2015 không quy định cách tính
thời hạn để xóa án tích trong trường hợp
này và như vậy, khi một người đã chấp
hành xong thời gian thử thách nghĩa là
chấp hành xong hình phạt chính thì không
đồng nghĩa với “người được miễn chấp hành
phần hình phạt còn lại cũng được coi như
đã chấp hành xong hình phạt” quy định tại
khoản 4, Điều 71 BLHS năm 2015. Bởi vì,
thời điểm được miễn chấp hành hình phạt
còn lại được xác định để tính về thời gian
bắt đầu của xóa án tích tương ứng khác với
thời điểm không được coi là mốc thời gian
bắt đầu được tạm tha để chịu thử thách
khi chưa chấp hành xong hình phạt chính
để tính khi xóa án tích. Do đó, cần thiết đề
xuất để sửa đổi bổ sung ở khoản 2 Điều 70
và khoản 2 Điều 71 BLHS năm 2015 như
phân tích trên.
7) Một vấn đề quan trọng phát sinh
trong việc xác định án tích là ý nghĩa
pháp lý của bản án nước ngoài. Về vấn
đề này, luật pháp của mỗi quốc gia và hệ
thống tư pháp hình sự giải quyết theo
những cách khác nhau. Theo đó, án tích
nước ngoài được sử dụng trong việc
xác định tái phạm quy định trong BLHS
một số các nước như: Bolivia, Brazil,
Canada, Ukraine, Uzbekistan, Ecuador.
Theo BLHS Đan Mạch, Na Uy và Thụy
Điển thì tiền án ở nước ngoài được đưa ra
có giá trị tương tự như tuyên bố của một
Tòa án địa phương. Theo BLHS Moldova
(khoản 4, Điều 34), khi xác định việc tái
phạm, các quyết định buộc tội đã được
tuyên bố ở nước ngoài được công nhận bởi
các Tòa án của nước Cộng hòa Moldova.
Tương tự, tồn tại trong các hình thức của
một điều khoản quy định được coi “là
tái phạm trong mọi trường hợp khi một
người bị kết án tại Bolivia hoặc ở nước
ngoài phạm tội mới nếu chưa hết thời
gian 5 năm kể từ khi thi hành (hình phạt)”
(Điều 41 BLHS Bolivia).
25Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN QuaNg LoNg
Ngày nay, chúng ta đã tham gia ký kết
các Điều ước quốc tế trong nhiều lĩnh vực,
trong đó có “Công ước Liên Hợp Quốc
về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia” (được ký kết tại tại Palermo - Italia
tháng 12/2000, gọi là Công ước Palermo),
là việc ưu tiên trong nội luật hóa vào pháp
luật hình sự Việt Nam khi thừa nhận việc
kết án về một tội phạm ở nước ngoài có
cùng tính chất (cùng loại) với cấu thành cơ
bản quy định trong Phần các tội phạm của
BLHS Việt Nam. Thừa nhận vấn đề này
là việc đồng thời xác định án tích và xóa
án tích đối với người nước ngoài, người
không có quốc tịch Việt Nam phạm tội và
bị xét xử trên lãnh thổ Việt Nam.
8) BLHS năm 1985 quy định tên
Chương là “xóa án”, BLHS năm 1999 có sự
thay đổi tên gọi của Chương “xóa án tích”,
tên gọi này tiếp tục duy trì đến BLHS năm
2015. Quy định này chưa phản ánh hết
tính chất bao trùm của chế định này bởi
vì, (1) xóa án tích là nội dung, một mặt thể
hiện các căn cứ, điều kiện và đối tượng cần
xem xét, điều chỉnh; nhưng mặt khác (2)
dựa trên cơ sở của án tích - tiền án hình
sự - bắt đầu một chu trình kiểm soát xã hội
mà trong đó, Nhà nước ấn định thời gian
dài hay ngắn sau khi chấp hành xong hình
phạt để được chấm dứt nó bằng pháp luật
tố tụng hình sự, Thi hành án hình sự và
Luật Lý lịch tư pháp. Ngoài ra, (3) án tích
còn có ý nghĩa trong định tội danh, khung
hình phạt hoặc gia tăng TNHS của người
bị kết án. Như vậy, xóa án tích chỉ phản
ánh một mặt của vấn đề của án tích - tiền
đề làm phát sinh chỉ hướng đến việc xem
xét TNHS bằng loại hình phạt cụ thể và
xóa án tích phản ánh sự thay đổi toàn bộ
quá trình triệt tiêu chính nó (bao hàm cả
trình tự thủ tục thực hiện).
Chính vì vậy, cần xây dựng lại chế định
này theo hướng sửa đổi, bổ sung trong
BLHS năm 2015 về tên gọi là Chương: “Án
tích”, đồng thời xây dựng khái niệm về án
tích và liệt kê các điều khoản tương ứng
với các trường hợp xóa án tích.
2. Những kiến nghị cụ thể tiếp tục
sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự năm
2015 về án tích
Điều 61. Không áp dụng thời hiệu
thi hành bản án (sửa đổi, bổ sung)
1. Giữ nguyên.
2. Quy định ở khoản 1 Điều này
không áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị kết án thuộc trường
hợp đã hết thời hiệu thi hành bản án tại
khoản 2 Điều 107 Bộ luật Hình sự.
Chương X
ÁN TÍCH
Điều 69. Án tích (quy định mới)
1. Án tích là tình trạng pháp lý cụ thể
của người bị kết án với loại hình phạt
tương ứng, kèm theo một số hậu quả
bất lợi cho người đó trong một thời hạn
nhất định, bắt đầu từ khi bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật cho đến khi hết án
tích hoặc được xóa án tích.
2. Người bị kết án được xóa án tích
theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến
Điều 73 (và 73.1) của Bộ luật này thì coi
như chưa bị kết án.
3. Người bị kết án được miễn chấp
hành hình phạt khi được đặc xá, đại xá,
cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 62
Bộ luật này thì đương nhiên xóa án tích.
4. Quy định tại Điều này cũng được
áp dụng đối với người bị kết án trong
26
Hoàn tHiện các quy pHạm về cHế địnH án tícH...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
trường hợp khi Bộ luật Hình sự xóa bỏ
và không quy định một tội phạm.
Điều 69.1. Không có án tích (quy định
mới)
Người bị kết án về tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng do vô ý và
người được miễn hình phạt không bị coi
là có án tích.
Điều 70. Đương nhiên được xóa án
tích (bổ sung)
1. Giữ nguyên.
2. Người bị kết án đương nhiên được
xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong
hình phạt chính hoặc hết thời gian thử
thách án treo, tha tù trước thời hạn có
điều kiện, người đó đã chấp hành xong
hình phạt bổ sung, các quyết định khác
của bản án và không thực hiện hành vi
phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
(Giữ nguyên)
Trong trường hợp bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung là phạt tiền thì
thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ
chấm dứt vào thời điểm người đó chấp
hành xong hình phạt bổ sung
3. Giữ nguyên.
4. Giữ nguyên.
Điều 71. Xóa án tích theo quyết định
của Tòa án (bổ sung)
1. Giữ nguyên.
2. Người bị kết án được Tòa án quyết
định việc xóa án tích, nếu từ khi chấp
hành xong hình phạt chính hoặc hết thời
gian thử thách án treo, tha tù trước thời
hạn có điều kiện, người đó đã chấp hành
xong hình phạt bổ sung, các quyết định
khác của bản án và không thực hiện hành
vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
Từ a) đến d): Giữ nguyên.
Trong trường hợp bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung là phạt tiền thì
thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ
chấm dứt vào thời điểm người đó chấp
hành xong hình phạt bổ sung.
3. Giữ nguyên.
Điều 73. Cách tính thời hạn để xóa
án tích (bổ sung)
1. Thời hạn để xóa án tích quy định
tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này
căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
Trong trường hợp bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung thì thời hạn được
xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó
chấp hành xong hình phạt bổ sung quy
định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều
71 Bộ luật Hình sự.
4. Người được miễn chấp hành hình
phạt còn lại do được tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, hình phạt bổ sung
quản chế, cấm cư trú hoặc hết thời gian
thử thách của tha tù trước thời hạn có
điều kiện thì được coi như đã chấp hành
xong hình phạt.
Điều 73.1 Án tích ở nước ngoài (quy
định mới)
1. Người phạm tội bị Tòa án ở nước
ngoài kết án và bản án đã có hiệu lực
pháp luật cũng được coi là án tích nếu
hành vi phạm tội mà người đó bị kết án
ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này
cũng áp dụng trong trường hợp chuyển
giao người đang chấp hành hình phạt tù
từ nước ngoài về Việt Nam./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cac_quy_pham_ve_che_dinh_an_tich_trong_bo_luat_hi.pdf