Đề xuất kiến nghị
Căn cứ vào những yêu cầu về điều
kiện có hiệu lực của nhãn hiệu dược phẩm,
cần sửa đổi quy định của Luật SHTT về thời
hạn sử dụng nhãn hiệu theo hướng rút ngắn
hơn để đảm bảo tính hiệu quả của nhãn hiệu
như là một dấu hiệu gắn lên hàng hoá, dịch
vụ của sản phẩm, theo đó:
- Sửa đổi điểm d khoản 1 Điều 95 Luật
SHTT theo hướng rút ngắn thời gian bảo vệ
hiệu quả cho nhãn hiệu:
- Nhãn hiệu không được chủ sở hữu
hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử
dụng trong thời hạn ba năm liên tục trước
ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà
không có lý do chính đáng, trừ trường hợp
việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại
trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu
cầu chấm dứt hiệu lực.
Như vậy, điều kiện bảo hộ đối với nhãn
hiệu dược phẩm được cụ thể hơn, đáp ứng
các điều kiện của nhãn hiệu thông thường và
điều kiện của nhãn hiệu của sản phẩm dược.
Ngoài ra, quy định một khoảng thời
gian hợp lý về nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu
là “ba năm” cho phù hợp. Riêng đối với sản
phẩm dược cần phải quy định thêm nghĩa vụ
thông báo về tình trạng sản phẩm có được
sử dụng hay không. Việc đưa ra quy định
chặt chẽ về thời hạn chấm dứt nhãn hiệu góp
phần giảm thiểu tranh chấp xảy ra, đặc biệt
góp phần quản lý tốt hơn sản phẩm dược.
Ngoài ra, quy định về nhãn hiệu dược phẩm
cũng cần có những cơ chế chặt chẽ hơn để
điều chỉnh vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả và
những vi phạm liên quan đến hành vi xâm
phạm SHTT về nhãn hiệu
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu dược phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU DƯỢC PHẨM
Nguyễn Thái Cường*
Nguyễn Lý Ngọc Trân**
* TS. GV. Khoa Luật Dân sự Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
** ThS. GV. Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Abstract
This article provides analysis of certain protection conditions for
trademarks of pharmaceutical products, comparisions with foreign
laws and then the author proposes an amendment of the term
of validity of protection stipulated in Article 95 of the Law on
Intellectual Property of 2005 (amended and supplemented in 2009).
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu của dược
phẩm, so sánh với pháp luật nước ngoài, từ đó đưa ra đề xuất sửa
đổi thời hạn chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ được quy định
tại Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2009).
Thông tin bài viết:
Từ khóa: nhãn hiệu dược phẩm, hiệu
lực, thuốc, hành vi xâm phạm, nghĩa vụ
sử dụng nhãn hiệu.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/03/2018
Biên tập : 27/04/2018
Duyệt bài : 09/05/2018
Article Infomation:
Keywords: pharmaceutical trademark,
effect, drug, infringement, obligation to
use.
Article History:
Received : 30 Mar. 2018
Edited : 27 Apr. 2018
Approved : 09 May 2018
1. Điều kiện có hiệu lực của nhãn hiệu
dược phẩm
Nhãn hiệu dược phẩm phải đáp ứng
các tiêu chí của những nhãn hiệu thông
thường. Trong đó chức năng chính của nhãn
1 Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, Luật 2009 sửa đổi bổ sung Luật SHTT.
2 Quy định này được cụ thể hoá trong Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, được sửa đổi bổ sung bởi Thông tư số 13//2010/
TT-BKHCN, thông tư số 18/2011/TT-BKHCN nhằm hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP.
hiệu là dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau1. Điều
72 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) quy định các
điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo
hộ2: “1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 4(380) T2/2019
dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể
cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc; 2. Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch
vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá,
dịch vụ của chủ thể khác”. Như vậy, nhãn
hiệu hàng hoá phải đáp ứng điều kiện nhìn
thấy được và có khả năng phân biệt.
1.1 Dấu hiệu có thể nhìn thấy được
Trong Bản án số 37/2017/KDTM-PT
và Bản án số 52/2013/KDTM-ST3, hai dấu
hiệu của sản phẩm thuốc SEFTRA và các
sản phẩm thuốc nước đều là những dấu hiệu
nhìn thấy được và được Cục SHTT cấp giấy
chứng nhận nhãn hiệu hàng hoá cho sản
phẩm dược. Tuy nhiên trong việc cấp nhãn
hiệu này, Cục SHTT không xem xét đến khả
năng sử dụng nhãn hiệu trên thực tế có sự
tồn tại của sản phẩm này hay không.
1.2 Dấu hiệu có khả năng phân biệt
Điều 74 Luật SHTT quy định, nhãn
hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu
được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố
dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu
tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết,
dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này. Nhãn hiệu
SEFTRA và các sản phẩm thuốc nước đều
thỏa mãn hai tiêu chí có khả năng phân biệt
3 Bản án số 37/2017/KDTM-PT ngày 27/02/2017 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Bản án số 52/2013/KDTM-
ST ngày 14/01/2013 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
4 Điều 73 Luật SHTT năm 2005, luật sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với
danh nghĩa nhãn hiệu:
1. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
2. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép []”.
5 Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT năm 2005, luật sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định khả năng phân biệt của nhãn hiệu,
theo đó, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu
hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu;
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến []”.
với các hàng hoá của các sản phẩm khác. Và
các nhãn hiệu này không thuộc trường hợp
các dấu hiệu không được bảo hộ với danh
nghĩa nhãn hiệu (Điều 73 Luật SHTT)4 và
các nhãn hiệu bị coi là không có khả năng
phân biệt (Điều 74 Luật SHTT)5. Như vậy,
theo các quy định trên, các nhãn hiệu phải
đáp ứng các điều kiện để phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của sản phẩm nhưng chưa có
một tiêu chí đặc thù nào cho nhãn hiệu dược
phẩm. Nhãn hiệu đối với dược phẩm là một
hàng hoá đặc biệt nên phải có những điều
kiện riêng so với nhãn hiệu của hàng hoá
thông thường.
Điều kiện có khả năng phân biệt
phải được thể hiện rõ ràng, không được
trùng nhau. Trong Quyết định số 08/2003/
HĐTP-DS ngày 26/02/2003 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về tranh
chấp nhãn hiệu “Phù Đổng Thiên Vương”
và nhãn hiệu “Nhà Hàng Phù Đổng”, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
đã buộc Công ty Phù Đổng Thiên Vương
không được phép sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá mang biển hiệu Nhà hàng Phù Đổng
Thiên Vương và sử dụng logo có hình người
cưỡi ngựa và dòng chữ Nhà hàng Phù Đổng
Thiên Vương ở bao bì đũa ăn và bao bì giấy
ăn trong kinh doanh dịch vụ ăn uống và giải
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 4(380) T2/2019
khát. Điều này cho thấy các dấu hiệu của
nhãn hiệu thông thường phải có khả năng
phân biệt rõ ràng.
Điều kiện có khả năng phân biệt được
nhãn hiệu trong thực tế có thể được lý giải
dựa trên các căn cứ khác nhau. Tiêu chí dựa
vào trình độ hiểu biết của người tiêu dùng
có khả năng phân biệt được nhãn hiệu hay
không, khác với tiêu chí mà những bác sĩ,
dược sĩ có thể nhầm lẫn về nhãn hiệu thuốc.
1.3 Điều kiện về nghĩa vụ sử dụng
nhãn hiệu
Để một nhãn hiệu có hiệu lực, không
chỉ nhãn hiệu đó đáp ứng các điều kiện về
khả năng phân biệt của nhãn hiệu thông
thường mà chủ thể nắm giữ nhãn hiệu phải
có nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu đó, vì mục
đích của việc đăng ký nhãn hiệu là để sử
dụng nhãn hiệu đó trên thị trường, tránh tình
trạng đầu cơ nhãn hiệu. Thêm vào đó, việc
sử dụng nhãn hiệu của sản phẩm dược có
một ý nghĩa rất quan trọng trong việc lưu
hành thuốc ra thị trường.
Khoản 2 Điều 136 Luật SHTT quy
định về nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu: Chủ sở
hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng6 liên tục
nhãn hiệu đó. Trong trường hợp nhãn hiệu
không được sử dụng liên tục từ năm năm trở
lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu đó bị chấm
dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của
Luật này. Điều khoản này đã quy định một
khoảng thời gian nhất định.
Khoản 1d Điều 95 Luật SHTT quy
định không rõ ràng về việc chấm dứt hiệu
lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
6 Khoản 5 Điều 124 Luật SHTT quy định sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao
dịch trong hoạt động kinh doanh;
b) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ;
c) Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
Quy định này được cụ thể hoá tại Điều 21 Nghị định số 103/2006/CP.
hàng hóa. Trong Bản án SEFTRA, theo ý
kiến của Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) thì
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa được cấp năm 2007 và được cấp lại lần
đầu tiên vào năm 2013. Như vậy đã có sự
kiểm tra thông tin về hiệu lực của nhãn hiệu
hàng hoá này có được sử dụng hay không
của Cục SHTT. Tuy nhiên, vào năm 2016,
Cục SHTT lại ra quyết định chấm dứt hiệu
lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa với lý do là nhãn hiệu hàng hoá
này không được sử dụng tại Việt Nam. Như
vậy, sau 9 năm, Cục SHTT mới phát hiện ra
việc nhãn hiệu này không được sử dụng trên
thực tế, việc này thể hiện sự mất kiểm soát
trong việc quản lý các nhãn hiệu dược phẩm.
Cho đến khi Cục Quản lý dược phát hiện ra
từ năm 2007 đến năm 2015 đã không cấp
số lưu hành cho hàng hoá dược phẩm mang
nhãn hiệu này thì Cục SHTT mới có cơ sở
để xác nhận chấm dứt hiệu lực. Vấn đề này
thể hiện sự không chặt chẽ trong việc quản
lý sản phẩm dược.
1.4 Điều kiện về cấp phép lưu hành sản
phẩm thuốc
Một sản phẩm thuốc sau khi được
đưa ra thị trường phải đáp ứng những nhiều
điều kiện nhất định, khắt khe hơn nhãn hiệu
hàng hoá thông thường, trong đó có việc các
sản phẩm thuốc này phải thỏa mãn các điều
kiện nhất định. Trong Bản án số 37/2017/
KDTM-PT, từ ngày 22/8/2013, Công ty
Kim Đồng là chủ Giấy chứng nhận số 81173
cấp theo Quyết định số 1921/QĐ-SHTT
ngày 12/8/2013 chứng nhận Công ty Square
là chủ Giấy chứng nhận cấp theo Quyết định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 4(380) T2/2019
số 4446/QĐ-SHTT ngày 14/6/2007 đăng ký
mẫu nhãn hiệu SEFTRA; loại nhãn hiệu:
thông thường; nhóm 5: Dược phẩm, chuyển
nhượng toàn bộ quyền sở hữu đối tượng sở
hữu công nghiệp cho Công ty Kim Đồng
theo Quyết định số 2035/QĐ SHTT ngày
22/8/2013. Văn bản số 651/QLD-DK ngày
24/01/2017 Cục Quản lý dược xác định: từ
ngày 16/4/2007 đến ngày 17/07/2015 không
cấp số đăng ký lưu hành cho sản phẩm
hàng hoá dược phẩm thuốc mang nhãn hiệu
SEFTRA. Từ năm 2010 đến nay chưa cấp
phép nhập khẩu thuốc nào có tên thuốc là
SEFTRA, nên ngày 07/3/2016, Cục SHTT
đã ra Quyết định số 811/QĐ-SHTT chấm
dứt hiệu lực đối với Giấy chứng nhận đăng
ký số 81173 của Công ty Kim Đồng. Các cơ
quan có thẩm quyền phát hiện ra việc chủ
sở hữu không sử dụng nhãn hiệu khi có xảy
ra tranh chấp mà không có một cơ chế kiểm
soát cho thích hợp. Điều 95 Luật SHTT quy
định thời hạn là năm năm để xác định một
nhãn hiệu có hiệu lực hay không. Thời hạn
này cũng trùng với thời hạn mà chủ sở hữu
phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực của văn bằng
bảo hộ. Tuy nhiên, thời hạn năm năm là quá
dài để làm căn cứ xác định một nhãn hiệu có
hiệu lực hay không. Một mặt, quy định này
thuận lợi cho các cơ quan quản lý vì có thể
đồng nhất hai khoảng thời gian nộp phí duy
trì và kiểm tra tình trạng sử dụng nhãn hiệu.
Mặt khác, quy định này lại gây thiệt hại cho
người tiêu dùng vì để xảy ra tình trạng đầu
cơ nhãn hiệu ảnh hưởng đến cạnh tranh. Bên
cạnh đó, trên thực tế xảy ra trường hợp hết
thời hạn sử dụng nhãn hiệu mà người đăng
ký nhãn hiệu không muốn duy trì nhãn hiệu
nữa, một người khác sản xuất sản phẩm
cùng loại có gắn nhãn hiệu này, thì không
thể xử lý trường hợp này là hành vi xâm
phạm nhãn hiệu vì nhãn hiệu này không còn
7 Xem thêm:Tưởng Duy Lượng, Xử lý xâm phạm hàng giả và SHTT, Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2018.
thời gian bảo hộ7. Trong bản án thứ nhất,
việc chấm dứt sử dụng nhãn hiệu do Cục
SHTT phát hiện. Bản án thứ hai, việc chấm
dứt sử dụng do việc phát hiện không còn sản
phẩm này trên thị trường. Tại sao hậu quả
của việc chấm dứt nhãn hiệu không phải là
thu hồi, đình chỉ hay huỷ bỏ nhãn hiệu đó?
Có nhiều tranh luận xung quanh vấn đề này.
Tuy nhiên theo cách tiếp cận của chúng tôi,
có thể quy định theo hướng chấm dứt hiệu
lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu do không
còn đáp ứng các điều kiện bảo hộ là hợp lý.
1.5 Các quy định về điều kiện quản lý
SHTT về dược phẩm
Bên cạnh những điều kiện chung về
nhãn hiệu đối với hàng hoá thông thường
còn có các điều kiện về đăng ký sản phẩm
dược do Bộ Y tế quy định. Điều 13 Thông tư
số 44/2014/TT-BYT của Bộ Y tế Quy định
việc đăng ký thuốc quy định mối liên hệ
giữa việc đăng ký thuốc và lưu hành:
“1. Cơ sở đăng ký thuốc chịu trách
nhiệm về SHTT đối với thuốc đăng ký lưu
hành.
2. Các cơ sở đăng ký thuốc xác lập
quyền về SHTT hoặc tiến hành tra cứu các
đối tượng SHTT có liên quan trước khi đăng
ký lưu hành thuốc tại Việt Nam.
3. Trường hợp có tranh chấp về SHTT
trong khi xem xét cấp số đăng ký, bên phản
đối việc cấp số đăng ký cho thuốc có tranh
chấp về SHTT phải cung cấp kết luận của
cơ quan quản lý nhà nước về SHTT hoặc
cơ quan có chức năng thực thi quyền SHTT
về hành vi xâm phạm quyền SHTT. Bộ Y tế
không cấp số đăng ký lưu hành cho thuốc
đó nếu có đủ cơ sở để khẳng định thuốc khi
được cấp số đăng ký lưu hành sẽ xâm phạm
quyền SHTT đang được bảo hộ của cá nhân,
tổ chức khác”.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 4(380) T2/2019
Như vậy, đăng ký xác lập quyền
SHTT là điều kiện tiên quyết trước khi đăng
ký lưu hành. Như vậy Cục Quản lý dược và
Cục SHTT phải có mối liên hệ mật thiết với
nhau trong việc bảo hộ quyền SHTT của sản
phẩm thuốc.
2. Một số bất cập của pháp luật về điều
kiện bảo hộ nhãn hiệu dược phẩm
Dược phẩm là một đối tượng đặc biệt
được điều chỉnh với nhiều quy định khác
nhau. Các nhãn hiệu dược phẩm phải được
bảo hộ thông qua các quy trình khác nhau.
Ngoài việc nhãn hiệu của sản phẩm dược thể
hiện tên sản phẩm hoặc tên công ty sản xuất,
ở châu Âu, một sản phẩm muốn được lưu
hành trên thị trường phải thông qua Cơ quan
quản lý thuốc (European Medicines Agency
EMA), theo đó, những nhãn hiệu này phải
thoả mãn những điều kiện được quy định
tại Điều 1(20) của Chỉ thị 2001/83/EC8 về
việc quản lý các sản phẩm dược phẩm được
sử dụng trên người. Tên của dược phẩm là
tên của sáng chế sản phẩm thuốc, tên chung
hoặc tên khoa học, kết hợp với tên của nhãn
hiệu hoặc tên của doanh nghiệp. Tại Việt
Nam nhãn hiệu của các sản phẩm dược chưa
được quản lý lưu hành thật sự chặt chẽ, vì
trên thực tế, Luật SHTT năm 2005 quy định
về nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu, áp dụng cho
sản phẩm dược nhưng không có cơ chế kiểm
8 Directive 2001/83/EC of the European parliament and of the Council of 6 november 2001 on the community
Code relating to medicinal products for human use (OJ l 311, 28.11.2001, p. 67).
9 Nội dung bản án “Ngày 19/02/2014, Cty Kim Đồng khởi kiện cho rằng từ tháng 12/2012, Cty CVS đã sử dụng các dấu
hiệu “SEXTRA”, “SEXtra và hình” gắn trên bao bì sản phẩm, giấy tờ giao dịch và quảng cáo gây nhầm lẫn và xâm
phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu “SEFTRA” của Cty Kim Đồng đang được bảo hộ theo Điều 129.1c Luật Sở hữu
trí tuệ. Yêu cầu Cty CVS chấm dứt hành vi xâm phạm, cải chính xin lỗi đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng
(đăng báo) và phải bồi thường 2.230.595.000 đồng.”
10 Nội dung bản án, “Tại đơn khởi kiện ngày 18/7/2011 của ông Lâm Tòng Thanh, chủ cơ sở Hinh Hòa cũng như trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải chấm dứt hành vi vi
phạm nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp của Cở sở Hinh Hòa đối với những dòng sản phẩm sau:
Thuốc nước: Hạnh Đức Khu Phong Tê Thấp Thủy.
Thuốc nước: Hạnh Đức Mát Gan Bổ Thận Thủy.
Thuốc nước: Hạnh Đức Khang Nhi Bửu.
Thuốc nước: Hạnh Đức An Phế Thủy”.
tra, mãi đến khi có tranh chấp mới phát hiện
sự việc.
Bản án số 37/2017/KDTM-PT ngày
27/02/2017 của Toà án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội 9, liên quan đến việc xem xét
các điều kiện của sản phẩm thuộc nhóm đối
tượng dược phẩm được cấp nhãn hiệu của
sản phẩm dược SEFTRA. Việc cấp nhãn
hiệu dược phẩm này không xem xét đến
việc sản phẩm này có được sử dụng trên thị
trường hay không là một thiếu sót trong việc
phối hợp quản lý. Hậu quả là những nhãn
hiệu này không được sử dụng trên thực tế
nên bị chấm dứt hiệu lực. Trong bản án sơ
thẩm, Toà án đã xét xử vụ án theo hướng
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Công
ty Kim Đồng yêu cầu Công ty CVS phải bồi
thường cho nguyên đơn vì vi phạm quyền
đối với nhãn hiệu hàng hoá. Tuy nhiên, trong
bản án phúc thẩm, do Giấy chứng nhận đăng
ký nhãn hiệu hàng hóa chấm dứt hiệu lực,
Toà án lại chấp nhận một phần yêu cầu phản
tố của bị đơn và thay đổi mức bồi thường
tổn thất về cơ hội kinh doanh do Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa chấm dứt
hiệu lực.
Bản án số 52/2013/KDTM-ST ngày
14/01/2013 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh10: Cơ sở Hinh Hoà khởi kiện Công ty
Huỳnh Ký yêu cầu chấm dứt hành vi xâm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 4(380) T2/2019
phạm nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công
nghiệp đối với các sản phẩm thuốc nước. Tuy
nhiên, những sản phẩm thuốc này không còn
sản xuất trên thực tế.
Cả hai bản án này đều liên quan đến
điều kiện có hiệu lực của nhãn hiệu hàng
hoá dược phẩm. Trong đó xuất hiện tình
trạng nhãn hiệu về dược phẩm đã đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá nhưng không sản xuất,
lưu thông thuốc hoặc không còn sản xuất
sản phẩm dược mang nhãn hiệu này nữa mà
không bị chấm dứt hay huỷ bỏ hiệu lực, cho
đến khi có xác nhận của Cục Quản lý dược
thì Cục SHTT mới có căn cứ để chấm dứt
hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu hàng hóa đối với sản phẩm dược này.
Điều này thể hiện sự không chặt chẽ của
quy định về điều kiện chấm dứt hiệu lực của
nhãn hiệu hàng hóa, gây ra sự lúng túng của
Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến nhãn hiệu dược phẩm.
3. Đề xuất kiến nghị
Căn cứ vào những yêu cầu về điều
kiện có hiệu lực của nhãn hiệu dược phẩm,
cần sửa đổi quy định của Luật SHTT về thời
hạn sử dụng nhãn hiệu theo hướng rút ngắn
hơn để đảm bảo tính hiệu quả của nhãn hiệu
như là một dấu hiệu gắn lên hàng hoá, dịch
vụ của sản phẩm, theo đó:
- Sửa đổi điểm d khoản 1 Điều 95 Luật
SHTT theo hướng rút ngắn thời gian bảo vệ
hiệu quả cho nhãn hiệu:
- Nhãn hiệu không được chủ sở hữu
hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử
dụng trong thời hạn ba năm liên tục trước
ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà
không có lý do chính đáng, trừ trường hợp
việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại
trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu
cầu chấm dứt hiệu lực.
Như vậy, điều kiện bảo hộ đối với nhãn
hiệu dược phẩm được cụ thể hơn, đáp ứng
các điều kiện của nhãn hiệu thông thường và
điều kiện của nhãn hiệu của sản phẩm dược.
Ngoài ra, quy định một khoảng thời
gian hợp lý về nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu
là “ba năm” cho phù hợp. Riêng đối với sản
phẩm dược cần phải quy định thêm nghĩa vụ
thông báo về tình trạng sản phẩm có được
sử dụng hay không. Việc đưa ra quy định
chặt chẽ về thời hạn chấm dứt nhãn hiệu góp
phần giảm thiểu tranh chấp xảy ra, đặc biệt
góp phần quản lý tốt hơn sản phẩm dược.
Ngoài ra, quy định về nhãn hiệu dược phẩm
cũng cần có những cơ chế chặt chẽ hơn để
điều chỉnh vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả và
những vi phạm liên quan đến hành vi xâm
phạm SHTT về nhãn hiệu■
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Luật Dược 2016
2. Luật SHTT 2005, Luật sửa đổi năm 2009.
3. Thông tư số 08/2004/TT-BYT hướng dẫn việc quản lý các sản phẩm thực phẩm chức năng.
4. Thông tư số 44/2014/TT-BYT Quy định việc đăng ký thuốc.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 4(380) T2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_dieu_kien_bao_ho_doi_voi_nhan_hieu_duoc_pham.pdf