Nếu bộ sách được xác nhận ủy quyền
cho phép sử dụng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
phải công bố công khai các thông tin sau
trong Công báo quốc gia: tên sách được
ủy quyền; ngày và số của từng loại sách
ủy quyền; số lượng bản in, hình thức in, số
lượng trang, số tập trên mỗi ðầu sách, môi
19 Điều 19 Quy định về Sách giáo khoa, được sửa đổi bởi Nghị định số 24423 của Tổng thống (ngày 23/3/2013).
20 Điều 11 Quy định về Sách giáo khoa, được sửa đổi bởi Nghị định số 24423 của Tổng thống (ngày 23/3/2013).
trường sử dụng (đối với bản ghi âm, hình
ảnh và tác phẩm điện tử); chất lượng giấy
và phương cách đóng sách; các loại trường
và niên học có thể sử dụng sách này; tên tác
giả; địa chỉ và tên của các nhà xuất bản20.
Như vậy, việc phân loại sách giáo khoa
thành các nhóm sách cụ thể (gồm “Sách do
Chính phủ chỉ định"; "Sách được ủy quyền"
và "Sách được phê duyệt") tại Hàn Quốc
phần nào đó đã tạo sự thuận tiện cho việc
áp dụng các cơ chế thẩm định và lựa chọn
khác nhau. Từ việc phân nhóm sách giáo
khoa cụ thể như vậy nên việc sử dụng sách
giáo khoa cho từng cấp học cũng được cân
nhắc cụ thể từng cấp học nào sẽ ưu tiên dùng
sách loại nào để đảm bảo sự nhận thức hoàn
chỉnh của học sinh với nguyên tắc lựa chọn
sách giáo khoa rất cụ thể. Đặc biệt, những
nguyên tắc về sự minh bạch trong thẩm định
và lựa chọn sách giáo khoa cũng giúp cho
hoạt động này đạt được hiệu quả cao và dễ
dàng hơn trong việc đạt được sự đồng thuận
giữa các bên trong quá trình dạy và học
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện hoạt động thẩm định và lựa chọn sách giáo khoa và các gợi ý từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH VÀ LỰA CHỌN SÁCH GIÁO KHOA
VÀ CÁC GỢI Ý TỪ KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC
Tóm tắt:
Luật Giáo dục năm 2019 được ban hành để hoàn thiện hơn các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trong
đó bao gồm định hướng mới về biên soạn, thẩm định và lựa chọn
sách giáo khoa. Theo đó, việc biên soạn sách giáo khoa được xã
hội hóa và Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quy định các khung quy
chuẩn để thẩm định và lựa chọn. Để góp ý hoàn thiện các quy
định của pháp luật về phân loại, thẩm định và lựa chọn sách giáo
khoa theo định hướng mới này, bài viết có nêu các kinh nghiệm
từ Hàn Quốc để tham khảo.
Đặng Tất Dũng*
* TS. GV. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
Law on Education of 2019 was issued to enhance the effectiveness
of the legal framework in education and training sector, including
the new regulations on compilation, appraisal and selection
of textbooks. Accordingly, the compilation of textbooks shall
be socialized and the Ministry of Education and Training
only stipulates the normative frameworks for evaluation and
selection. For further improvements of the legal regulations on
classification, appraisal and selection of textbooks adapting the
new undertakings, this article presents experiences from Korea for
Vietnam’s reference.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Sách giáo khoa, Luật Giáo dục
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 21/08/2019
Biên tập : 27/08/2019
Duyệt bài : 28/08/2019
Article Infomation:
Keywords: textbook, school book,
Education Law.
Article History:
Received : 21 Aug. 2019
Edited : 27 Aug. 2019
Approved : 28 Aug. 2019
Luật Giáo dục năm 2019 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 7 để thay thế cho Luật Giáo dục
năm 2005 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục năm 2009 nhằm cụ
thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về
đổi mới giáo dục và đào tạo, trong đó bao
gồm những định hướng mới về biên soạn,
thẩm định và lựa chọn sách giáo khoa.
Tuy nhiên, để hoạt động thẩm định và lựa
chọn sách giáo khoa được hoàn thiện theo
định hướng của Luật Giáo dục năm 2019
và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hai câu hỏi
cần được làm rõ gồm: khái niệm sách giáo
khoa và sự phân loại sách giáo khoa như
thế nào? Cơ chế thẩm định và lựa chọn với
từng nhóm loại sách giáo khoa nên như
thế nào?
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 18(394) T9/2019
1. Sách giáo khoa và phân loại sách
giáo khoa
Tại mục giải thích từ ngữ của Luật
Giáo dục năm 20191 không giải thích về
thuật ngữ “sách giáo khoa” nhưng trong
Luật Giáo dục năm 2019, những cách hiểu
về sách giáo khoa được quy định rải rác
trong các quy định về “Chương trình giáo
dục” (Chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu cầu cần
đạt về phẩm chất và năng lực người học quy
định trong chương trình giáo dục phải được
cụ thể hóa thành sách giáo khoa đối với giáo
dục phổ thông)2 và trong quy định về phân
loại “Sách giáo khoa” tại Điều 32. Theo đó,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông được quy
định như sau3: “Sách giáo khoa triển khai
chương trình giáo dục phổ thông, cụ thể
hóa yêu cầu của chương trình giáo dục phổ
thông về mục tiêu, nội dung giáo dục, yêu
cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh;
định hướng về phương pháp giảng dạy và
cách thức kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo
dục; nội dung và hình thức sách giáo khoa
không mang định kiến dân tộc, tôn giáo,
nghề nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã hội;
sách giáo khoa thể hiện dưới dạng sách in,
sách chữ nổi Braille, sách điện tử”.
Như vậy, sách giáo khoa được hiểu
chung là các sách để “triển khai chương
trình giáo dục phổ thông, cụ thể hóa yêu
cầu của chương trình giáo dục phổ thông”
nhưng vẫn chưa được xác định cụ thể là loại
sách nào. Trong quá trình giảng dạy trong
các trường phổ thông, nhiều loại sách có thể
được dùng tại lớp như: sách kiến thức, sách
1 Điều 5, Luật Giáo dục 2019.
2 Điều 8, Luật Giáo dục năm 2019.
3 Khoản 1, Điều 32, Luật Giáo dục năm 2019.
4 Điều 100, Luật Giáo dục năm 2019 quy định: Việc xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học; sản xuất và
cung ứng thiết bị dạy học, đồ chơi cho trẻ em trong cơ sở giáo dục mầm non; nhập khẩu sách, báo, tài liệu giảng dạy,
học tập, thiết bị dạy học, thiết bị nghiên cứu dùng trong cơ sở giáo dục được Nhà nước ưu đãi về thuế theo quy định của
pháp luật.
5 Nghị định của Tổng thống (Presidential Decree) số 2556 (ngày 08/10/2014) về “Quy định về sách học”.
tham khảo, sách bài tập... và không có loại
sách nào được in rõ ngoài bìa là “sách giáo
khoa”. Do vậy, tất cả các sách được dùng
trong trường học phổ thông đều được xem là
sách giáo khoa hay chỉ một số loại sách nào
trong các loại trên sẽ được xem là sách giáo
khoa và cần áp dụng quy trình thẩm định
chặt chẽ dành cho sách giáo khoa? Nếu tất
cả đều được xem là sách giáo khoa và thẩm
định như nhau thì có thực sự cần thiết và đủ
thời gian thẩm định hết?
Trong bối cảnh xã hội hóa mở rộng
việc biên soạn sách giáo khoa như Luật
Giáo dục năm 2019 quy định thì việc xác
định những sách nào được xem như sách
giáo khoa là quan trọng không chỉ vì có thể
phải phân chia quy trình thẩm định khác biệt
cho các loại sách khác nhau mà còn vì các
quy định “về ưu đãi về thuế đối với sách
giáo khoa và tài liệu, thiết bị dạy học” có thể
cũng có sự phân hóa khác biệt4.
Tại Hàn Quốc, sách giáo khoa của học
sinh gồm sách học và các sách hướng dẫn
học khác. "Sách giáo khoa" được hiểu là các
sách, bản ghi âm, hình ảnh, tác phẩm điện
tử... được sử dụng trong các trường học để
giáo dục học sinh, còn "sách hướng dẫn" là
sách, bản ghi âm, hình ảnh, tác phẩm điện
tử... được sử dụng bởi giáo viên để giáo dục
học sinh tại trường5. Tuy nhiên, do khái niệm
sách giáo khoa là một khái niệm khá rộng,
do vậy, trong Điều 2, Quy định về các sách
học tập (Regulations on Curriculum Books)
của Bộ Giáo dục Hàn Quốc lại tiếp tục phân
cấp thành 3 loại sách giáo khoa và được Bộ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 18(394) T9/2019
Giáo dục giải thích làm rõ là:
- “Sách do Chính phủ chỉ định”
(government-designated books) là sách học
do Bộ Giáo dục giữ bản quyền;
- “Sách được ủy quyền” là sách học do
Bộ trưởng Bộ Giáo dục ủy quyền soạn thảo
và xuất bản bởi những nhà xuất bản tư nhân
(authorized by the Minister of Education
and published by private publishers);
- “Sách được phê duyệt” có nghĩa
là sách được Bộ trưởng Bộ Giáo dục chấp
thuận sử dụng trong trường hợp không có
sách do Chính phủ chỉ định hoặc sách được
uỷ quyền tồn tại, hoặc khó sử dụng hoặc
cần bổ sung (recognized by the Minister of
Education as relevant and useful).
Việc phân loại tốt các nhóm sách sử
dụng trong quá trình giảng dạy cũng tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc thẩm định, sử
dụng sách giáo khoa cho từng cấp học. Luật
Giáo dục tiểu học và trung học Hàn Quốc
và Nghị định của Tổng thống về sách giáo
khoa dựa trên cơ sở phân loại đó để quy định
cụ thể hơn, như đối với bậc học mẫu giáo,
tài liệu giảng dạy cho giáo viên là những
sách giáo khoa “nhóm một” (sách học do Bộ
Giáo dục giữ bản quyền). Đối với chương
trình giảng dạy ở cấp tiểu học, được phép
sử dụng nhiều loại sách giáo khoa cho mỗi
môn học nhưng cũng là những sách thuộc
“nhóm một”. Ở cấp trung học, các môn
học cơ bản, thiết yếu được thiết kế cho các
trường trung học thuộc nhóm học thuật và
các môn học chuyên ngành dành cho các
trường trung học dạy nghề và các trường
trung học chuyên ngành khác. Sách giáo
khoa, do vậy, cũng được phân chia thành
hai nhóm tương ứng. Hầu hết các sách giáo
khoa của các môn học tại các trường trung
6 Bộ Giáo dục Hàn Quốc, truy cập ngày 16/8/2019.
7 Phần II (2), Nhiệm vụ - giải pháp, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
8 Khoản 1, Điều 2, Nghị quyết số 88/2014/QH13.
học nhóm học thuật, ngoại trừ ngôn ngữ,
đạo đức và lịch sử Hàn Quốc, thuộc “nhóm
2” (sách được Bộ Giáo dục ủy quyền soạn
thảo), còn hầu hết các sách giáo khoa cho
các môn học chuyên ngành của các trường
trung học dạy nghề và các trường trung học
chuyên ngành khác được phát triển bởi các
tổ chức nghiên cứu và trường đại học do Bộ
Giáo dục ủy quyền6.
2. Về thẩm định và lựa chọn sách
giáo khoa
Định hướng “mỗi môn học có một
hoặc một số sách giáo khoa” mà Luật Giáo
dục năm 2019 quy định đã được xác định
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết
số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế7 và trong Nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc
hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông8.
Vì thực hiện xã hội hóa việc biên soạn
sách giáo khoa nên Bộ Giáo dục và Đào tạo
không còn nắm quyền biên soạn sách giáo
khoa mà chuyển sang vị trí “trọng tài”, chỉ
ban hành các tiêu chí và quy trình đánh giá
sách, thẩm định sách giáo khoa và hướng
dẫn việc lựa chọn sách giáo khoa trong các
cơ sở giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, hiện
nay việc biên soạn sách giáo khoa vẫn được
thực hiện theo Quy định về tiêu chuẩn, quy
trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa;
tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách
giáo khoa; tổ chức và hoạt động của hội
đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa Ban
hành kèm theo Thông tư số 33/2017/TT-
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 18(394) T9/2019
BGDĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo (Thông tư số 33/2017/
TT-BGDĐT)9. Theo Thông tư số 33/2017/
TT-BGDĐT, việc thẩm định sách giáo khoa
được thực hiện bởi Hội đồng quốc gia về
thẩm định. Hội đồng quốc gia thẩm định
sách giáo khoa được Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo thành lập theo từng môn học,
hoạt động giáo dục ở từng cấp học, giúp Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định
sách giáo khoa10. Hội đồng bao gồm các nhà
khoa học, nhà giáo dục, nhà quản lý giáo
dục có kinh nghiệm, uy tín về giáo dục và
đại diện các tổ chức có liên quan; có ít nhất
1/3 tổng số thành viên là các nhà giáo đang
giảng dạy môn học, hoạt động giáo dục ở
cấp học tương ứng. Số lượng thành viên Hội
đồng là số lẻ, tối thiểu là bảy người. Thành
viên Hội đồng phải đạt tiêu chuẩn về phẩm
chất đạo đức, tư tưởng và sức khỏe; có trình
độ từ đại học trở lên, am hiểu về khoa học
giáo dục, có chuyên môn phù hợp với sách
giáo khoa được thẩm định; đã từng tham
gia một trong các công việc sau: xây dựng
chương trình giáo dục phổ thông, thẩm định
chương trình giáo dục phổ thông, biên soạn
sách giáo khoa, thẩm định sách giáo khoa;
hoặc có ít nhất ba năm trực tiếp dạy học ở
cấp học có sách giáo khoa được thẩm định11.
Sách giáo khoa sau khi thẩm định có thể
được đánh giá là "Đạt" (khi được ít nhất 3/4
tổng số thành viên Hội đồng xếp loại "Đạt"),
9 Theo thông báo số 543/TB-BGDĐT ngày 24/6/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc “tổ chức thẩm định sách giáo
khoa lớp 1” thì căn cứ để thực hiện hoạt động thẩm định sách gia khoa vào tháng 7/2019 vẫn được thực hiện theo Thông
tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
10 Điều 12 Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
11 Điều 13 Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
12 Điều 16 Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/ 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
13 Điều 32 Luật Giáo dục năm 2019.
14 Trích phát biểu của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí tại phiên thảo luận của Quốc hội ngày 30/5/2018: "Cả một vấn
đề lớn như thế này mà để cho nhiều sách giáo khoa thì quản lý thế nào, thì soạn thế nào, chọn thế nào để mà học, người
nào chọn đây? Bộ trưởng Bộ Giáo dục thành lập hội đồng để thẩm định thì có thẩm định hết không cho 3 bộ, 5 bộ, 15
bộ sách giáo khoa, chỗ nào người ta cũng tìm đến cả thì làm sao mà ngồi thẩm định được. Thẩm định 1 bộ sách giáo
khoa, tôi cam đoan phải làm cả năm và dùng ít nhất 10 đến 15 năm đến 20 tổng kết và bắt đầu từ đó và tính thống nhất
rất quan trọng”.
"Đạt nhưng cần sửa chữa" (khi được ít nhất
3/4 tổng số thành viên Hội đồng xếp loại
"Đạt" và loại "Đạt nhưng cần sửa chữa" hoặc
ít nhất 3/4 tổng số thành viên Hội đồng xếp
loại "Đạt nhưng cần sửa chữa") và "Không
đạt" cho các trường hợp còn lại12. Sau khi
sách được thẩm định, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh sẽ quyết định việc lựa chọn sách giáo
khoa sử dụng ổn định trong cơ sở giáo dục
phổ thông trên địa bàn theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo13.
Quy trình thẩm định sách giáo khoa
như trên rất đầy đủ về khung quy định
(thành phần ban thẩm định, tiêu chuẩn, quy
trình...) nhưng thực tế cho thấy, quy trình
này vẫn còn chưa hoàn chỉnh, dẫn đến vẫn
còn những lỗi sai sót về sách giáo khoa trong
thời gian qua. Việc lựa chọn sách giáo khoa
cũng chưa có những quy định rõ ràng. Do đó,
trong giai đoạn dự thảo Luật Giáo dục năm
2019, vấn đề về quy trình thẩm định và lựa
chọn sách giáo khoa đã được nhiều Đại biểu
Quốc hội quan tâm vì chưa có cơ chế thực
hiện hiệu quả14. Điều này cũng được thể hiện
trong “Tờ trình về tình hình thực hiện Nghị
quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thông” tại phiên họp Chính phủ ngày
13/10/2017. Theo yêu cầu của Nghị quyết
88/2014/QH13, từ năm học 2018 - 2019
sẽ bắt đầu triển khai áp dụng chương trình
và sách giáo khoa mới theo hình thức cuốn
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 18(394) T9/2019
chiếu đối với mỗi cấp tiểu học, trung học
cơ sở và trung học phổ thông. Tuy nhiên,
căn cứ tình hình xây dựng chương trình,
sách giáo khoa mới và chuẩn bị điều kiện
về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của các
cơ sở giáo dục phổ thông trên phạm vi toàn
quốc đến tháng 9 năm 2017, có thể thấy nếu
triển khai theo lộ trình trên thì chất lượng
chương trình, sách giáo khoa mới cũng như
điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất, kỹ
thuật để dạy học theo chương trình, sách
giáo khoa mới chưa bảo đảm, do đó việc đổi
mới chương trình, sách giáo khoa khó đảm
bảo thành công và khó nhận được sự đồng
thuận, yên tâm của xã hội15. Do đó, Quốc hội
đã quyết nghị điều chỉnh lộ trình thực hiện
việc triển khai áp dụng chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo lộ
trình tuần tự trong từng cấp học, chậm nhất
từ năm học 2020-2021 đối với lớp đầu cấp
của cấp tiểu học, từ năm học 2021-2022 đối
với lớp đầu cấp của cấp trung học cơ sở và
từ năm học 2022-2023 đối với lớp đầu cấp
của cấp trung học phổ thông16.
Trong giai đoạn hoàn thiện quy trình
thẩm định và lựa chọn sách giáo khoa tại
Việt Nam theo định hướng của Luật Giáo
dục Việt Nam năm 2019, các kinh nghiệm
của hoạt động này tại Hàn Quốc có thể là
những kinh nghiệm nên tham khảo. Tại Hàn
Quốc, nguyên tắc lựa chọn sách giáo khoa
trong trường học được thực hiện như sau:
Hiệu trưởng trường ưu tiên sử dụng “sách
do Chính phủ chỉ định” khi sách này sẵn
có. Nếu sách do Chính phủ chỉ định không
có, hiệu trưởng sẽ lựa chọn “sách được ủy
15 Trang thông tin Quốc hội: , truy cập
ngày 16/8/2019.
16 Điều 1, Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội ngày 21/11/2017 về Điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về Đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
17 Điều 3 Quy định về Sách giáo khoa, được bổ sung bởi Nghị định số 25646 của Tổng thống (ngày 08/10/2014).
18 Điều 7 Quy định về Sách giáo khoa, được sửa đổi bởi Nghị định số 24423 của Tổng thống (ngày 23/3/2013).
quyền”. Khi hiệu trưởng của trường chọn
“sách được ủy quyền” hoặc “sách được phê
duyệt” để sử dụng tại trường, hiệu trưởng
phải tiến hành các cuộc thảo luận hoặc
các buổi tư vấn để lấy ý kiến của hội đồng
trường và các nhân viên nhà trường. Các
cuộc họp thảo luận phải có mặt ít nhất hai
phần ba thành viên ban chỉ đạo của trường
và phải đạt được sự biểu quyết tán thành của
ít nhất hai phần ba số thành viên có mặt tại
buổi họp thì sách mới được chọn17. Ngoài
ra, để minh bạch, trước khi thực hiện hoạt
động ủy quyền xuất bản sách, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục phải thông báo công khai trên cổng
thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và in trên
các nhật báo các vấn đề sau ít nhất một năm
và sáu tháng trước khi bắt đầu một năm học
mà sách được ủy quyền đó đầu tiên được sử
dụng18:
- Các loại sách giáo trình được ủy
quyền
- Năng lực của đơn vị thực hiện
- Thời gian đề nghị thực hiện
- Các tiêu chuẩn của hoạt động ủy
quyền
- Những điểm chú ý trong việc biên
soạn sách
- Số lượng bản sách được ủy quyền
- Phí ủy quyền và phương thức thanh
toán
- Các vấn đề khác cần thiết để ủy
quyền.
Quá trình biên soạn các bản sách này
sẽ được giám sát bởi những đơn vị do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục quyết định nếu xét thấy
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 18(394) T9/2019
cần thiết, như Viện Ngôn ngữ Quốc gia Hàn
Quốc và các đơn vị khác. Để quyết định
sách có được phép sử dụng hay không, Bộ
Giáo dục phải lập một hội đồng xét duyệt.
Thành phần hội đồng xem xét bên cạnh cơ
quan quản lý còn phải mời các thành phần
khác gồm: giáo viên; các chuyên gia nghiên
cứu trong lĩnh vực tương ứng; người làm
việc cho các cơ quan hành chính hoặc viện
nghiên cứu giáo dục; phụ huynh học sinh;
những người được các tổ chức xã hội liên
quan đề cử; người có chuyên môn trong việc
xuất bản sách giáo trình; các chuyên gia có
liên quan làm việc cho các cơ quan khảo sát
giá hoặc các cơ quan kế toán chi phí; những
người khác có kiến thức sâu sắc về các chủ
đề hoặc sách có liên quan19.
Nếu bộ sách được xác nhận ủy quyền
cho phép sử dụng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
phải công bố công khai các thông tin sau
trong Công báo quốc gia: tên sách được
ủy quyền; ngày và số của từng loại sách
ủy quyền; số lượng bản in, hình thức in, số
lượng trang, số tập trên mỗi ðầu sách, môi
19 Điều 19 Quy định về Sách giáo khoa, được sửa đổi bởi Nghị định số 24423 của Tổng thống (ngày 23/3/2013).
20 Điều 11 Quy định về Sách giáo khoa, được sửa đổi bởi Nghị định số 24423 của Tổng thống (ngày 23/3/2013).
trường sử dụng (đối với bản ghi âm, hình
ảnh và tác phẩm điện tử); chất lượng giấy
và phương cách đóng sách; các loại trường
và niên học có thể sử dụng sách này; tên tác
giả; địa chỉ và tên của các nhà xuất bản20.
Như vậy, việc phân loại sách giáo khoa
thành các nhóm sách cụ thể (gồm “Sách do
Chính phủ chỉ định"; "Sách được ủy quyền"
và "Sách được phê duyệt") tại Hàn Quốc
phần nào đó đã tạo sự thuận tiện cho việc
áp dụng các cơ chế thẩm định và lựa chọn
khác nhau. Từ việc phân nhóm sách giáo
khoa cụ thể như vậy nên việc sử dụng sách
giáo khoa cho từng cấp học cũng được cân
nhắc cụ thể từng cấp học nào sẽ ưu tiên dùng
sách loại nào để đảm bảo sự nhận thức hoàn
chỉnh của học sinh với nguyên tắc lựa chọn
sách giáo khoa rất cụ thể. Đặc biệt, những
nguyên tắc về sự minh bạch trong thẩm định
và lựa chọn sách giáo khoa cũng giúp cho
hoạt động này đạt được hiệu quả cao và dễ
dàng hơn trong việc đạt được sự đồng thuận
giữa các bên trong quá trình dạy và học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) ngày
04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
- Luật Giáo dục số: 43/2019/QH14, thông qua ngày 14/6/2019.
- Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo
dục phổ thông.
- Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội ngày 21/11/2017 về Điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới.
- Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/ 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy
định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách
giáo khoa; tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.
- Luật Giáo dục Tiểu học và Trung học Hàn Quốc.
- Nghị định của Tổng thống Hàn Quốc (Presidential Decree) số 24423 (ngày 23/3/2013).
- Nghị định của Tổng thống Hàn Quốc (Presidential Decree) số 2556 (ngày 08/10/2014).
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_hoat_dong_tham_dinh_va_lua_chon_sach_giao_khoa_va.pdf