Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán và các văn bản hướng dẫn thi hành luật kiểm toán Nhà nước

Để tránh sự chồng chéo về hoạt động giữa KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, pháp luật KTNN cần có quy định về sự phối hợp hoạt động của các cơ quan này ngay từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thanh tra hàng năm, theo hướng: kế hoạch kiểm toán hàng năm sau khi KTNN quyết định là cơ sở để các cơ quan thanh tra, kiểm tra xây dựng kế hoạch hoạt động của mình; trong quá trình hoạt động nếu phát sinh chồng chéo, các bên cần chủ động phối hợp để giải quyết nhằm nâng cao hiệu lực hoạt động cũng như tránh gây phiền hà cho các đơn vị được kiểm toán, thanh tra, kiểm tra. Ngoài ra, cũng cần phải có quy định về mối quan hệ giữa KTNN với các phân hệ kiểm toán khác, nhất là Kiểm toán độc lập nhằm phát huy hết vai trò của công cụ kiểm toán trong nền kinh tế quốc dân; sử dụng và phát huy tối đa năng lực kiểm toán (cả kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ và KTNN) mà KTNN giữ vai trò chủ đạo

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán và các văn bản hướng dẫn thi hành luật kiểm toán Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOAÂN THIÏÅN HÏÅ THÖËNG CHUÊÍN MÛÅC, QUY TRÒNH KIÏÍM TOAÁN VAÂ CAÁC VÙN BAÃN HÛÚÁNG DÊÎN THI HAÂNH LUÊÅT KIÏÍM TOAÁN NHAÂ NÛÚÁC Đặng Văn Hải* Đặng minH Hiền** 37 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Kiểm toán Nhà nước (KTNN) ra đờivà hoạt động trên cơ sở Nghị địnhsố 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của KTNN. Đây là các cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động trong giai đoạn đầu của một thiết chế mới trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước ta. Qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của KTNN không ngừng được hoàn thiện: Luật KTNN được Quốc hội khoá XI thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006 đã nâng cao địa vị pháp lý của KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Luật KTNN đã quy định đầy đủ, toàn diện hơn về tổ chức và hoạt động của KTNN, lần đầu tiên, các vấn đề về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, trách nhiệm gửi và cung cấp báo cáo kiểm toán, vấn đề công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán được quy định cụ thể, chi tiết. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một điều (Điều 118) để hiến định địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN. Đây là ghi nhận có ý nghĩa trọng đại trong tiến trình 20 năm xây dựng và phát triển của KTNN, nâng tầm KTNN từ cơ quan được “luật định” thành cơ quan được “hiến định”, nâng cao vị thế, vai trò, trách nhiệm của KTNN trong kiểm toán hoạt động quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Để cụ thể hóa quy định về KTNN trong Hiến pháp, ngày 24/6/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật KTNN, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Luật KTNN năm 2015 thay thế Luật KTNN năm 2005 và đã cụ thể hóa các quy định về KTNN trong Hiến pháp năm 2013. Từ Hiến pháp và các văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của KTNN ngày càng đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Sau 20 năm hoạt động, tổ chức của KTNN đã có bước phát triển vượt bậc, * TS. Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Kiểm toán Nhà nước. ** ThS. Khoa Kế toán kiểm toán, Học viện Ngân hàng - Phân viện Bắc Ninh. 38 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không ngừng được củng cố và hoàn thiện, phù hợp với vai trò, vị trí của KTNN trong từng giai đoạn phát triển. Với mô hình quản lý tập trung, tổ chức bộ máy của KTNN đến nay đã có 32 đơn vị trực thuộc, trong đó có 8 KTNN chuyên ngành và 13 KTNN khu vực. Đội ngũ và chất lượng cán bộ cũng phát triển vượt bậc, đến nay đã có gần 2.000 người, 100% đội ngũ kiểm toán viên đều có trình độ từ đại học trở lên. KTNN đã chú trọng thực hiện đồng bộ từ khâu tuyển dụng, đặc biệt là thu hút các sinh viên xuất sắc, thủ khoa từ các trường đại học, đồng thời thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện, thử thách qua điều động, luân chuyển và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý của KTNN cơ bản đảm bảo tiêu chuẩn, phát huy được năng lực. KTNN cũng đã đa dạng hóa các hình thức đào tạo, cử hàng trăm lượt công chức đi học tập, nghiên cứu, tham gia các hội thảo ở nước ngoài. Hiện nay, KTNN đã có Trường Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ riêng của ngành nhằm từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tiến tới chuyên nghiệp hóa. Hoạt động KTNN ngày càng được mở rộng, quy mô hoạt động kiểm toán đều tăng dần hợp lý qua từng năm, đa dạng về loại hình và phương thức kiểm toán, tiến bộ về chất lượng kiểm toán và hiệu quả kiểm toán, nhất là sau khi có Luật KTNN và Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020. Những kiến nghị của KTNN trong từng cuộc kiểm toán ngày càng đa dạng, cụ thể và có chất lượng hơn, được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, giám sát, phê chuẩn dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước (NSNN) và thực hiện chính sách pháp luật; các đơn vị được kiểm toán đã khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả sử dụng tài chính, tài sản công. Trong 05 năm gần đây, hầu hết ngân sách các bộ, cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều được kiểm toán ít nhất 02 năm một lần, các thành phố lớn được kiểm toán hàng năm. Trong hoạt động kiểm toán, KTNN đã tiến hành đồng thời 03 loại hình kiểm toán, trong đó thời gian đầu tập trung kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, đến nay, tỷ trọng loại hình kiểm toán hoạt động đang dần được nâng lên. Thực hiện Luật KTNN, từ năm 2006, KTNN đã tham gia thảo luận về dự toán NSNN, đây là tiền đề quan trọng để KTNN tổ chức phương thức kiểm toán trước một cách hiệu quả với điều kiện khi có đầy đủ cơ sở pháp lý. Việc cung cấp báo cáo kiểm toán, công bố công khai kết quả kiểm toán được thực hiện đúng quy định của pháp luật đã góp phần tăng cường tính minh bạch trong quản lý tài chính, tài sản công. Đồng thời, KTNN đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bằng việc kiến nghị hoàn thiện nhiều cơ chế, chính sách. Tổng hợp kết quả kiểm toán 20 năm qua, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 147.580 tỷ đồng, trong đó tăng thu NSNN 29.148 tỷ đồng, giảm chi NSNN 22.365 tỷ đồng. Tính riêng 05 năm gần đây, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 91.168 tỷ đồng, chiếm 62% tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong 20 năm qua, trong đó tăng thu NSNN 14.290 tỷ đồng, giảm chi NSNN 14.527 tỷ đồng. KTNN cũng đã kiến nghị sửa đổi, hoặc huỷ bỏ hàng trăm văn bản sai quy định hoặc không còn phù hợp với thực tế. Chỉ tính từ năm 2009 đến nay, KTNN đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung 206 văn bản, kiến nghị hủy bỏ 134 văn bản. Đây là những đóng góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn của cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước. Mặc dù đã có những bước phát triển vượt bậc trên phương diện lập pháp đối với 39 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT lĩnh vực KTNN, song, để bảo đảm hiệu lực của các quy định về KTNN trong Hiến pháp và hiệu lực của Luật KTNN năm 2015, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình KTNN và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật KTNN, cụ thể như sau: Thứ nhất: Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật KTNN năm 2015 Luật KTNN năm 2015 giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định chi tiết về chế độ đối với cán bộ, công chức của KTNN (Điều 62); giao cho Tổng KTNN quy định chi tiết việc ban hành: hệ thống chuẩn mực KTNN (Điều 6), chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc KTNN (Điều 13), nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng (Điều 17), quy chế làm việc của Hội đồng KTNN (Điều 18), quy định mẫu thẻ và chế độ quản lý, sử dụng Thẻ kiểm toán viên nhà nước (Điều 26), sử dụng cộng tác viên KTNN (Điều 29), chuyển hồ sơ tài liệu phục vụ cho kiểm toán ngoài trụ sở của đơn vị được kiểm toán (Điều 34), quy định về gửi Báo cáo kiểm toán (Điều 47), quy định về hồ sơ kiểm toán (Điều 52), quy định về thời gian, nơi nhận báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách của đơn vị được kiểm toán (Điều 58). Theo quy định tại khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015 thì: “VBQPPL hết hiệu lực thì VBQPPL quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”. Quy định này đã đặt ra yêu cầu phải xây dựng mới các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật KTNN năm 2015. Hiện nay, KTNN đã ban hành Chương trình xây dựng VBQPPL triển khai thi hành Luật KTNN (sửa đổi) với 30 văn bản; trong đó, ban hành mới 5 văn bản, sửa đổi, bổ sung 25 văn bản, bao gồm: Hệ thống Chuẩn mực KTNN (40 chuẩn mực), các quy trình, quy chế kiểm toán và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật KTNN năm 2015. Để bảo đảm hiệu lực và tính khả thi, các văn bản nêu trên phải phù hợp và quy định chi tiết các quy định có liên quan của Luật KTNN năm 2015, nhất là những điểm mới sau đây: - Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN Để cụ thể hoá quy định về KTNN tại Điều 118 Hiến pháp năm 2013, Luật KTNN năm 2015 quy định mở rộng đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và hoạt động có liên quan đến việc quản lý tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán; đồng thời, quy định rõ nội dung tài chính công, tài sản công thuộc phạm vi kiểm toán của KTNN. - Bổ sung nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN Bổ sung nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; trung thực, khách quan” thêm cụm từ “công khai, minh bạch” để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, nâng cao tính độc lập, công khai, minh bạch của KTNN: Quyết định kế hoạch kiểm toán hằng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện (khoản 1 Điều 10); Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 12); quy định về thời hạn kiểm toán (Điều 34); bỏ quy định về kiểm toán đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh... - Khẳng định giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán Luật KTNN năm 2015 khẳng định giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN 40 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT lập và công bố sau mỗi cuộc kiểm toán để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của KTNN do Tổng KTNN hoặc người được Tổng KTNN ủy quyền ký tên, đóng dấu. Báo cáo kiểm toán của KTNN sau khi phát hành và công khai có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Báo cáo kiểm toán của KTNN là căn cứ để Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại. - Chế định Tổng KTNN được sửa đổi cho phù hợp với quy định của Hiến pháp Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN là 05 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Tổng KTNN có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ liên tục (Điều 12). - Quy định tiêu chuẩn về nghề nghiệp đối với Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng phải là Kiểm toán viên chính trở lên. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng do Tổng KTNN quy định. - Quy định về Kiểm toán viên nhà nước So với Luật KTNN năm 2005, Luật KTNN năm 2015 có nhiều điểm mới: Bỏ ngạch kiểm toán viên dự bị, đồng thời phân cấp cho Tổng KTNN bổ nhiệm đối với kiểm toán viên cao cấp; bổ sung và quy định chi tiết tiêu chuẩn bổ nhiệm các ngạch Kiểm toán viên nhà nước tại các Điều 23, 24, 25; miễn nhiệm Kiểm toán viên nhà nước (Điều 27) và các trường hợp không được bố trí làm thành viên Đoàn kiểm toán (Điều 28). - Hoạt động kiểm toán Quy định cụ thể về thời hạn kiểm toán (Điều 34); quy định rõ và chi tiết hơn về cơ cấu và thành phần Đoàn kiểm toán (Điều 37); bổ sung quy định về tiêu chuẩn Trưởng đoàn kiểm toán, Phó trưởng đoàn kiểm toán và Tổ trưởng Tổ kiểm toán (Điều 38); sửa đổi, bổ sung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Trưởng đoàn kiểm toán cho phù hợp thực tiễn hoạt động kiểm toán (Điều 39); quy định cụ thể phạm vi và hình thức công khai kết quả kiểm toán. - Đơn vị được kiểm toán Để phù hợp với phạm vi, đối tượng kiểm toán đã được mở rộng, bên cạnh những đơn vị được kiểm toán như quy định của Luật KTNN năm 2005, Luật KTNN năm 2015 bổ sung đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý, sử dụng nợ công; đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống, khi cần thiết, Tổng KTNN quyết định lựa chọn mục tiêu, tiêu chí, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp (Điều 55). Quy định cho đơn vị được kiểm toán có quyền: khiếu nại về đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán khi có căn cứ cho rằng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đó là trái pháp luật. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại (điểm c khoản 2 Điều 69); trong đó, có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Thứ hai: Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình KTNN Kiểm toán là một nghề đòi hỏi sự khắt khe, cẩn trọng trong chuyên môn, nghề nghiệp. Hoạt động kiểm toán là một trong những hoạt động mang tính chuyên nghiệp 41 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT cao, luôn phải tuân thủ theo hệ thống chuẩn mực, quy trình nghề nghiệp thống nhất. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán không chỉ là cơ sở cho hoạt động nghề nghiệp mà còn là cơ sở để kiểm tra, đánh giá hoạt động của Kiểm toán viên nhà nước. Từ năm 2013, KTNN đã tổ chức xây dựng và hiện đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống chuẩn mực KTNN theo hướng tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán quốc tế của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao (ISAIs), trong năm 2016, KTNN sẽ ban hành toàn bộ 40 Chuẩn mực KTNN; xây dựng và hoàn thiện quy trình kiểm toán chung và các quy trình kiểm toán chuyên ngành theo từng nội dung kiểm toán về kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động phù hợp với quy định của Luật KTNN năm 2015. Để thực hiện tốt quy định của Luật KTNN, chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán, cần hoàn thiện Quy chế Kiểm soát chất lượng kiểm toán, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho các báo cáo kiểm toán khi phát hành có chất lượng cao, các kết luận đưa ra có tính thuyết phục, các kiến nghị kiểm toán phù hợp với pháp luật và có tính khả thi cao. Đồng thời, qua đó đánh giá được chất lượng công tác kiểm toán của các Đoàn kiểm toán. Nội dung Quy chế Kiểm soát chất lượng kiểm toán cần quy định rõ: các nguyên tắc, hình thức, nội dung, phương pháp kiểm soát, trình tự kiểm soát chất lượng kiểm toán; trách nhiệm các chủ thể kiểm soát... Tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán ở tất cả các khâu của quy trình kiểm toán và trách nhiệm của từng cấp kiểm soát từ bên trong và bên ngoài đối với từng Đoàn kiểm toán. Việc kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán trước hết phải do chính bản thân các kiểm toán viên, Tổ trưởng Tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán trưởng tự thực hiện nhằm nâng cao trách nhiệm của những người thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và lập hồ sơ kiểm toán. Đối với các cuộc kiểm toán có quy mô lớn, nội dung phức tạp, có liên quan đến nhiều đơn vị hoặc những cuộc kiểm toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật của thành viên Đoàn kiểm toán, ngoài việc kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán từ bên trong, cần phải có sự kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài của các vụ chức năng thuộc KTNN (Vụ Pháp chế, Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, Thanh tra KTNN) nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan; kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp của KTV và các thành viên Đoàn kiểm toán. Thứ ba: Ban hành văn bản của cơ quan có thẩm quyền về xử lý vi phạm pháp luật KTNN Trong hoạt động kiểm toán luôn có những hành vi cố ý hay vô ý của đơn vị được kiểm toán, của tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các quy định của Nhà nước về hoạt động KTNN. Đó chính là các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN. Các hành vi vi phạm pháp luật này tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử lý, có những hành vi bị xử lý hình sự khi gây nguy hiểm lớn cho xã hội và có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đa số các hành vi vi phạm pháp luật KTNN không phải là tội phạm mà là vi phạm hành chính và phải bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Thực tế hoạt động kiểm toán những năm qua cho thấy, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan như: không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu; không thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán..., song những hành vi vi phạm đó chưa bị xử lý đã làm giảm hiệu lực của hoạt động kiểm toán 42 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng nêu trên là do Nhà nước chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Vì vậy, việc sớm ban hành văn bản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN là rất cần thiết. Việc xây dựng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về xử phạt hành chính trong lĩnh vực KTNN cần tập trung vào 03 nhóm hành vi vi phạm sau đây: Thứ nhất, hành vi của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các điều cấm, vi phạm các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của Luật KTNN trong quá trình thực hiện kiểm toán: (1) Không chấp hành quyết định kiểm toán; (2) Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho cuộc kiểm toán theo yêu cầu của KTNN và Kiểm toán viên nhà nước; (3) Không lập và gửi đầy đủ, kịp thời báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán dự án đầu tư; kế hoạch thu, chi; báo cáo tình hình chấp hành và quyết toán ngân sách cho KTNN theo yêu cầu; (4) Không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước; (5) Báo cáo sai lệch, không trung thực, không đầy đủ và thiếu khách quan thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán của KTNN; sửa đổi, chuyển dời, cất giấu, huỷ hoại tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán; (6) Không trả lời và giải trình đầy đủ, kịp thời các vấn đề do Đoàn kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước yêu cầu; (7) Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán không ký hoặc trì hoãn ký biên bản kiểm toán; (8) Mua chuộc, hối lộ Kiểm toán viên nhà nước; (9) Che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách; (10) Cản trở công việc của KTNN và Kiểm toán viên nhà nước; (11) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán của KTNN. Thứ hai, hành vi vi phạm hành chính của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN: (1) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị của KTNN về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; (2) Không thực hiện các biện pháp để khắc phục yếu kém trong hoạt động theo kết luận, kiến nghị của KTNN; (3) Không báo cáo bằng văn bản về kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán cho KTNN theo quy định. Thứ ba, hành vi vi phạm hành chính của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc công khai kết quả kiểm toán: (1) Không thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định; (2) Công khai kết quả kiểm toán không đầy đủ về nội dung, hình thức, thời hạn quy định; (3) Công khai tài liệu, số liệu sai sự thật; (4) Công khai tài liệu, số liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp của cơ quan, đơn vị, tổ chức được kiểm toán theo quy định của pháp luật; (5) Đưa tin, bài phản ánh về công khai kết quả kiểm toán không chính xác, không trung thực, khách quan. Thứ tư: Quy định quan hệ phối hợp giữa KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra và với các loại hình kiểm toán khác trách tài phán vi hiến thì hậu quả trên lại càng trở nên trầm trọng. - Năm là, giải thích chính thức Hiến pháp, luật và pháp lệnh là giải thích mà nội dung của lời giải thích có giá trị bắt buộc chung. Trong lúc đó, luật pháp nước ta không quy định quy trình, thủ tục giải thích. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, chất lượng giải thích không cao. Cho đến nay, những vấn đề như: cơ quan nào có thẩm quyền giải thích chính thức luật? ai có quyền yêu cầu giải thích chính thức luật? nội dung và phương pháp giải thích là gì? chưa được quan niệm thống nhất và quy định rõ ràng trong luật. Nhân đây, xin có một số ý kiến giải quyết nhu cầu nêu trên: Về thẩm quyền của chủ thể giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh cần được phân công như sau: cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo luật định (Điều 119 Hiến pháp năm 2013) phải có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh theo một quy trình được luật định, không gắn với những vụ việc cụ thể và chỉ thực hiện khi có đề nghị của một hay một số chủ thể nhất định. Có thể, đó là đề nghị của đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Việc giải thích từ các yêu cầu của các cơ quan tổ chức và cá nhân này trở thành chuẩn mực, có tính bắt buộc (giải thích có tính quy phạm pháp luật), Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể bằng các án lệ hay nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc giải thích này theo đề nghị của công dân, tổ chức kinh tế không hạn chế cá nhân, tổ chức yêu cầu giải thích như của cơ quan bảo vệ Hiến pháp chuyên trách. Đây là hình thức giải thích chính thức Hiến pháp, luật, pháp lệnh thông qua vụ việc cụ thể xảy ra trong đời sống xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, giải thích luật là nhân tố không tách rời với việc đề cao vai trò của Hiến pháp và các đạo luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Nhà nước ta đang vận động và phát triển theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, giải thích luật nhất định sẽ được đổi mới và hoàn thiện một cách căn bản, phù hợp với xu hướng chung của nhân loại n Thực trạng... (TiÕp theo trang 7) 43 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Để tránh sự chồng chéo về hoạt động giữa KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, pháp luật KTNN cần có quy định về sự phối hợp hoạt động của các cơ quan này ngay từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thanh tra hàng năm, theo hướng: kế hoạch kiểm toán hàng năm sau khi KTNN quyết định là cơ sở để các cơ quan thanh tra, kiểm tra xây dựng kế hoạch hoạt động của mình; trong quá trình hoạt động nếu phát sinh chồng chéo, các bên cần chủ động phối hợp để giải quyết nhằm nâng cao hiệu lực hoạt động cũng như tránh gây phiền hà cho các đơn vị được kiểm toán, thanh tra, kiểm tra. Ngoài ra, cũng cần phải có quy định về mối quan hệ giữa KTNN với các phân hệ kiểm toán khác, nhất là Kiểm toán độc lập nhằm phát huy hết vai trò của công cụ kiểm toán trong nền kinh tế quốc dân; sử dụng và phát huy tối đa năng lực kiểm toán (cả kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ và KTNN) mà KTNN giữ vai trò chủ đạo n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_he_thong_chuan_muc_quy_trinh_kiem_toan_va_cac_van.pdf
Tài liệu liên quan